Nguyễn Bảo Hưng
Viết để tưởng niệm nhà thơ bất hạnh quá cố
Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên (1952-1992) – Tranh Đinh Cường
Ca khúc: Thà như giọt mưa; Thơ: Nguyễn Tất Nhiên; Nhạc: Phạm Duy; Tiếng hát: Duy Quang
Bản nhạc « Thà như giọt mưa » là một tình khúc như mọi người đều biết. Thế nhưng từ « tình yêu » chỉ được nhắc đến một lần (Ta hỏng tú tài, ta hụt tình yêu). Và nó cũng chỉ được sử dụng theo nghĩa thông dụng, như khi ta nói cái bằng tú tài, cái nhà, cái tủ… Còn lại, ta không hề thấy nào là : đẫm lệ, ướt mi, xót xa, đắng cay, mặn chát…, toàn là những lời lẽ rên rỉ rất được tán thưởng trong giới mộ điệu ưa nghe kể lể những mảnh tình. Chính nhờ vậy mà bản tình ca mới ướt đẫm một không khí yêu đương.
« Người từ trăm năm » là biểu tượng cho người tình muôn thuở, nhân vật không thể thiếu trong bất cứ mọi câu chuyện tình. Tượng đá là biểu tượng cho người đẹp vô tình và những câu « Thà như giọt mưa đến ôm tượng đá… » biểu tượng cho nỗi đam mê thầm kín của chàng trai si tình. Những hình tượng này dệt thành một điệp khúc buồn dàn trải trên chỉ một vài nốt nhạc vẫn khoan thai nhỏ giọt, khiến ta liên tưởng tới một nỗi buồn gậm nhấm dai dẳng.
Mỗi lần điệp khúc trở về là hình ảnh lại hiện lên rõ nét, thêm cụ thể. Từ một biểu tượng phổ quát trừu tượng, người tình muôn thuở trở nên nhân vật có hình hài (người từ trăm năm về phai tóc nhuộm), rồi biến ra cô sinh viên trường Luật, để cuối cùng xuất hiện thành thiếu nữ mang tên Duyên. Hình ảnh tuy được ống kính thu vào mỗi lúc một gần cho vóc dáng hiện ra mỗi lúc thêm đậm nét, nhưng người con gái vẫn giữ nguyên vẻ đẹp xa xăm huyền thoại. Người nghe, do đó, vẫn có thể thoải mái hình dung người đẹp lý tưởng của mình, nhờ tác giả đã không tìm cách giam hãm trí tưởng tượng của ta bằng một vài nét đặc thù (cho dù có là những nét chấm phá thơ mộng, như cặp mắt nai tròn hay nụ cười răng khểnh răng sún gì đó). Và khi bóng dáng người đẹp sáp lại gần cũng là lúc đam mê dồn dập kéo tới. Nhưng ta cũng chỉ bắt gặp những hình ảnh động tác để gợi lên chứ không hề thấy lời tìm cách diễn tả. Vì vậy đam mê càng bộc lộ được hết cường độ của nó.
Giả dụ để tỏ tình, lúc đầu tôi có ý mượn câu nói thường tình dân gian « anh yêu em hết mình », những tưởng ăn nói thiệt thà như vậy cũng đủ cho em thấy rõ cái bộ đồ lòng của tôi nó ra sao rồi. Nhưng suy đi tính lại, tôi thấy tỏ tình kiểu đó vai u thịt bắp quá, chắc khó làm mềm lòng được người em văn nghệ có đôi mắt sầu vạn cổ vẫn thích đứng khép nép bên song cửa. Bởi vậy tôi quyết định phải đi tìm lời lẽ cho được văn chương trữ tình hơn. Cuối cùng, sau khi sưu tầm một số bài hát thuộc loại top ten trong số những đĩa nhạc được mô tả là ăn khách nhất trong các giới mộ điệu thường lưu tới các phòng trà quán nhạc ca rao O.K, tôi đã gạn lọc được một số lời lẽ rất ư là lâm ly ướt át để thảo ra một bản tuyên ngôn tình ái như sau : « Em ơi ! Từ buổi được gặp em, anh vẫn đêm ngày mơ tưởng tới em nằm bên gối mộng. Anh ước ao sẽ có bữa được cùng em ngắm ánh trăng thề. Anh mong tới ngày anh được cùng em sống chung dưới túp lều tranh, anh chép văn, em may đồ. Rồi chúng ta sẽ có con đàn cháu đống, tha hồ mà lãnh trợ cấp wellfare, hạnh phúc đùm đề, sống lâu trăm tuổi… Em ơi, em ơi ! Lâu đài tinh ái đó đó, sao em không chịu đén sống cùng anh ? Để anh buồn, để anh đâm tuyệt vọng. Cuối cùng anh chỉ mong được làm con thú đi hoang để quên đi mối sầu nhân thế… ». Ối chao ôi ! Nếu tôi có diễm phúc được làm địa chỉ đáo nhậm cho mấy dòng chữ không những lênh láng văn chương mà còn đầm đìa nước mắt nước mũi, rống lên tiếng lòng nỉ non của chàng trai tơ thèm khát yêu đương khiến con tim phải co thắt bầm rập đến rớm máu ấy, chắc tôi sẽ không tránh khỏi mủi lòng và ngăn nổi đôi hàng châu rơi lã chã…(Ít ra cũng là trong giây lát). Nhưng chắc chắn tôi sẽ không tránh khỏi vấn vương thắc mắc và tò mò muốn biết để tìm hiểu nhiều hơn về mối tình câm nín của chàng trai nào đó, chỉ biết ấp ủ nỗi đam mê muốn trở thành điên loạn của mình trong mấy lời bộc lộ kín đáo như sau :
« Ta chạy vòng vòng, ta chạy mòn chân.
Nào có hay đời cạn, nào có hay cạn đời. »
Hoặc:
« Ta chạy mù đời, ta chạy tàn hơi,
Quỵ té trên đường rồi, sợi tóc vương chân cười. »
Vậy đó. Thơ không phải là một cái lon ông ổng toàn những chữ với nghĩa. Thơ chỉ có là một chuỗi hợp âm chuyên chở được một cõi lòng. Và cõi lòng ấy, Nguyễn Tất Nhiên không chỉ tìm cách khơi động cảm xúc nơi người đọc, người nghe bằng kỹ thuật biểu tượng. Anh còn khéo khai triển ý thơ theo cấu trúc của một tấu khúc cổ điển.
Một tấu khúc cổ điển là một ý nhạc được khai triển qua một số hành âm. Mỗi hành âm là một trở về với ý nhạc nguyên thủy, nhưng với một vài biến dạng để mở rộng hoặc đào sâu khiến ý nhạc thêm phát triển phong phú. Và bản nhạc, cứ thế được triển khai theo đúng qui trình phát triển của sự sống nên, khi những nốt nhạc kết thúc vang lên, người nghe có được cảm giác sung mãn như khi được theo dõi quá trình phát triển biện chứng của một nhất thể sinh động. Tinh khúc của Nguyễn Tất Nhiên cũng vậy. Toàn bài thơ phổ nhạc cũng chỉ là sự trở đi trở về của cùng một điệp khúc. Nhưng mỗi lần điệp khúc được lập lại, ý thơ trở nên rõ rệt hơn và cảm xúc cũng tăng theo. Tất cả những chuẩn bị đó chỉ nhằm dẫn dắt ta đến hình ảnh thi vị cuối cùng : Ước mơ của Nguyễn Tất Nhiên được biến thành giọt nước lăn nhẹ trên làn da có những sợi lông măng của người đẹp vô tình khiến nàng cảm nhận ra mối tình ấp ủ của anh và từ đó phải ăn năn suốt đời. Hình ảnh gợi lên đẹp thiệt đẹp. Đẹp thanh tao. Đẹp tinh khiết. Đẹp mơn trớn với tôn thờ. Đẹp lãng mạn rất ngộ nghĩnh trẻ thơ. Đẹp khiến người đọc, người nghe phải mỉm cười xúc động. Xúc động trong thoáng bâng khuâng mơ màng.
Tôi không biết Nguyễn Tất Nhiên có nghiên cứu về thi phái biểu tượng ? Anh có thích nghe nhạc cổ điển tây phương ? Nhưng nghệ thuật diễn đạt qua bản tình khúc của anh quả dã thành tựu đến mức thỏa mãn được những ai vốn có một trình độ thưởng ngoạn cao. Thực ra Nguyễn Tất Nhiên không làm thơ : anh chỉ bộc lộ chất thơ toát ra từ cuộc sống. Chính vì thê mà thơ anh đã mang tính chất thành tựu.
Cuộc sống tự nó đã là thơ rồi. Chất thơ đó bàng bạc trong từng biểu hiện đơn sơ, bình dị của đời sống hàng ngày. Nhưng vì nó quá gần gũi, đã quen thuộc nên trở thành tầm thường trước con mắt người đời. Và có lẽ chỉ những ai còn sống đơn thuần, còn sống chân phương, còn biết sống giao cảm với tự nhiên – hoặc phải là những con người có thừa kinh nghiệm sống – mới cảm nhận được chất thơ đó.
« Chúa ơi, Chúa ơi, cuộc sống là đó đó,
Đơn giản và thầm lặng.
Là những tiếng rì rầm bình thản
Đến tự nơi thành phố kìa. »
Có lẽ trong đời cần phải được một lần ngồi tù như Verlaine(8), ta mới biết thiết tha với những cái đơn sơ hèn mọn của cuộc sống hàng ngày vẫn diễn ra bên ngoài khung cửa sổ. Cũng cần phải có may mắn như ông, được ngồi hàng giờ trong bóng tối ta mới biết chiêm ngưỡng những hạt nắng lung linh trên vòm lá xanh tươi, thèm khát được làm chú chim non chiu chít trên cành. Và có lẽ chỉ những lúc phải ngồi bó gối trong căn phòng hẹp, đếm tháng ngày lặng lẽ trôi qua, ta mới có được sự tịnh tâm để đón nghe hơi thở nồng ấm của sự sống vẫn rón rén quanh ta. Rón rén sẵn sàng đến bên ta. Đến bằng những bước chân nhè nhẹ. Đến tự nơi thành phố lao xao. Đến với tiếng ngân nga từ gác chuông nhà thờ. Và có lẽ chỉ trong những giờ phút ấy, ta mới biết gục đầu nuối tiếc trong mấy tiếng nấc nghẹn ngào :
« Thế còn mi, phải chính mi đó
Sao cứ khóc than hoài.
Mi hỡi, hãy nói đi, mi đã làm chi
Với tuổi thanh xuân ấy ?
(9)
Hình tượng và lời lẽ trong mấy câu thơ của Verlaine bình dị trong sáng là thế. Vậy mà mấy câu thơ ấy vẫn làm tôi bồi hồi xúc động. Càng về sau, càng lạc vào mê lộ cuộc đời, mỗi lần bắt gặp mấy câu thơ này, tôi càng khao khát được uống nước suối nguồn, háo hức tìm về những cảm xúc nguyên thủy, chứa chan men thơ cuộc sống.
Thơ do đó không phải chỉ có là sự tìm tòi một phương thức biểu thị. Thơ chủ yếu nằm trong phong cách của cái nhìn. Nhìn bằng cạp mắt khai phá, nhìn bằng cặp mắt xuyên phá để tìm đến Chân, Thiện, Mỹ. Sau đó, nếu cần, nhà thơ mới phải đi tìm một ngôn ngữ mới để nói lên cái mình biết nhìn ra, trong khi người khác mới chỉ ngó thấy (10). Cũng bởi là tiếng nói của Chân, Thiện, Mỹ nên ngôn ngữ thơ chỉ có thể là những lời nói chân phương. Thơ không hề là một trò chơi văn chương để tạo ra ảo giác. Nó không phải là một màn biểu diễn đu bay với chữ nghĩa theo tuồng sơn đông mãi võ. Nó cũng không phải là một sự tìm tòi lời chau chuốt óng ả để đem cái diêm dúa phủ lên một vũng bầy hầy. Thơ thực ra chỉ là một khổ công tìm tòi nhằm phục hồi tiết hạnh cho chữ nghĩa ngày càng phải mang thân phận điếm thúi do người sử dụng đã quen thói dày vò đày đọa nó. Hay nói khác đi, thơ chính là biết dùng sức công phá của tiếng, của lời để làm bật dậy những nguồn sống nguyên trinh còn bị vùi lấp dưới cái vỏ cằn cỗi của những thói đời đã trở nên xếp nếp. Bởi vậy công trình sáng tạo của nhà thơ phải là đem cái nhìn xuyên phá, cái nhìn khai phá để tìm ra những vùng đát lạ hoặc khai thông cho những mạch sống còn bị vùi lấp dưới bức màn sặc sỡ của đời sống hàng ngày. Đi tìm mới lạ bằng những thủ thuật gò ép giả tạo, thật không có gì phản lại thơ cho bằng. Xét cho cùng, thơ khác với những cái không phải là thơ vì nó không dừng lại ở các hiện tượng, ở cái vỏ dáng dấp bề ngoài. Thơ không phản ánh các cách thế tồn tại trong đời sống. Thơ dẫn dắt ta tìm đến những nguồn sáng tạo của sức sống. Thơ là bản thể đời sống. Thơ thể hiện chân lý cuộc sống. Thơ chính là sự sống. Bởi vậy thơ, nếu đích thực là thơ, chẳng cần nhờ ai làm dáng cho nó cả. Vì là tiếng nói của mạch sống tuôn trào, nên thơ tự xuất hiện trong nguyên trạng của nó và gây cảm hứng nơi ta. Do đó đặc tính của thơ bao giờ cũng là năng lực truyền cảm. Ánh mắt, tiếng cười trẻ thơ vẫn làm ta rung động bởi vì men thơ cuộc sống còn được bảo toàn nguyên vẹn trong lời nói chân thật, tiếng cười nắc nẻ, tia nhìn bỡ ngỡ của trẻ thơ. Chỉ có người lớn khi cặp mắt đã đục ngầu vì những toan tính dục vọng, con tim thì khô quắt lại mới cần mút ngón tay miệng nói “em chã, em chã…” để sáng tác ra thơ. Bởi vậy, thay vì đi tìm chữ nghĩa kiểu cọ để viết lách, người làm thơ muốn được trở thành nhà thơ cần phải học sống thơ trước đã. Có biết sống thơ mới tìm được lại cho mình một tâm hồn thơ. Có tìm lại được tâm hồn thơ mới biết đem cái nhìn thơ vào đời.
Giờ ta hãy trở về với tình khúc “Thà như giọt mưa…” của Nguyễn Tất Nhiên. Lời lẽ và ý thơ trong bản tình ca đã gây ấn tượng sâu sắc cho cả một thế hệ bởi vì nó phản ánh trung thực tâm trạng thanh niên đương thời. Hồi đó người ta yêu thơ Nguyễn Tất Nhiên, người ta bị cuốn hút vào thế giới thơ anh, không phải do Nguyễn Tất Nhiên muốn sống vượt trội hơn người, muốn biến mình thành một thứ siêu sao thời đại. Trái lại, chính vì anh đã biết sống âm thầm, sống lặng lẽ. Có thể anh còn muốn sống chìm khuất hơn mọi người để có thể lắng nghe từng hơi thở, từng mạch đập của cuốc sống hàng ngày. Bởi vậy nên mỗi lời, mỗi tiếng anh dùng đều có âm thanh lanh lảnh của một kim loại được un đúc tự cuộc sống. Chúng không phải là tiếng kêu lẻng sẻng của một dúm bạc cắc vẫn được chuyền tay nhau giữa mọi người. Cũng vì vậy ta mới thấy chất thơ bộc lộ trọn vẹn ở chính các đoạn ta không tìm ra vết tích mưu tìm tác dụng văn chương trong chữ nghĩa. Có chăng chỉ toàn là tiếng, là lời tức là những âm ta tìm cách phát ra khi muốn chỉ định các sự vật ta mới phát hiện lần đầu. Chính vì thế mà các sự vật bỗng như được phục sinh trong nguyên trạng nên càng có khả năng lay động tâm hồn những ai đã từng có chung vốn sống.
Ta hãy lắng nghe mấy câu than thở như sau:
“Ta hỏng thi rồi, ta hụt tình yêu.
Thi hỏng tú tài, ta đợi ngày đi.
Đau lòng ta muốn khóc, đau lòng ta muốn khóc!
Với những ai vẫn quen với lối viết văn gồng mình hoặc chỉ tìm ra cảm xúc trước cảnh thịt rơi máu chảy trong những pha chém giết ngoạn mục còn được làm tăng choáng ngợp nhờ kỹ xảo dàn dựng hiện đại của những đại phim trường Hollywood với kinh phí kỷ lục hang trăm triệu mỹ kim, thì mấy lời than vãn ấy, chao ôi, nghe mới thấy tẻ nhạt làm sao! Thấy chúng còn hèn mọn thê thảm phát tội nghiệp. Nhưng với những con người từng bị xoáy hút trong cơn lốc của thời Nguyễn Tất Nhiên, đã phải chia sẻ những cảm xúc tâm tư như anh, thì đặt trong khuôn khổ bản tình ca, chúng lại là thơ.
Lớp trẻ Việt Nam ngày nay đã làm quen với nếp sống Âu Mỹ, lớn lên được nuôi dưỡng bằng các kỹ thuật truyền thông internet, những vũ điệu cuồng loạn theo nhạc disco. Mới nứt mắt, miệng còn hoi sữa đã thuộc nằm lòng tên các cô đào trong những bộ phim X thuộc loại hard. Đã thế lại còn thích học đòi làm Rambo thời dại, chỉ cần một cái nhìn kên nhau cũng đủ rút súng bắn loạn để chết nhiều khi thật lãng nhách; lớp trẻ đó làm sao cảm thấy nổi niềm đau nhức nhối được gói trọn trong mấy tiếng thở dài uất hận ấy.
Phải sống ở miền nam Việt Nam vào những năm đầu của thập niên 70, nơi đang diễn ra những trận đánh khốc liệt như Phan Nhật Nam đã ghi lại trong “Mùa hè đỏ lửa”. Phải có những đêm ngồi cô đơn bên tách cà phê nơi quán nhỏ đầu ngõ, lắng nghe tiếng đại bác xa xăm vọng về, để thêm xót xa cho thân phận mình và tiếc thương thằng bạn thân mới ngày nào còn hàn huyên tâm sự, nay đã có tin gục ngã nơi chiến trường.
Nhưng cũng phải có lúc được đi trên những con đường có cây dài bóng mát; những con đường mang tên Duy Tân, Thống Nhất đầy kỷ niệm. Vì nơi đây có những cô sinh viên trường Luật. Vì nơi đây có những nữ sinh trong tà áo trắng thướt tha duyên dáng. Vì nơi đây có một lần ta chợt gặp nàng thiếu nữ khẽ “nghiêng nón hé môi cười” (lời thơ Nguyên Sa). Thế là ta bỗng thấy cả một bàu trời thơ mở rộng giữa cái không khí ngột ngạt sôi động của Sài Gòn trong những ngày đầu tháng Sáu. Thế là con tim ta đang tuổi thanh xuân đã một lần xao động và bỗng tha thiết yêu đời.
Nhưng rồi cũng có lúc phải tần ngần đứng trước cổng trường thi: đầu thì choáng váng, mắt thì hoa lên vì tìm mãi không thấy tên mình trên những trang giấy đánh máy đen kịt.
Thôi thế là xong, chiếc phao cuối cùng đã tan thành bọt biển!
Thôi thế là hết, hết thật rồi! Còn gì đâu nữa mà mong mà chờ…
Đường phố đã lên đèn… Ôi! cũng con đường này ta mới đi qua, sao khi nãy ta lại thấy chan hòa ánh sáng. Sao khi nãy ta còn nghe rộn rã tiếng chim ca. Sao khi nãy lòng ta lại rộn ràng hi vọng. Vậy mà cũng con đường này, sao giờ đây ta lại thấy nó buồn thảm. Và sao ta thấy nó bỗng trở nên dài. Dài thiệt dài. Dài hun hút. Và sao cũng mãi giờ này ta mới cảm thấy cái nặng chịch của sợi xích cùn dễ đã từ lâu ta không nhớ tra dàu. Trước măt ta giờ đây chỉ còn là vực thẳm. Là cái lệnh gọi nhập ngũ đang chực sẵn ở nhà. Là chín tháng quân trường dầm mưa dãi nắng. Là nỗi hồi hộp lo âu ngày ra trường chọn đơn vị. Là một tiền đồn nào đó nơi đèo heo hút gió. Và cuối con đường có thể còn là chiếc quan tài đã chờ sẵn, trên có phủ màu cờ với vòng hoa lạnh lẽo kèm thêm bốn chữ “Tổ quốc tri ân”.
Thảm kịch của tuổi trẻ miền nam Việt Nam ở những năm đầu của thập niên 70 là thế đó. Và Nguyễn Tất Nhiên đã sống đằm mình trong thảm kịch này. Anh đã sống đầy đủ. Sống nhiệt tình. Sống trọn vẹn. Như mọi thanh niên cùng lứa tuổi.
Nếu Nguyễn Tất Nhiên học làm thơ, có thể anh đã ỉ ôi dài dòng kể lể. Có thể anh đã tập gồng mình. Có thể anh đã học đòi lộng ngôn. Có thể anh cũng lôi ra một vài khuôn sáo tuy đã mòn nhẵn, nhưng vẫn đem ra hầm lại cho chúng được chín nhừ hơn nữa. Có thể anh còn muốn chơi trội, tìm cách làm sướng cái đầu để pha chế ra một thứ ngôn từ hú họa hù hè hay ho hợm hĩnh. Với kết quả là bằng cách nào đi chăng nữa, anh cũng chỉ để lại cho người đời dăm bảy câu ca bán cao chữa mụn cóc. Nhưng Nguyễn Tất Nhiên không sống cốt đẻ làm thơ. Anh chỉ muốn được sống như thơ. Đúng ra anh đã sống chân phương, sống nhiệt tình. Sống để tiếp nhạn mọi cảm xúc trong trạng thái nguyên thủy của chúng. Chính vì vậy mà mọi cảm xúc đã đến với anh đều mạnh. Mạnh thiệt mạnh. Mạnh đến ứa lên thành lời. Để những lời đó biến thành thơ.
“Ta trượt tú tài, ta hụt tình yêu.
Thi hỏng mất rồi, ta đợi ngày đi;
Đau lòng ta muốn khóc, đau lòng ta muốn khóc!”
Vỏn vẹn chỉ có vài lời, vài tiếng thế thôi. Nhưng tình cảm sao đầy ắp. Ý tưởng lại chật ních. Còn cảm xúc thì đặc quánh lại. Cứ như một nén cao hổ cốt thứ thiệt!
Lòng mới xao động chớm biết yêu, còn chưa biết được thế nào là men say ngây ngất của tình yêu. Vậy mà trước mắt đã là cả một vực thẳm đen tối. Vậy mà trước mắt đã thấy cả một cuộc sống bị đe dọa. Thế nhưng Nguyễn Tất Nhiên vẫn không muốn biết đén tuyệt vọng. Anh tuy đã phải sống trong thất vọng. Anh tuy đã phải sống trong khổ đau. Nhưng anh không hề tuyệt vọng. Anh không tuyệt vọng vì cuộc sống với anh còn mang nhiều ý nghĩa. Anh không tuyệt vọng vì nơi đây còn có những thiếu nữ biết e ấp cười duyên làm tim anh phải xao động, cho hồn anh được mở cửa đón nhận cả một bàu trời thơ. Anh không tuyệt vọng vì nơi đây còn có những thằng bạn thân để tối tối anh được hàn huyên tâm sự bên quán cà phê đầu ngõ. Bởi vậy người đẹp dẫu có vô tình, cuộc đời tuy có bạc đãi, nhưng Nguyễn Tất Nhiên vẫn thấy thương đời. Bởi vậy đêm đêm tiếng đại bác càng vọng về đe dọa, anh lại càng thèm sống, càng khao khát sống. Và anh đã không ngần ngại thốt lên:
“Có còn hơn không!
Có còn hơn không!”
Bốn chữ “Có còn hơn không, có còn hơn không” , lập đi lập lại như một nhắc nhở thiết thân, thực ra đã nói lên sự gắn bó không rời của anh với sự sống. Nguyễn Tất Nhiên vẫn muốn sống, còn ham sống vì dẫu sao cuộc sống nơi đây với anh vẫn còn ý nghĩa. Nguyễn Tất Nhiên vẫn còn thèm sống vì nơi đây anh không cảm thấy phải sống trân trân, sống như một hiện diện ù lì, sống như một tồn tại thừa thãi vô vị, sông như một đống thịt chỉ biết hưởng thụ, sống cốt để đến lúc toàn thân đã run lẩy bẩy, hai chân còn muốn đạp tanh tách để cốt vớt vát ựa thêm ra được một chút khoái lạc. Không! Nguyễn Tất Nhiên không muốn sống để cốt chỉ được có vậy. Sở dĩ anh không sợ sống, chưa biết chán sống vì anh cảm thấy con tim anh còn biết co thắt làm mạch máu anh vẫn chảy mạnh. Anh vẫn khao khát sống vì cảm thấy nơi anh còn rạt rào cảm xúc, cho dù là những cảm xúc của thất vọng, của buồn tủi, của khắc khoải lo âu. Bởi vậy anh sẵn sàng sống. Sống để chấp nhận, chấp nhận tất cả. Chấp nhận sống để phải yêu trong câm nín. Chấp nhận sống để phải tiếc thương những thằng bạn thân. Chấp nhận sống để phải xót xa cho thân phận mình. Chấp nhận sống để được tham dự vào thẩm kịch lớn của thời đại. Sống! Sống! Sống! Sống như một chấp nhận. Chấp nhận sống để ít ra cũng đảm nhiệm trọn vẹn thân phận con người.
“Có còn hơn không!
Có còn hơn không!”
Điệp khúc này ta cần hiểu như tuyên ngôn của một ý thức hiện hữu, chứ không phải là tiếng thở dài cam phận của một kiếp sống vật vờ.
Nhận thức được ý nghĩa cảm xúc bộc lộ qua bàn tình ca này làm thức dậy nơi tôi sự ham muốn tìm hiểu sâu xa hơn về con người anh, về hành trình còn lại của đời anh, về quyết định tối hậu ra đi của anh và về ý nghĩa của sự lựa chọn này. (Còn tiếp)
Nguyễn Bảo Hưng
Nguồn: Tác giả gửi
(8) Paul Verlaine (1844-1896), bạn đồng tính luyến ái với Arthur Rimbaud. Trong một vụ say sưa cãi vã với Rimbaud tại Bruxelles (1873), ông đã nổ súng làm bị thương Rimbaud và bị án hai năm tù. Về mặt thi pháp, bài “Art poétique”(1874) của ông được coi là môt tuyên ngôn biểu tượng (manifeste symboliste) khi ông nhấn mạnh tới vai trò của nhạc điệu (la musique) trong thơ và kêu gọi nhà thơ phải chú trọng tới việc vận dụng âm hưởng, sắc thái (nuance) để gợi cảm, gợi ý thay vì chỉ bằng diễn ngôn trí tuệ
(9) Trích từ bài thơ nổi tiếng của Verlaine trong tập Sagesse mà chúng tôi xin ghi lại nguyên bản :
“Le ciel est, par-dessus le toit,
Si bleu, si calme !
Un arbre, par-dessus le toit,
Berce sa palme.
La cloche dans le ciel qu’on voit,
Doucement tinte,
Un oiseau, sur l’arbre qu’on voit,
Chante sa plainte.
Mon Dieu, mon Dieu, la vie est là,
Simple et tranquille.
Cette paisible rumeur-là,
Vient de la ville.
_ Qu’as-tu fait, ô toi que voilà
Pleurant sans cesse,
Dis, qu’as-tu fait, toi que voilà
De ta jeunesse ?
Verlaine, Sagesse 111,6 (Messein, éditeur)
(10) Buổi sáng mặt trời mọc ở phương đông và lặn ở phương tây, cái hiện tượng sờ sờ trước mắt ấy người lớn con nít ai mà chẳng ngó thấy ; nhưng liệu mấy ai có được cặp mắt khai phá (hay cặp mắt thơ) của một Copernic, một Galilée để nhìn ra luật hấp lực cho phép giải thích sự chuyển động của trái đất quanh mặt trời ? Bởi vậy cái mới vi tất phải là cái chưa từng có hoặc chưa hề thấy : cái mới nhiều khi lại là cái vẫn có đó, nhưng không phải điều mà mọi người tưởng rằng đã biết rồi (khổ lắm nói mãi), mà là cái vẫn đang chờ có người biết nhìn ra.