Đêm Đọc Cổ Thi
Thơ: Lý Đông A - Vô Ngã
Nhạc: Dân Chủ Ca
1.
Đêm đọc cổ thi,
Chữ còn, chữ mất,
Trên vách tường,
Trăng múa thúy
hoa.
Đêm đọc cổ thi,
Người đi xa đã khuất,
Nhấn phím đàn,
Cất tiếng ly ca.
Ta vỗ án hét thành Ca Chính Khí
Một ngày lạnh,
nước người không tri kỷ
Thấu buốt tận
lòng người trong cốt tủy.
Đông thê thê như gió thổi u hồn
Ta vỗ án hét thành Ca Chính Khí
Một ngày lạnh nước
người không tri kỷ
Thấu buốt tận
lòng người trong cốt tủy.
Đông thê thê như gió thổi u hồn
2.
Đêm đọc cổ thi,
Gió thổi thiết tha,
Lá trúc bay phơ
phất,
Nắng thu vàng
Nay đã xưa xa.
Sông Bạch Đằng sóng vỗ thuyền cắc cắc
Nước Mê Linh trăng thu còn vằng vặc
Đồng Đống Đa
xương người phơi man mác.
Non Chi Lăng gió cuốn rừng cung đao
Chiều tịch dương
chìm khuất,
Trên tơ đàn, tí
tách mưa sa...
Ta vỗ án hét thành Ca Chính Khí
Một ngày lạnh,
nước người không tri kỷ
Thấu buốt tận
lòng người trong cốt tủy.
Đông thê thê như gió thổi u hồn
Chiều tịch dương chìm khuất,
Trên tơ đàn, tí
tách mưa sa...
Chiều tịch dương
chìm khuất,
Trên tơ đàn, tí
tách mưa sa...
Chính Khí Việt
Lý Đông A
Một ngày lạnh, nước người không tri kỷ
Ta vỗ án hét
thành ca chính khí
Đông thê thê như
gió thổi u hồn
Thấu buốt tận
lòng người trong cốt tủy.
Nước Mê Linh trăng thu còn vằng vặc
Sông Bạch Đằng
sóng vỗ thuyền cắc cắc
Non Chi Lăng gió
cuốn rừng cung đao
Đồng Đống Đa
xương người phơi man mác.
Đêm Đọc Cổ Thi
Vô Ngã
Đêm đọc cổ thi,
Chữ còn, chữ mất,
Trên vách tường,
Trăng múa thúy
hoa.
Người đi xa đã
khuất,
Nhấn phím đàn,
Cất tiếng ly ca.
Gió thổi thiết tha,
Lá trúc bay phơ
phất,
Nắng thu vàng
Nay đã xưa xa.
Chiều tịch dương
chìm khuất,
Trên tơ đàn,
Tí tách
Mưa sa...
Nhà
thơ Vô Ngã với ‘300 Năm Thơ Văn Cổ’
Viên Linh
“300 Năm Thơ Văn Cổ” là tiền đề của bộ sách do tác giả Vô Ngã Phạm Khắc
Hàm viết và sửa lấy bằng nhu liệu Microsoft Word trên máy vi tính riêng của
ông, trong một thời gian dài trên hai mươi năm, đọc tới sửa lui nhiều lần. Với
chiều dài Lịch Sử Nền Độc Lập của nước ta từ sau khi Ngô Quyền đánh tan quân
Tầu (939, thế kỷ mười), qua Tiền Lê, Lý, tới hết Nhà Trần, (vài năm qua thế kỷ
mười lăm), nội dung sách gồm hai bộ, bốn quyển, tổng cộng 1270 trang thơ văn
của tiền nhân, nhà thơ Vô Ngã đã trao bản thảo cho tôi để in ấn càng sớm càng
tốt.
Tôi đã làm ngay phần đầu cuối tuần qua, 370 trang sưu khảo và phẩm bình thơ văn
của Nhà Ngô, Nhà Tiền Lê, và Nhà Lý. Sự việc này đã khiến tôi tới gần người bạn
vong niên hơn nữa. Anh năm nay 86 tuổi, và chúng tôi đã đọc thơ văn cổ trong
ánh sáng của lịch sử, mặc dù bên kia đường Lâm Truy, nẻo vào Vô Tích, dưới
những ngọn đèn lồng trước cửa cao lâu xanh, mấy nhà học giả đạo mạo đang sướt
mướt nâng xiêm áo ngạt ngào hương xả để ca ngợi tấm gương bán hoa mua sự yên
thân cho lão Vương già.
Anh Vô Ngã Phạm Khắc Hàm viết về Thơ Văn Cổ như sau: “Qua thơ văn, ta sẽ thấy
mỗi tác giả - thường là những nhân vật lịch sử - kể lại một mẩu chuyện về đời
mình, khiến cho trang văn học trở thành những trang lịch sử sống động.”
“Như vậy, văn thơ (cổ) đã minh họa lịch sử,... các biến cố lịch sử luôn luôn là
bối cảnh của văn thơ. Văn thơ và lịch sử đi đôi với nhau như bóng với hình như
thế nên muốn hiểu rõ nội dung một bài thơ, ta cần biết rõ bối cảnh lịch sử của
nó, và ngược lại, đôi khi nhờ thơ văn, ta có thể hiệu đính các sai lầm trong
các sách viết về sử.” (tr.25, cuốn 1, Thơ Văn Đời Ngô Lê Lý)
Bản văn cổ đầu tiên của bộ sách chỉ có 95 chữ, là “Đại kế phá Hoàng Thao” của
Ngô Quyền. Tác giả Phạm Khắc Hàm đã dịch từng chữ một, giải nghĩa hết 95 chữ,
với chữ Hán in trước, rồi phiên âm sau mới dịch nghĩa. Sau đó là Lời Bàn, tổng
cộng 16 trang khổ lớn. Mới nghe qua, người nghe tưởng sẽ rất khô khan; không
phải, đó là 16 trang hứng khởi, hưng phấn, vừa giận vừa đau, vừa vui vừa sướng,
đọc đến đâu hình ảnh chiến trận, trong trướng tham mưu, ngoài sông đỏ máu, hiện
ra đến đó.
“Kế Lớn Phá Hoằng Thao”
“Hoằng Thao (chỉ là) một đứa trẻ
ngốc mà thôi. Cầm quân (từ) xa lại, binh sĩ mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn (đã)
chết, không (có) nội ứng, khí (thế của chúng) đã bị mất (ngay từ) trước. Chúng
ta lấy sức (nhàn) đón (đánh) mỏi mệt, tất phá được chúng.
Tuy nhiên, (kẻ) kia lợi (thế) ở hạm đội, nếu không phòng bị trước việc đó, cục
diện thắng bại chưa thể biết trước được.
Nếu trước đó, sai người trồng cọc lớn tại cửa biển, đầu vót nhọn, bịt sắt;
thuyền kia theo (nước) triều lên, vào trong (chỗ đóng) cọc; nhiên hậu ta (sẽ)
dễ dàng chế (ngự) chúng. Không có (kế nào) ngoài kế này.”
Chỉ có thế! Đọc “Kế Lớn Phá Hoàng Thao” của Ngô Quyền (899-944) ta được biết
thân thế người anh hùng làng Đường Lâm, Giao Châu (vùng Sơn Tây), và lời ông
nói với tướng sĩ kế sách phá tên Tướng Hoằng Thao ra sao, để sau này sông Bạch
Đằng trở thành nơi diễn ra trận đánh lịch sử, đưa dân tộc tới đài độc lập sau
gần ngàn năm bị Bắc phương đô hộ. Lời Bàn nhắc đến đôi câu đối “Cột đồng tới
giờ rêu chưa xanh / Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ,” mà tác giả Phạm Khắc Hàm sưu
tầm, đem vào sách, để đưa ra nhận định rằng nội cái tên con sông ấy cũng đã làm
Bắc phương phải nhục, vì nó đã trở thành câu đối đáp giữa sứ Đại Việt và chức
quyền Tầu sau này. Đọc và viết về Thơ Văn Cổ Dân Tộc, theo ông, chính là ôn lại
lịch sử. Thơ văn cổ chép sử, và nhân vật trong những áng văn xưa nhiều người là
anh hùng dân tộc. Có thể có nhiều người biết như thế, song nói ra được, nói ra
mà làm người ta tin, lại là một việc khác.
Tác giả Phạm Khắc Hàm dùng tên thật làm bút hiệu, khi làm thơ ký là Vô Ngã,
sinh ngày 19 tháng 2, 1928 tại Phương Du, Yên Khánh, Ninh Bình, đỗ Tú Tài Toán
(1948) tại trung tâm Yên Mô, Ninh Bình. Giáo sư trường Trung Học Tân Việt,
huyện Nga Sơn, Thanh Hóa (1949), sĩ quan Trừ Bị Khóa I Nam Định (1951), tác
chiến trong Tiểu Đoàn Biệt Lập 23, tại Quảng Bình (1951-54), tới năm 1956 giải
ngũ, sang Pháp du học (1956), đậu Tiến Sĩ Vật Lý Vi Tử và Lý Thuyết (1964).
Về nước, ông dạy tại các Đại Học Khoa Học Sài Gòn (1965-1981), Nông-Lâm-Súc Sài
Gòn, Đại Học Cần Thơ, Đại Học Huế và Đại Học Đà Lạt (1968-75). Vượt biên, định
cư tại Hoa Kỳ (tháng 8, 1981), hiện cư ngụ trong một ngôi nhà lưu động với vợ
ông, Bác Sĩ Minh Châu. Cả hai đã về hưu. Với cuộc đời đã trải qua từ Đông tới
Tây, từ võ sang văn, từ khoa học vi-tử tới thơ vô ngã, con người ấy lại rất
lặng lẽ, rất âm thầm, ngày ngủ, đêm thức, miệt mài nghiên cứu cổ thư, dõi bóng
Lý Đông A một triết gia kỳ bí của quê hương Ninh Bình, hồn hướng về ngọn Nga My
vọng chân nhân cứu nước, lòng lưu vong mà thao thức khôn nguôi một đất nước tro
than dấy mộng phượng hoàng:
Một ngày
lạnh nước người không tri kỷ
Ta vỗ án hét thành ca chính khí
Đông thê thê như gió thổi u hồn
Thấu buốt tận lòng người trong cốt tủy.
Nước Mê
Linh trăng thu còn vằng vặc
Sông Bạch Đằng sóng vỗ thuyền cắc cắc
Non Chi Lăng gió cuốn rừng cung đao
Đồng Đống Đa xương người phơi man mác.
(Lý Đông A, Chính khí Việt)
Đêm đọc cổ
thi,
Chữ còn chữ mất,
Trên vách tường,
Trăng múa thúy hoa.
Người đi xa đã khuất,
Nhấn phím đàn,
Cất tiếng ly ca.
Gió thổi
thiết tha,
Lá trúc bay phơ phất,
Nắng thu vàng
Nay đã xưa xa.
Chiều tịch dương chìm khuất,
Trên tơ đàn,
Tí tách
Mưa sa...
(Vô Ngã, Đêm đọc Cổ thi)
Do niềm kính trọng đối với một nhà
thơ tiền bối, một soạn giả Hán học uyên thâm, một người bạn vong niên có tầm
nhìn sâu suốt, tôi viết những dòng này và nhận xuất bản cuốn sách cho anh. Tôi
tin rằng “300 năm Thơ Văn Cổ” của Phạm Khắc Hàm là một bộ sách quí giá sẽ được
hiện ra trong Tủ sách Văn học Dân tộc và người đọc chọn lọc đâu đó sau này.