cảm thức vô hình
tôn thất tuệ
Hôm kia (Dec 9, 2012) tôi nhận một
email, một thân hữu gởi chung ba người. Chẳng có gì, chị ấy nói đang ở Toronto và tối sẽ trở về Montreal. Tôi không quen chị ấy, không có một ý
niệm gì ngoài tin tưởng chị người Huế và dân Đồng Khánh Quốc Học. Bỗng dưng, một nỗi sầu – không đúng vì thiếu chữ; một kinh nghiệm tâm linh? –
quấn lấy tôi, nó không đau đớn như móng sắc đau, nhưng thâm sâu lắm. Tôi định thần thì thấy như có cái cảm quan cũ ngày trước, nhân khi lần đầu tiên nghe khúc nhạc ngắn Thais của Massenet. Những dòng điện đi từ ngực ra đến đầu ngón tay ngón chân, như một suối nguồn
đưa nước về các nhánh sông. Khó tả, nó mang tính chất huyền nhiệm, một thứ mysticism, cọng với tiếng phong linh mơ hồ trong chiều đông.
Mỗi lần nằm mộng thấy
người quen tôi hay nói cho vợ biết để cùng cầu nguyện. Người trong mộng
có thể là nhân vật hai đứa đều biết hay chỉ một mình tôi biết trên đời.
Có khi là ông đưa thơ, có khi là ông chú, bà cô, có khi là cô bạn học lúc mới lên đệ thất. Sau giấc mơ tôi thường thức dậy, tiếp
tục cười, tiếp tục vui, tiếp tục buồn chốc lác rồi thôi, và chỉ giữ lại
nét mặt để kể cho vợ. Nhưng đây, chị ấy tôi chưa biết hình dáng, chỉ là
một être, một being, một hiện tồn và không đến từ một giấc mơ.
Tự nhiên tôi hình tượng một con người đi từ Toronto về Montreal; hai
nơi nầy rất xa lạ so với các nơi tôi chưa đến nhưng có nghe nói hay đọc
về địa dư. Tàu bay? Tàu điện? xe hơi? Freeway láng bóng hay sần sù? Tuyết phủ hay đá trơn?
Những
nét xa lạ ấy không phải là nền tảng của một nỗi suy cảm khó diễn tả. Khắp nơi các phương tiện giao thông, về căn bản, đều giống nhau; không cẩm lệ mụ Thôi thì cẩm lệ mụ Cửu Ới. Không McDonald thì Burger King. Trên những con đường quen tôi vẫn có những bâng khuâng rất bâng quơ.
Lên
về Atlanta thăm con thăm cháu hay mua thực phẩm, tôi phải dùng freeway 75, một trong hai con lộ chính của sườn đông như freeway 5 ở
sườn tây Mỹ. Sau cái ồn ào tấp nập của đảng người bay là con đường tiểu
bang chỉ có hai lối ngược nhau nhưng vẫn được lái 55 miles. Hạ sơn và qui ẩn chỉ trong một ngày, cho nên tôi đều trở về khi chiều xuống chậm, hàng cây ngả nắng làm cho đường nhựa đen hơn. Ai cũng mở đèn an toàn như
tối lắm.
Vì
chỉ một lối cho nên chậm nhanh tùy xe trước mình. Tôi thường đi sau. Tỉnh lộ 140 chạy đông tây, có những ngõ rẽ, phần nhiều khá ngắn như những ngõ cụt; khách đi qua khó biết dài ngắn vì cây che khuất, nhà cửa lưa thưa trên những trang trại nhỏ. Nông cơ nông cụ cũ gỉ sét được kéo ra trước nhà làm vật trang hoàng. Đã mấy chục năm nay giới nhà nông đã bỏ nghề, đi làm công ở các hãng xưởng dọc các freeway nhưng vẫn ở nhà cũ
còn giữ nguyên thời thịnh nông, với cái vựa (barn), chuồng ngựa, những bành cỏ chờ mục…
Những
người làm công ấy chạy trước tôi. Đến một khúc quanh có người đổi hướng, cả đoàn phải dừng lại. Tôi nhìn chiếc xe kia từ tốn vào vùng đất riêng. Xe ấy ra khỏi dòng luân lưu chung. Với tôi đó là một lần chia tay. Nó mang tính chất ngậm ngùi, như những ngày trước tết và sau tết tôi thường lên ga Huế đón đưa chung đoàn người không quen về quê và xa quê để bắt đầu một năm nữa. Tuy là cảnh thương vay, nó vẫn đầy âm hưởng bền dai.
Tôi
cảm thấy yên ổn vì những người vừa tách riêng ấy đã về được nhà. Có nơi
mấy đứa bé núp sau lùm cây dọa ma và người về giả bộ sợ thật, ngả đùng ra sân để chung cười sung sướng. Có người đưa tay chùi trán mà hiểu lời dạy cùa tiền nhân: Que tu gagnes ton pain par la sueur de ton front, trước khi bình thản bước vào home sweet home, để quên đi ban sáng ông chủ đã chửi mình thậm tệ một cách vô lý.
Tôi
cảm thấy yên ổn vì nó ứng hiện lời cầu nguyện của vợ chồng tôi vào các thời kinh: xin mọi người được bình an, đi tới nơi về tới chốn. Và tôi hưởng sự bình an để đem con ngựa sắt chạy thêm 40 miles về đến nhà. Vội vã chạy xuống green house đốt lửa cho khói thật nhiều để người đi bên ngoài nhìn vào thấy ấm, mất đi cái lạnh lùng nêu trong cổ thi: kim dạ hà xứ túc, bình sa vạn lý tuyệt nhân yên. (đêm nay ta ngụ nơi nào, trước mắt cát bằng ngàn dặm, không thấy khói nấu cơm chiều).
Tôi
vẫn sống trong những cái lẩm cẩm vu vơ, lắm khi quên ăn để chứng nghiệm
một bài thơ, để tìm hiểu sự khác biệt và đồng nhất, ví dụ đồng nhất là chống lạnh nhưng vịt thì xuống hồ ngủ trên nước đá mà gà thì chui vào ổ rơm. Tôi vẫn sống trong những cảm nghiệm vô hình đầy tính chất linh khải
của một tình người vô lượng vô biên, nhưng dè dặt luôn tự hỏi mình có còn, có có tâm cảm hay không.
Chiều
hôm kia, giữa cánh đồng cỏ vàng như lúa chín, giữa cái nắng yếu tranh dành không gian với sương núi, giữa những tiếng phong kinh kêu gọi, tôi vẫn dành tâm cảm cho chị ấy đang còn ở Toronto. (Ước mong) trên đường về
Montreal, sau chị có một người. Không phải là kẻ si tình, không phải là
kẻ quấy nhiễu, mà là một ange gardien bảo vệ chị, không dùng súng, mà bằng một ý lực tình người. Que tu sois protégée.-------
Massenet’s Meditation. (link)
Gửi ý kiến của bạn