Bí Ẩn 30.4.1975 - Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy & Linh Mục Cao văn Luận
05 Tháng Ba 201212:00 SA(Xem: 7466)
Kinh chuyen den quy vi, vi sap den ngay 30/04 nhu
muon tim lai cai nguyen nhan dau thuong cua dat nuoc....
Bí
Ẩn 30.4.1975
Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy &
Linh Mục Cao văn Luận
1) Mở đầu
Đối với đa số người Việt đã từng sống trải
qua, ngày 30.04.1975 là một biến cố đau thương nhứt của
một đời người. Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy - một bình
luận gia am tường mọi biến chuyển quốc tế, từng nổi
tiếng với những bài nhận định thời cuộc "Tình hình thế giới trong tháng vừa qua" đăng tải trên nhiều tờ báo tại Âu Mỹ - đã đề
cập công khai trực tiếp hoặc kín đáo gián tiếp trả lời
những câu hỏi về biến cố lịch sử đặc biệt nêu trên.
Từ hồi còn là sinh viên, chúng tôi được
tiếp xúc với Giáo sư Huy và đã may mắn có nhiều dịp hàn
huyên đối thoại ghi nhận được những chi tiết rất đặc
biệt. Sau khi Giáo sư Huy qua đời vào ngày 28.07.1990,
chúng tôi đã đảm trách nối tiếp Giáo sư Huy hàng tháng
viết bài nhận định thời cuộc "Tình
hình thế giới trong tháng vừa qua" kéo dài trên 5 năm trên nguyệt san Tự Do Dân
Bản tại Hoa Kỳ. Nhân dịp đó, chúng tôi đã phải nghiên
cứu các sáng tác của cố Giáo sư để nắm vững thêm mọi vấn
đề. Nhờ vậy, chúng tôi mới cảm nhận và thấy được tầm
kiến thức rất uyên bác, rất đa diện của Giáo sư Huy mà
hiếm ai cùng thời có được (xin
xem thêm phần phụ lục phía dưới về tiểu sử). Nổi bật nhứt là những viễn kiến và phân tích
độc đáo về các biến cố lịch sử trên thế giới.
2) Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975?
Câu hỏi lịch sử này cũng đã được bàn cãi
sôi nổi từ 35 năm qua và chưa đi đến một kết luận nào
hữu lý để được mọi khuynh hướng chấp thuận. Điển hình
nhứt là ngay trong dịp Hội Thảo "Việt
Nam, 35 Năm Nhìn Lại" (“Vietnam – a 35 Year Retrospective
Conference”) tại Washington
D.C. vào ngày 9.4.2010 vừa qua quy tụ gần 200 nhân vật
với thành phần nổi tiếng như cựu Đại sứ Bùi Diễm, cựu
Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ Stephen Randolph, Trung
tá biệt cách dù Nguyễn Văn Lân, Thứ trưởng John
Negroponte, Sử gia Dale Andrade, Tiến sĩ John Carland,
Cựu Bộ trưởng Hoàng Đức Nhã, Đại tá Trần Minh Công, Đại
tá Hoàng Ngọc Lung... cũng không đưa ra được câu trả lời
thỏa mãn cho sự thắc mắc: Ai đã
gây ra thảm họa 30.04.1975?
Nhìn trở lại, người ta có thể thấy rõ ràng
trong thời gian đầu ngay sau 30.04.1975, phần lớn các
khuynh hướng, từ chính trị đến tôn giáo, đều tìm cách đổ
trách nhiệm lẫn cho nhau về tội đã làm mất miền Nam. Chỉ
có Giáo sư Huy là sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã
khiến xảy ra thảm họa 30.04.1975. Trong dịp tái ngộ cùng
Giáo sư Huy vào năm 1982, chúng tôi có hỏi đến vấn đề
nhức nhối này và được Giáo sư Huy trả lời cho biết
nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam!) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Tuy nhiên
thảm họa 30.04.1975 xảy ra bất ngờ hơn mọi người đã dự
đoán bởi vì vụ xì căng đan Watergate dẫn tới sự từ chức
của Tổng Thống Nixon vào ngày 9.8.1974 đã làm tê liệt
mọi cố gắng để cứu vãng tình thế.
Về thế lực nào ở Hoa Kỳ đứng sau kế hoạch
bỏ rơi miền Nam, Giáo sư Huy cho biết trên chính trường
Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ
Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái.
- Trong dòng lịch sử, Cộng Đồng Người Mỹ
gốc Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng
Thống.
- Bên cạnh đó Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do
Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong
guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được nhiều
nhân sự vào bên hành pháp cũng như lập pháp. Trong các
bộ quan trọng nhứt như ngoại giao, quốc phòng và tài
chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và
nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm
giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ
và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy,
thế lực của Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã
khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh
vực quyền lợi của Do Thái.
Tham
dự Hòa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng
Kissinger (một
người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh
cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương quyết
muốn thỏa hiệp riêng ("đi
đêm"!) với
CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền
Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà
Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị
gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế
hoạch rõ rệt. Như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là
chủ trương của thế lực Do Thái.
Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải
chỉ thuần túy Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc
dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến
Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow... với
tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc
gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác
tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu
hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan tình
báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới ( - World Jewish Congress - từ năm 2007 đứng
đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder
người Mỹ gốc Do Thái ) .
Ngoài ra, Giáo sư Huy còn chỉ dẩn cho chúng tôi nhận
biết được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to
loại diều hâu, điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc
Nữ Ngoại trưởng Albright. Những
tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với
nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908 - 1986) nhân
dịp tái bản tác phẩm Bên Giòng Lịch Sử cũng cho rằng
thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa Kỳ phải rút
quân ra khỏi Việt Nam. Riêng dư luận báo chí
quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi
miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến
Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là
nhằm thay đổi màu da tử sĩ!), nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân
được an toàn!).
Như vậy thảm họa
30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có
chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái
thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua Kissinger.
3) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ
rơi miền Nam?
a) Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ
Đối với chúng tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ
và đầy ngạc nhiên khi được Giáo sư Huy vào năm 1982 cho
biết đến vai trò thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và
gốc Do Thái trên chính trường Hoa Kỳ. Sau này sinh hoạt
lâu năm tại Hoa Kỳ và qua nghiên cứu, chúng tôi công
nhận thấy Giáo sư Huy hoàn toàn đúng.
Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng
Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website:http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Irish_Americans) mà trong đó có Tổng Thống Washington và những
Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả
Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc
Ái Nhĩ Lan)
Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng
Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc
Do Thái (xem website http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_politicians#List). Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy
thế lực Do Thái tại Mỹ còn lớn hơn nhiều. Họ thành công
trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ
phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như:
- trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với
tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái (so sánh chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là
ông Cao Quang Ánh!).
- trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry
Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine
Albright dưới thời TT Clinton...
- trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James
Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford.
- trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry
Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton.
- trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch
dưới thời TT Reagan.
- trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi
Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben
Bernanke từ 2006 đến nay.
Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân
hàng, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh,
truyền hình, và điện ảnh...
Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trong
nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do
Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn
viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Steven
Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas,
Harrison Ford... (xem website: http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_entertainers). Họ biết rõ rằng nắm được truyền thông trong
tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu
phục vụ quyền lợi cho nguời Do Thái. Họ còn điều khiển
một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lược nhằm đưa ra
những đề nghị cho chính sách tương lai cho chánh phủ Mỹ
và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của người Do
Thái.
Ngoài ra tại các cường quốc Âu Châu, thế
lực Do Thái có ảnh hưởng tuy âm thầm nhưng cũng mạnh mẽ
lắm . Điển hình nhứt là Tổng Thống Sarkozy ( Pháp ) & Thủ
Tướng Đức Schmidt ( Đức ) đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên tiếng
thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại
Trung Đông . Chính vì vậy đa số thành viên Liên Hiệp
Quốc đã cho rằng thế lực Do Thái có ảnh hưởng quá lớn
đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các cường
quốc Âu Mỹ . b) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa
Kỳ phủi tay bỏ miền Nam?
Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch
sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm
135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu
vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó
thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt
dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội
Judas chính là một người Do Thái. Chính vì chuyện này đã
làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong.
Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái
Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học
giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại
Basel (Thụy sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút
trở về quê hương Palestine. Thế Chiến thứ 2 và với sự
yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một
thuở để họ dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần
2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ
đã lên tiếng công nhân quốc gia mới này, bất chấp mọi
chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu hiệu cho
Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc
gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau
này.
Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay
là nhờ Hoa Kỳ làm "lá bùa hộ
mạng". Nhiều nghị quyết tại
Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung
Đông chỉ vì duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto)
nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết
(phản bội!) bỏ rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam,
Đài Loan... , nhưng luôn luôn "sống
chết" hết lòng với Do Thái,
mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích gì về
tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà trái
lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm
khích (mang họa vào thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số
rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa . Tất
cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do Thái nắm giữ được các
bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải
luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của
quốc gia Do Thái.
Từ
đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái
muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì
họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến
trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không
còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái
tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho
nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền
Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực
hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng
bước một.
c) Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ
bỏ rơi miền Nam.
Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng
tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc
nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông
Averell Harriman (đặc trách bộ
phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell
Harriman (1891 - 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng
gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của
đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn
ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở
Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực lượng
CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại
Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân
lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975.
Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng
ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa
Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Thế
lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh
phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính
sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên
họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên
ngoài dư luận quần chúng.
Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn
bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội
tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ... bắt đầu gây tử thương
nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ
kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi ( thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn
Ngọc Loan! ) của chiến tranh
được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ -đa
số gốc Do Thái quản trị-
khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản
chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những
tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia
khác.
Tướng độc nhởn Moshe Dayan -Bộ trưởng Quốc
phòng của Do Thái- đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang
đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến "hành
quân" chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết
ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không
thể thắng cuộc chiến này được ( rất
là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN
chỉ có 1 ngày , mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp
như vậy ! ) . Dĩ nhiên lời
đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào
phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc
thay sau này và mới năm ngoái đây, vẫn còn có những ký
giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và
đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó
chính là một trong những thủ phạm đã góp phần "khai tử"
miền Nam! Phong trào phản chiến càng lên cao và đã
khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết
định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch
liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng
cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử. Vì vậy
thế lực Do Thái đã gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố
vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống
đốc New York) đang vận động
ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng
Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng
thăng cử làm Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ
đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An
ninh.
Thế lực Do Thái còn đưa được thêm nhân sự
gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể
nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn
đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925
- 1999)... Với những chức vụ
then chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi
miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến
Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm
con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa
Kỳ tại miền Nam.
Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung
Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và
đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và
Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước
Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính
trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm
sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền
Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng.
Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm,
Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh
mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép
buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để
quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư
luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Kissinger
và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền
Nam Việt Nam.
Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề
trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John
Ehrlichmann của T.T Nixon như sau: "Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH)
may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất". Tương tự , Kissinger đã trấn an T.T Nixon là:
“ Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào
đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm
sau, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa . Vì lúc ấy,
Việt nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng ”.
Bởi
vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng
như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do
Thái.
Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng,
cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và
các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong
lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số
lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn
có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có
Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp
Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên,
sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng
Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận. 4) Kết luận
Biến
cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho
thấy thế lực Do Thái nhìn rất xa và rất có lý với
nỗi lo sợ Hoa Kỳ vì bị sa lầy ở chiến trường Việt
Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái
thắng trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc
nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ
trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh đạo
Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam.
Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ
phải rút quân bỏ rơi miến Nam được che dấu tinh vi không
đưa ra dư luận nổi , bởi vì phần lớn hệ thống truyền
thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái
hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc
sợ bị mang tiếng bài Do Thái ( Anti-Semitism ) . Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn còn bị
xí gạt.
Điển hình , về phía dư luận ngoại quốc vẫn
còn có những học giả ( thí dụ :
Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo "Việt Nam, 35
Năm Nhìn Lại" (“Vietnam – a 35 Year Retrospective
Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 ) lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa Kỳ vào năm
1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút
quân ra khỏi miền Nam ( chịu
thua ! ) vì đang câu con cá
to hơn ( “has bigger fish to
fry” ) . Thực tế Hoa Kỳ đã
có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kssinger bước vào Tòa
Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam Hóa Chiến Tranh .
Về phía Cộng Sản Bắc Việt , ngoại trừ lợi
thế sẵn có của đường lối độc tài cuồng tín trong chiến
tranh dám vô nhân đạo dùng chiến thuật biển người hy
sinh " nướng quân " hàng loạt trên chiến trường ( theo nhận xét của Tướng Westmoreland ! ) , họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu
của thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới
tình trạng " Đồng Minh tháo
chạy " ( từ ngữ theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Đức !) bỏ rơi VNCH . Thực tế , nếu không có sự phản
bội của thế lực Do Thái qua sự nắm quyền của ê kíp
Kissinger thì chưa chắc gì Cộng Sản Bắc Việt sớm thắng
trận . Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho
đến khi Tổng Thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo
xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn
miền Nam sẽ được yểm trợ đầy đủ ( đã
xảy ra như vậy tại Nam Mỹ và A Phú Hản ! ) để không thể dể dàng rơi vào tay cộng sản như
đã xảy ra trong ngày 30.4.1975.
Đa số người Việt chúng ta đều có tâm tình
thiện cảm với dân tộc Do Thái ( một
phần bị ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh " Về miền đất
hứa / Exodus " của tác giả Leon Uris ) vì ngưỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu
dũng cảm của họ sau 2000 năm lưu vong đã thành công trở
về tái dựng lại quốc gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trước
mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ. Cũng trong cảm tình
nồng nàn đó , Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968 mang
sức ra viết tác phẩm " Bài học
Israel ( Do Thái ) " . Nhưng
thực tế chính trị cho thấy tham vọng thủ đoạn của Do
Thái sau khi tái lập quốc , nên chính ông đã không ngần
ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm trạng
của chúng tôi khi biết qua Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và
Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mưu sâu của thế lực Do
Thái khiến xảy ra thảm họa 30.4.1975 cho quê hương Việt
Nam và dẩn tới hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng.
Chúng
tôi tin rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao
Văn Luận đã đi bước tiên phong đầu tiên tiết lộ
những bí ẩn về thảm họa 30.4.1975 và trong tương lai
sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu
khai triển tích cực để lịch sử Việt Nam và thế giới
mai sau không còn bị sai lầm nữa. Mong thay !
Nhưng thật là bất ngờ, bất ngờ đến kinh ngạc, khi qua tài liệu đính kèm của tác giả Nguyễn văn Luận, chúng ta được biết kiệt tác của lịch sử này đã được hoàn thành bởi… một người.
Tôi rất hy vọng những nỗ lực và thành quả của giới trí thức tỵ nạn Việt Nam như bộ Dòng Việt (GS Lê Văn), sách và bài viết về ngữ học, văn phạm, tự điển
Ngày 2 tháng 4 năm 1972, Đại tướng Fred C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ và Thiếu tướng Verne L. Bowers, Phụ tá Tham mưu trưởng Lục quân ký thay Tổng thống ân thưởng
ông sếp tôi ủng hộ tất cả những gì tổng thống đắc cử Trump làm, vì (ông) biết Tổng Thống Trump là người sẵn sàng làm tất cả mọi chuyện, miễn là đạt kết quả
“chính Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đất nước vượt qua thời kỳ khó khăn sau chiến tranh,” còn theo đại tá Hà thì “Đảng chỉ còn vai trò kìm hãm xã hội thôi
Con sông Đồng Nai đã đưa ta đến tỉnh Biên Hòa (hòa bình ở biên cương), một trấn đã được sáp nhập vào nước ta năm 1653. Khoảng đất này xưa được gọi là Đông Phố
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.