Tôi được sinh ra và lớn lên ở Cù Lao Phố của quê hương xứ Bưởi, nơi có dòng sông Đồng Nai bao bọc xung quanh với ruộng lúa xanh tươi và cây ngọt trái lành. Đối
với tôi, thời thơ dại là phần đời đẹp nhất trong nửa quãng đời sống ở quê nhà và lại càng có ý nghĩa hơn khi nửa quãng đời còn lại làm thân lưu lạc nơi xứ người.
Không biết Tổ Tiên tôi đã định cư ở đất Cù Lao từ lúc nào? Tôi chỉ biết rằng mảnh đất nầy đã ôm ấp hình hài của Ông Bà Cố, Ông Bà Nội và cả Cha Mẹ tôi nữa. Đó là lý do dù có sống nơi đất khách bao lâu chăng nữa thì con tim của tôi vẫn còn niềm thương nhớ khôn nguôi chốn quê nhà như một điều gì thiêng liêng không thể chối bỏ.
Thuở Ba tôi mới lớn, sau khi học xong trung học thì lại có việc làm ở Saigon nên phải chuyển về đó sinh sống. Hàng tuần vẫn về Biên Hòa thăm Cha Mẹ. Rồi Ba tôi lập gia đình và vẫn sống ở Saigon cho đến khi năm đứa con lần lượt ra đời, được dưỡng nuôi và lớn lên ở quê Nội. Ông Nội tôi mất khi anh Hai tôi mới vài tháng tuổi nên trong tôi hình ảnh của ông Nội rất mơ hồ. Tôi chỉ biết ông Nội là người có tấm hình mà gia đình đang thờ phượng, thế thôi! Còn hình ảnh bà Nội tôi luôn khắc sâu trong trí nhớ vì Bà đã thay Cha Mẹ tôi chăm sóc cả một đàn cháu nhỏ từ lúc sinh ra cho đến khi học xong trung học. Bên cạnh bà Nội là cô Hai - chị cả của Ba tôi - mà anh em tôi gọi là má Hai để phân biệt với má ruột của tôi là má Sáu vì Ba tôi thứ sáu. Bà Nội và má Hai là hai người đàn bà thân thương và kính mến đã đi sâu vào tâm hồn tôi qua những kỷ niệm của thời thơ ấu. Còn má Sáu của tôi cũng là người tôi yêu kính lại gắn liền với phần đời của tôi lúc trưởng thành.
Khi tôi được sáu tuổi, vào học lớp Năm của ngôi trường làng Hiệp Hòa thì má Hai là người đưa tôi đến trường trong buổi học đầu tiên. Tôi cũng mang tâm trạng bỡ ngỡ trong ngày khai trường như tác giả Thanh Tịnh đã ghi lại trong tác phẩm “Tôi Đi Học”. Năm ấy, tôi được học cô Năm Châu, người chuyên dạy lớp Năm nhiều năm và rất nghiêm khắc với học trò nên đứa nào cũng sợ và răm rắp nghe theo lời Cô. Vì trường nhỏ, mỗi cấp lớp chỉ có một lớp nam và một lớp nữ nên hầu như học sinh nữ cả làng đều phải qua tay Cô dạy học ở lớp Năm. Cô tuy nghiêm khắc nhưng rất thương học trò và tận tâm dạy dỗ nên thuở ấy tuy không qua lớp mẫu giáo mà học trò lớp Năm nào cũng biết đọc và biết viết để chuẩn bị lên lớp Tư.
Khi ở nhà tôi sống bên cạnh bà Nội và má Hai, đến trường thì được cô giáo dạy dỗ nên tôi cảm thấy rất gần gũi với Cô trong suốt năm học đầu tiên của bậc tiểu học. Đến
năm lớp Tư thì được học thầy giáo Ngàn cũng là vị Thầy đầu tiên của quãng đời học sinh. Tưởng đâu Thầy nghiêm khắc hơn cô Năm nhưng thực sự Thầy có phần dễ dãi hơn
và thương yêu chúng tôi như con. Sẵn có nề nếp từ lớp Năm nên tôi chăm học và có kỷ luật, vì vậy tôi ít bị Thầy rầy la hay quở phạt.
Đến lớp Ba thì tôi học cô Năm Tích, cũng nghiêm khắc như cô Năm Châu và hay đánh đòn học trò những đứa ham chơi và lười học. Trái lại, những đứa giỏi ngoan thì Cô rất thương và khen ngợi trước lớp. Vì sợ đòn nên bọn con gái chúng tôi đều ráng học cho giỏi. Một điểm đặc biệt, khi lớp Cô có nhiều học sinh trùng tên thì Cô thường gọi tên và họ chung với nhau cho dễ nhớ. Vậy mà những cái tên đó theo chúng tôi cho đến khi lên bậc trung học lúc bạn bè cũ gặp lại nhau. Nào là Hoa Đỗ, Hoa Ngô, Hoa Phan, Hoa Dương, Hoa Đào… nào là Hạnh Phạm, Hạnh Nguyễn; Loan Đào, Loan Lê; Phụng Phạm, Phụng Lê; Gái Lôi, Gái Nguyễn…
Lên lớp Nhì thì tôi không nhớ tên thầy cô giáo, có lẽ không phải là người ở Cù Lao. Còn cô Năm Châu ở ấp Nhất Hòa, cô Năm Tích ở ấp Nhị Hòa nên tôi vẫn còn nhớ nhà của hai Cô. Nhà thầy Ngàn ở gần trường nên học sinh nào cũng biết nhà Thầy. Đặc biệt khi lên lớp Nhất thì tôi học cô Trần Thị Hai, Cô ở nơi khác và mới ra trường Sư Phạm Cộng Đồng Long An về dạy ở trường Hiệp Hòa. Cô còn rất trẻ, dáng người cao ráo và có mái tóc dài thật đẹp. Lúc nào Cô cũng nở nụ cười thân thiện khi tiếp xúc với mọi người. Cô dạy học rất nhiệt tình và thương yêu học trò như những đứa em trong gia đình nên chúng tôi rất quý mến Cô. Cuối năm lớp Nhất, Cô cho cả lớp chụp hình chung với Cô để làm kỷ niệm và tặng cho mỗi đứa một tấm. Cho đến bây giờ - 50 năm sau - tôi vẫn còn giữ tấm hình đó. Màu thời gian đã làm tấm ảnh vàng úa, nhạt nhòa nhưng hình ảnh của cô giáo và bạn bè thân thương năm ấy vẫn còn được lưu giữ ở một góc ký ức trong tôi. Dòng thời gian vẫn âm thầm trôi, những đứa bạn năm xưa tản mác khắp nơi, kẻ chân trời người góc biển và tất cả đã bước vào tuổi lục tuần - tuổi hoàng hôn của đời người - có lẽ đôi lúc thả hồn về dĩ vãng, nhớ lại một thời thơ dại đã qua mà chạnh lòng nuối tiếc...
Một kỷ niệm khó quên của năm học lớp Nhất là tôi được nhận giải Ba của cuộc thi Nữ Công trong dịp Lễ Hai Bà Trưng. Hàng năm, tỉnh Biên Hòa đều có tổ chức thi nhiều môn dành cho học sinh nữ toàn tỉnh nhân ngày Kỷ Niệm Hai Bà Trưng. Riêng môn Nữ Công, mỗi trường gửi một học sinh nữ lớp Nhất để dự thi ở trường Nguyễn Du và tôi hân hạnh được đại diện trường Tiểu Học Hiệp Hòa tham dự năm 1964. Nhận được giải Ba cũng là một vinh dự cho tôi và phần thưởng là một số tập vở cùng một chiếc hộp bằng sơn mài, phía ngoài có hình hai con cá vàng thật đẹp. Tôi nâng niu gìn giữ chiếc hộp thật cẩn thận suốt mấy chục năm dài và cuối cùng phải để lại Việt Nam khi lên đường sang Mỹ năm 1995. Có thể chiếc hộp đã bị thời gian làm tróc đi lớp sơn mài hay đã bị hư hỏng không sử dụng được nữa, nhưng hình ảnh cô bé nhà quê ngập ngừng bước lên trước khán đài nhận giải của ngày ấy và chiếc hộp bóng bẩy vẫn còn lưu lại trong vùng ký ức của riêng tôi.
Cũng năm học lớp Nhất, tôi được chọn vào đội múa của trường để dự thi văn nghệ của các trường toàn tỉnh Biên Hòa. Thế là sau giờ học và ngày cuối tuần, chúng tôi ráo riết tập dợt múa và hát bài “Rắc Cành Dinh”, một bài hát miền sơn cước. Tuy không giành được giải văn nghệ cho trường nhưng chúng tôi cũng được dịp thi thố tài năng với các trường làng bạn cùng với vài trường lớn của tỉnh. Đó cũng là những hoạt động nổi bật của học sinh qua sự tận tâm dìu dắt của quý Thầy Cô kính yêu.
Học xong lớp Nhất trường làng, tôi chuẩn bị thi tuyển vào lớp đệ Thất trường Trung Học Ngô Quyền. Tuy đi làm ở Saigon nhưng đến ngày thi tuyển thì Ba tôi xin nghỉ làm để đưa tôi đi thi ở Biên Hòa. Rồi đến ngày xem kết quả, Ba tôi cũng về Biên Hòa để chở tôi đi. Ba tôi rất vui mừng khi tôi thi đậu và thưởng cho tôi một bữa ăn mì ở
tiệm “Mì Chú Mừng”. Chính Ba tôi là người chở tôi đi học ngày đầu tiên ở trường Ngô Quyền cũng là lần đầu tiên tôi mặc chiếc áo dài vải trắng với quần satin đen, đội nón lá,
mang chiếc cặp da và chân mang đôi guốc mới. Ôi, cái hình ảnh thơ ngây thật dễ thương đó làm sao tôi quên được!
Giã từ những trò chơi trẻ con của trường tiểu học: đánh đũa, búng hột me, búng thun, nhảy cò cò, nhảy dây… tôi trưởng thành và điềm đạm hơn một chút khi lên bậc trung học. Tôi có thêm nhiều bạn mới ở rải rác khắp các xã của tỉnh Biên Hòa như Tân Vạn, Chợ Đồn, Hãng Dầu, Tam Hiệp, Hố Nai, Tân Mai, Bửu Long, Hóa An… Chúng tôi chơi chung với nhau và hễ có cơ hội là rủ nhau đến nhà của một bạn nào đó chơi vài tiếng đồng hồ có khi kéo dài cả buổi. Những dịp Lễ Tết thì đi chơi xa có khi cả ngày và bao giờ cũng được ba mẹ của bạn mình tiếp đón và cho ăn no mới về. Đến nhà các bạn có vườn cây ăn trái thì tha hồ mà leo lên cây hái trái chín vừa ăn vừa nô giỡn ầm ĩ. Thật là một thời niên thiếu vô tư hoa mộng!
Với tôi, thời trung học đệ nhất cấp là phần đời đẹp nhất của tuổi học trò vì đó là cái gạch nối của tiểu học và trung học đệ nhị cấp. Chúng tôi đã giã từ tuổi thơ ngây và sắp bước chân vào tuổi trưởng thành với nhiều mơ ước cho tương lai. Khi bắt đầu lên đệ Tam của bậc trung học đệ nhị cấp thì cũng là lúc tình cảm phát triển, lại học chung với nam sinh nên không tránh khỏi những mối tình học trò vụng dại. Từ đó, tâm hồn của các nữ sinh không còn trong trắng thơ ngây mà đã biết mơ mộng một bóng hình nào đó để rồi thẫn thờ và mang những nỗi buồn không tên...
Bây giờ bước vào tuổi hoàng hôn ở xứ người, khi lần giở những trang lưu bút ngày xanh, hồi tưởng lại thời nữ sinh hoa mộng với tà áo dài tha thướt của những ngày xưa thân
ái, tôi chợt thấy lòng bâng khuâng khi nhớ lại những kỷ niệm xưa cùng vài mảnh tình con lưu lại trong ký ức:
làm sao cái hình ảnh lớp học với cô giáo đứng trên bục giảng bài và phía dưới là những học sinh hồn nhiên như những trang giấy trắng! Giấc mơ đó đã trở thành hiện thực
khi tôi được trúng tuyển vào trường Quốc Gia Sư Phạm Saigon. Cuối cùng sau hai năm học, tôi đã tốt nghiệp và trở thành cô giáo, tiếp bước quý Thầy Cô dấn thân vào nghề
dạy học mà đối với tôi là một nghề tuy đạm bạc nhưng có tâm hồn cao quý.
Rời khỏi trường Sư Phạm, cầm sự vụ lệnh trong tay là tôi đã thực sự làm người trưởng thành để tự quyết định và có trách nhiệm với chính bản thân mình. Bây giờ Cha Mẹ sẽ là người cố vấn để truyền đạt những kinh nghiệm sống mà Người đã trải qua. Tôi thật sự bước vào đời với hành trang là những điều dạy dỗ của Cha Mẹ và những kiến thức Thầy Cô đã truyền đạt. Tôi mở cánh cửa tương lai, mang hành trang bước vào đời, bỏ lại sau lưng những kỷ niệm đẹp của thời thơ dại với gia đình, Thầy Cô và bè bạn…
Hát Bình Phương
với tôi, thời thơ dại là phần đời đẹp nhất trong nửa quãng đời sống ở quê nhà và lại càng có ý nghĩa hơn khi nửa quãng đời còn lại làm thân lưu lạc nơi xứ người.
Không biết Tổ Tiên tôi đã định cư ở đất Cù Lao từ lúc nào? Tôi chỉ biết rằng mảnh đất nầy đã ôm ấp hình hài của Ông Bà Cố, Ông Bà Nội và cả Cha Mẹ tôi nữa. Đó là lý do dù có sống nơi đất khách bao lâu chăng nữa thì con tim của tôi vẫn còn niềm thương nhớ khôn nguôi chốn quê nhà như một điều gì thiêng liêng không thể chối bỏ.
Thuở Ba tôi mới lớn, sau khi học xong trung học thì lại có việc làm ở Saigon nên phải chuyển về đó sinh sống. Hàng tuần vẫn về Biên Hòa thăm Cha Mẹ. Rồi Ba tôi lập gia đình và vẫn sống ở Saigon cho đến khi năm đứa con lần lượt ra đời, được dưỡng nuôi và lớn lên ở quê Nội. Ông Nội tôi mất khi anh Hai tôi mới vài tháng tuổi nên trong tôi hình ảnh của ông Nội rất mơ hồ. Tôi chỉ biết ông Nội là người có tấm hình mà gia đình đang thờ phượng, thế thôi! Còn hình ảnh bà Nội tôi luôn khắc sâu trong trí nhớ vì Bà đã thay Cha Mẹ tôi chăm sóc cả một đàn cháu nhỏ từ lúc sinh ra cho đến khi học xong trung học. Bên cạnh bà Nội là cô Hai - chị cả của Ba tôi - mà anh em tôi gọi là má Hai để phân biệt với má ruột của tôi là má Sáu vì Ba tôi thứ sáu. Bà Nội và má Hai là hai người đàn bà thân thương và kính mến đã đi sâu vào tâm hồn tôi qua những kỷ niệm của thời thơ ấu. Còn má Sáu của tôi cũng là người tôi yêu kính lại gắn liền với phần đời của tôi lúc trưởng thành.
Khi tôi được sáu tuổi, vào học lớp Năm của ngôi trường làng Hiệp Hòa thì má Hai là người đưa tôi đến trường trong buổi học đầu tiên. Tôi cũng mang tâm trạng bỡ ngỡ trong ngày khai trường như tác giả Thanh Tịnh đã ghi lại trong tác phẩm “Tôi Đi Học”. Năm ấy, tôi được học cô Năm Châu, người chuyên dạy lớp Năm nhiều năm và rất nghiêm khắc với học trò nên đứa nào cũng sợ và răm rắp nghe theo lời Cô. Vì trường nhỏ, mỗi cấp lớp chỉ có một lớp nam và một lớp nữ nên hầu như học sinh nữ cả làng đều phải qua tay Cô dạy học ở lớp Năm. Cô tuy nghiêm khắc nhưng rất thương học trò và tận tâm dạy dỗ nên thuở ấy tuy không qua lớp mẫu giáo mà học trò lớp Năm nào cũng biết đọc và biết viết để chuẩn bị lên lớp Tư.
Khi ở nhà tôi sống bên cạnh bà Nội và má Hai, đến trường thì được cô giáo dạy dỗ nên tôi cảm thấy rất gần gũi với Cô trong suốt năm học đầu tiên của bậc tiểu học. Đến
năm lớp Tư thì được học thầy giáo Ngàn cũng là vị Thầy đầu tiên của quãng đời học sinh. Tưởng đâu Thầy nghiêm khắc hơn cô Năm nhưng thực sự Thầy có phần dễ dãi hơn
và thương yêu chúng tôi như con. Sẵn có nề nếp từ lớp Năm nên tôi chăm học và có kỷ luật, vì vậy tôi ít bị Thầy rầy la hay quở phạt.
Đến lớp Ba thì tôi học cô Năm Tích, cũng nghiêm khắc như cô Năm Châu và hay đánh đòn học trò những đứa ham chơi và lười học. Trái lại, những đứa giỏi ngoan thì Cô rất thương và khen ngợi trước lớp. Vì sợ đòn nên bọn con gái chúng tôi đều ráng học cho giỏi. Một điểm đặc biệt, khi lớp Cô có nhiều học sinh trùng tên thì Cô thường gọi tên và họ chung với nhau cho dễ nhớ. Vậy mà những cái tên đó theo chúng tôi cho đến khi lên bậc trung học lúc bạn bè cũ gặp lại nhau. Nào là Hoa Đỗ, Hoa Ngô, Hoa Phan, Hoa Dương, Hoa Đào… nào là Hạnh Phạm, Hạnh Nguyễn; Loan Đào, Loan Lê; Phụng Phạm, Phụng Lê; Gái Lôi, Gái Nguyễn…
Lên lớp Nhì thì tôi không nhớ tên thầy cô giáo, có lẽ không phải là người ở Cù Lao. Còn cô Năm Châu ở ấp Nhất Hòa, cô Năm Tích ở ấp Nhị Hòa nên tôi vẫn còn nhớ nhà của hai Cô. Nhà thầy Ngàn ở gần trường nên học sinh nào cũng biết nhà Thầy. Đặc biệt khi lên lớp Nhất thì tôi học cô Trần Thị Hai, Cô ở nơi khác và mới ra trường Sư Phạm Cộng Đồng Long An về dạy ở trường Hiệp Hòa. Cô còn rất trẻ, dáng người cao ráo và có mái tóc dài thật đẹp. Lúc nào Cô cũng nở nụ cười thân thiện khi tiếp xúc với mọi người. Cô dạy học rất nhiệt tình và thương yêu học trò như những đứa em trong gia đình nên chúng tôi rất quý mến Cô. Cuối năm lớp Nhất, Cô cho cả lớp chụp hình chung với Cô để làm kỷ niệm và tặng cho mỗi đứa một tấm. Cho đến bây giờ - 50 năm sau - tôi vẫn còn giữ tấm hình đó. Màu thời gian đã làm tấm ảnh vàng úa, nhạt nhòa nhưng hình ảnh của cô giáo và bạn bè thân thương năm ấy vẫn còn được lưu giữ ở một góc ký ức trong tôi. Dòng thời gian vẫn âm thầm trôi, những đứa bạn năm xưa tản mác khắp nơi, kẻ chân trời người góc biển và tất cả đã bước vào tuổi lục tuần - tuổi hoàng hôn của đời người - có lẽ đôi lúc thả hồn về dĩ vãng, nhớ lại một thời thơ dại đã qua mà chạnh lòng nuối tiếc...
Một kỷ niệm khó quên của năm học lớp Nhất là tôi được nhận giải Ba của cuộc thi Nữ Công trong dịp Lễ Hai Bà Trưng. Hàng năm, tỉnh Biên Hòa đều có tổ chức thi nhiều môn dành cho học sinh nữ toàn tỉnh nhân ngày Kỷ Niệm Hai Bà Trưng. Riêng môn Nữ Công, mỗi trường gửi một học sinh nữ lớp Nhất để dự thi ở trường Nguyễn Du và tôi hân hạnh được đại diện trường Tiểu Học Hiệp Hòa tham dự năm 1964. Nhận được giải Ba cũng là một vinh dự cho tôi và phần thưởng là một số tập vở cùng một chiếc hộp bằng sơn mài, phía ngoài có hình hai con cá vàng thật đẹp. Tôi nâng niu gìn giữ chiếc hộp thật cẩn thận suốt mấy chục năm dài và cuối cùng phải để lại Việt Nam khi lên đường sang Mỹ năm 1995. Có thể chiếc hộp đã bị thời gian làm tróc đi lớp sơn mài hay đã bị hư hỏng không sử dụng được nữa, nhưng hình ảnh cô bé nhà quê ngập ngừng bước lên trước khán đài nhận giải của ngày ấy và chiếc hộp bóng bẩy vẫn còn lưu lại trong vùng ký ức của riêng tôi.
Cũng năm học lớp Nhất, tôi được chọn vào đội múa của trường để dự thi văn nghệ của các trường toàn tỉnh Biên Hòa. Thế là sau giờ học và ngày cuối tuần, chúng tôi ráo riết tập dợt múa và hát bài “Rắc Cành Dinh”, một bài hát miền sơn cước. Tuy không giành được giải văn nghệ cho trường nhưng chúng tôi cũng được dịp thi thố tài năng với các trường làng bạn cùng với vài trường lớn của tỉnh. Đó cũng là những hoạt động nổi bật của học sinh qua sự tận tâm dìu dắt của quý Thầy Cô kính yêu.
Học xong lớp Nhất trường làng, tôi chuẩn bị thi tuyển vào lớp đệ Thất trường Trung Học Ngô Quyền. Tuy đi làm ở Saigon nhưng đến ngày thi tuyển thì Ba tôi xin nghỉ làm để đưa tôi đi thi ở Biên Hòa. Rồi đến ngày xem kết quả, Ba tôi cũng về Biên Hòa để chở tôi đi. Ba tôi rất vui mừng khi tôi thi đậu và thưởng cho tôi một bữa ăn mì ở
tiệm “Mì Chú Mừng”. Chính Ba tôi là người chở tôi đi học ngày đầu tiên ở trường Ngô Quyền cũng là lần đầu tiên tôi mặc chiếc áo dài vải trắng với quần satin đen, đội nón lá,
mang chiếc cặp da và chân mang đôi guốc mới. Ôi, cái hình ảnh thơ ngây thật dễ thương đó làm sao tôi quên được!
Giã từ những trò chơi trẻ con của trường tiểu học: đánh đũa, búng hột me, búng thun, nhảy cò cò, nhảy dây… tôi trưởng thành và điềm đạm hơn một chút khi lên bậc trung học. Tôi có thêm nhiều bạn mới ở rải rác khắp các xã của tỉnh Biên Hòa như Tân Vạn, Chợ Đồn, Hãng Dầu, Tam Hiệp, Hố Nai, Tân Mai, Bửu Long, Hóa An… Chúng tôi chơi chung với nhau và hễ có cơ hội là rủ nhau đến nhà của một bạn nào đó chơi vài tiếng đồng hồ có khi kéo dài cả buổi. Những dịp Lễ Tết thì đi chơi xa có khi cả ngày và bao giờ cũng được ba mẹ của bạn mình tiếp đón và cho ăn no mới về. Đến nhà các bạn có vườn cây ăn trái thì tha hồ mà leo lên cây hái trái chín vừa ăn vừa nô giỡn ầm ĩ. Thật là một thời niên thiếu vô tư hoa mộng!
Với tôi, thời trung học đệ nhất cấp là phần đời đẹp nhất của tuổi học trò vì đó là cái gạch nối của tiểu học và trung học đệ nhị cấp. Chúng tôi đã giã từ tuổi thơ ngây và sắp bước chân vào tuổi trưởng thành với nhiều mơ ước cho tương lai. Khi bắt đầu lên đệ Tam của bậc trung học đệ nhị cấp thì cũng là lúc tình cảm phát triển, lại học chung với nam sinh nên không tránh khỏi những mối tình học trò vụng dại. Từ đó, tâm hồn của các nữ sinh không còn trong trắng thơ ngây mà đã biết mơ mộng một bóng hình nào đó để rồi thẫn thờ và mang những nỗi buồn không tên...
Bây giờ bước vào tuổi hoàng hôn ở xứ người, khi lần giở những trang lưu bút ngày xanh, hồi tưởng lại thời nữ sinh hoa mộng với tà áo dài tha thướt của những ngày xưa thân
ái, tôi chợt thấy lòng bâng khuâng khi nhớ lại những kỷ niệm xưa cùng vài mảnh tình con lưu lại trong ký ức:
Nữ Sinh
Nhớ quá đi thôi, thời nữ sinh!
Một mình len lén đọc thư tình
Ai đó bỏ vào ngăn bàn học?
Kèm một món quà bé xinh xinh...
Còn đâu tà áo dài tha thướt
Trong trắng thơ ngây tuổi học sinh.
Hình như... còn sót trong trí nhớ
Vài kỷ niệm xưa, dăm mảnh tình!!!
(hbp)
Từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường, được biết bao Thầy Cô tận tâm dạy dỗ và không hiểu tự lúc nào trong tôi, hình ảnh Thầy Cô là thần tượng để tôi mơ làm cô giáo. ĐẹpNhớ quá đi thôi, thời nữ sinh!
Một mình len lén đọc thư tình
Ai đó bỏ vào ngăn bàn học?
Kèm một món quà bé xinh xinh...
Còn đâu tà áo dài tha thướt
Trong trắng thơ ngây tuổi học sinh.
Hình như... còn sót trong trí nhớ
Vài kỷ niệm xưa, dăm mảnh tình!!!
(hbp)
làm sao cái hình ảnh lớp học với cô giáo đứng trên bục giảng bài và phía dưới là những học sinh hồn nhiên như những trang giấy trắng! Giấc mơ đó đã trở thành hiện thực
khi tôi được trúng tuyển vào trường Quốc Gia Sư Phạm Saigon. Cuối cùng sau hai năm học, tôi đã tốt nghiệp và trở thành cô giáo, tiếp bước quý Thầy Cô dấn thân vào nghề
dạy học mà đối với tôi là một nghề tuy đạm bạc nhưng có tâm hồn cao quý.
Rời khỏi trường Sư Phạm, cầm sự vụ lệnh trong tay là tôi đã thực sự làm người trưởng thành để tự quyết định và có trách nhiệm với chính bản thân mình. Bây giờ Cha Mẹ sẽ là người cố vấn để truyền đạt những kinh nghiệm sống mà Người đã trải qua. Tôi thật sự bước vào đời với hành trang là những điều dạy dỗ của Cha Mẹ và những kiến thức Thầy Cô đã truyền đạt. Tôi mở cánh cửa tương lai, mang hành trang bước vào đời, bỏ lại sau lưng những kỷ niệm đẹp của thời thơ dại với gia đình, Thầy Cô và bè bạn…
Hát Bình Phương
Gửi ý kiến của bạn