GÓC NHÌN VỀ CUỘC CHIẾN TỪ VĂN CHƯƠNG VÀ NHẠC VÀNG TRƯỚC NĂM 1975.
Một buổi trưa đầu tháng tư năm 1975,tôi đứng trước hiên nhìn ra con đường đất nhỏ ngang trước nhà. Vào lúc đó, tôi thấy có hai người đàn ông khiêng trên vai một cây tre dài. Trên đó mắc cái võng bằng vải dù, có một người nằm chỉ lộ ra đôi chân mặc quần lính và đôi giày bốt đờ sô lắc lư theo nhịp bước của hai người khiêng. Đó là người lính vừa chết trận hôm qua. Tất tả đàng sau là một người đàn bà ngoài năm mươi; từ dáng vấp đến khuôn mặt hằn sâu cả một trời khổ lụy.
Tôi khi ấy mới tám, chín tuổi, đâu biết thế nào là chiến tranh và chết chóc. Nhiều người lớn bảo rằng người lính nầy tử trận ở Xuân Lộc- chiến sự đang diễn ra ác liệt tại đây. Quân đội Bắc Việt đã sắp tới Sài Gòn rồi.
Tuổi thơ tôi tiếp cận hòa bình. Tôi thấy những tốp lính mang súng đi trên đường quê, nghe tiếng đạn pháo ầm oàng từ xa xôi vọng về trong những ngày sắp tàn cuộc chiến, thấy những thân dừa toang hoác vì mảnh pháo vẫn đứng trơ trơ sống cùng năm tháng, trở thành vết tích chiến tranh.
Lớn lên thêm chút nữa, một ngày tôi tình cờ đọc được cuốn sách Dấu binh lửa của nhà văn Phan Nhật Nam. Tác giả là một đại úy thuộc binh chủng nhảy dù. Ông đã đi theo vận nước nổi trôi từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam đến tận cùng đất nước. Bằng lời văn của người lính dạn dầy trận mạc,ông đã kể lại những cuộc hành quân triền miên qua các vùng miền xác xơ vì bom đạn, những người dân nghèo gầy gò, héo hon sống ngơ ngác, vật vờ trên chính quê hương mình. Những người lính đi vào cuộc chiến và chết với rất nhiều tình huống ,đủ mọi tư thế. Có người bị bom hất bay lên ngọn cây như con chim; có người mới ngồi xuống nói chuyện với đồng đội thì một viên đạn vu vơ từ đâu bay đến găm vào đầu, anh lính chết khi vừa mở miệng định nói câu gì. Sau cuộc giao tranh, xác lính ngổn ngang: chết nằm, chết ngồi, chết không toàn thây...Suốt mấy ngày trời, tác giả cùng đồng đội chỉ làm công việc là khiêng xác. Xác lính ngập ngụa trong nắng mưa,trương phềnh,rệu rã, bốc lên thứ mùi " không có thứ mùi nào kinh khủng như mùi xác người chết " khiến ai tiếp cận cũng muốn nôn thốc nôn tháo;thèm một điếu thuốc mà không dám đưa tay lên môi. Lúc ngồi nghỉ ngơi, chà hai bàn tay xuống đất " da thịt người chết trốc ra từng lớp như lột một làn da". Trong hoàn cảnh đó, tâm trạng tác giả bị dồn nén như muốn vỡ vụn ra: chán chường và bi phẩn tột cùng!
Lính được trang bị đầy đủ mọi thứ thiết yếu trên đường hành quân. Họ chỉ thiếu đàn bà! Khi được nghỉ phép, họ ăn nhậu,chơi bời thâu đêm cho bỏ những tháng ngày gian khổ chiến đấu ngoài chiến trường. Đôi lúc trên đường hành quân, qua những làng thôn hẻo lánh, họ ghé vào quán vắng có mấy cô em sẳn sàng đóng cửa vui vẻ với các anh. Chiến tranh mà, chết chóc cận kề, cho nhau một lần thôi, âu cũng là chuyện thường tình...Tác giả thấy thương cho những người ở phía bên kia khi đột nhập vào các khu trù mật trong rừng. Họ thiếu thốn đủ thứ, nhất là thiếu phụ nữ quanh năm ngày tháng...
Một tác phẩm khác của nhà văn Phan Nhật Nam là tuỳ bút Mùa hè đỏ lửa. Với lời văn lôi cuốn rất tuyệt vời mà tôi cho rằng không một nhà văn tài năng nào có thể viết hay hơn thế được. Bởi nó lột tả đến tận cùng sức nóng khủng khiếp và tàn bạo nhất hình thành từ thiên nhiên và nhân tạo để thiêu đốt và hủy diệt hết mọi thứ, mà ghê gớm nhất là trên vùng cao nguyên năm 1972. Sau đây là nguyên văn một đoạn tùy bút bất hủ ấy:" Mùa hè 1972 trên thôn xóm và thị trấn của ba miền bốc cháy một thứ lửa nhân tạo nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt. Lửa ngùn ngụt. Lửa bừng bừng. Lửa kêu tiếng lớn đại pháo. Lửa lép bép nức nở thịt da người nung chín. Lửa kéo dài qua đêm.Lửa bốc khói mờ trời khi ngày sáng. Lửa gào chêm tiếng khóc của người. Lửa hốt hoảng khi cái chết chạm mặt. Lửa dậy mùi thây ma. Lửa tử khí trùng trùng giăng kín quê hương thê thảm, khốn cùng (...) Mùa hè 1972- mùa hè máu. Mùa hè của sự chết và tan vỡ toàn diện. Dân tộc ta sao nỡ quá đọa đày..."
Chiến tranh đâu chỉ có người lính là chịu đựng gian khổ và chết chóc. Những người thân là mẹ, là chị, là em, là vợ, là người yêu của lính ngày đêm khắc khoải mong chờ, nguyện cầu cho người ngoài chiến tuyến được bình yên trở về. Nữ thi sĩ Lê Thị Ý có bài thơ làm xúc động tâm can con người ,đó là Thương ca1 . Nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc lấy tên là Tưởng như còn người yêu. Người góa phụ trong thơ trước nổi đau mất chồng, muốn dùng rượu để quên đi chính mình và để níu kéo người thương yêu, dù là hư ảo:
Ngày mai đi nhận xác chồng
Say đi để thấy mình không là mình
Say đi cho rõ người tình
Cuồng si khi ấy hiển linh bây giờ.
Tình nghĩa vợ chồng hương nồng lửa đượm, chợt mất đi một người, lòng ai chẳng thấy oặn thắt,luyến lưu?
Chao ôi thèm nụ môi hôn
Đêm đêm còn hẹn chong đèn chờ nhau .
Từ mở đầu cho đến hết bài thơ, khi đối diện với đau thương,giữa thực và mơ, người góa phụ vẫn cứ bám lấy sự mơ tưởng của chính mình làm cứu cánh:
Mùi hương cứ ngỡ hơi chồng
Nghĩa trang mà ngỡ như phòng riêng ai.
Nhà thơ đã từng sống gần trại lính, chứng kiến biết bao người vợ trẻ đi nhận xác chồng, nên mới gởi gắm trọn vẹn nổi bi thương ấy vào bài thơ để nó sống mãi cùng năm tháng.
Từ năm 1954 đến 1975 dân tộc nầy đã trãi qua hai mươi năm nội chiến mà người ta gọi là cuộc chiến tranh ý thức hệ. Giai đoạn đau thương nầy chính là chất xúc tác cho ra đời một dòng nhạc và nó phát triển rực rỡ nhất, khoảng mười ngàn bài hát với hàng loạt ca, nhạc sĩ tài danh- được gọi là nhạc vàng. Dòng nhạc ấy chuyên chở yêu thương, vỗ về những tâm hồn đau khổ với nhiều nỗi buồn: buồn vì chia ly cách trở, buồn vì nghèo, vì thất tình, buồn vì thời cuộc đảo điên và đủ thứ nổi buồn nhân thế. Bao trùm lên tất cả là nỗi buồn chiến tranh và canh cánh khát vọng hòa bình.
Người lính VNCH họ là ai? Họ chính là con của những bà mẹ lam lũ một nắng, hai sương nơi ruộng đồng nghèo khổ, những bà mẹ mua gánh, bán bưng nơi phố thị nuôi đàn con nheo nhóc, vì vậy lòng họ chan chứa tình yêu thương quê hương, gia đình mà thiêng liêng nhất là dành cho mẹ. Tình cảm ấy được thể hiện qua rất nhiều nhạc phẩm. Đây là tâm tư của người lính ngoài chiến địa nhớ về mẹ và người yêu luôn mong đợi ở quê nhà:" Nào những khi ôm thép súng tê tay, đăm mắt theo bao hư ảo thở dài. Nơi chốn xa buồn thương mẹ oặn gánh, em còn khêu sáng ánh đèn từ sương mai "( Sương trắng miền quê ngoại-Đinh Miên Vũ).
Nhạc sĩ Thanh Phương hay viết về đề tài nầy. Người lính trong nhạc phẩm của ông là người trai mang nặng trách nhiệm với quê hương; người con hiếu thảo " À ơi! Đói lòng ăn đọt chà là, để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng. Nếu ngày mai hòa bình, con về tìm gỗ,đất năm xưa, đắp nền, tô lại nhà cho tóc mẹ ngày không chóng già ". Anh ước mơ rất bình dị nhưng hạnh phúc gia đình ấm êm khi quê hương không còn chinh chiến: đôi vợ chồng nghèo xay lúa dưới ánh trăng. " Mẹ têm trầu trên võng đong đưa. Dăm cháu nhỏ ríu rít nghe bà kể chuyện ngày xưa." (Làm nhà cho mẹ). Vì trách nhiệm với với nước non, người trai khoác áo chinh nhân bỏ lại quê nhà người yêu " mắt xanh, xanh màu trùng dương (...) duyên tình đôi mình xin hẹn lại ngày mai "; nơi " có mẹ thương đã già lưng gầy uốn nặng thời gian." Để cho ngày mai "thanh bình con về cho quê mẹ trọn thương " (Trọn thương- Thanh Phương). Những bà mẹ trong chiến tranh tuy nghèo khổ nhưng nhân hậu, giàu đức hy sinh như:" Bà Tư bán hàng có bốn người con" trong Bà mẹ Việt Nam của nhạc sĩ Lê Thương; hay Bà mẹ hai con- nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông "Thằng Hai đi lính đã lâu, tình mẹ già luôn khăc sâu hai mươi lính được lĩnh tiền, tháng tháng viết thư mẹ liền: con xin kính thưa mẹ hiền, con phương nầy bình yên. Lương đi lính tuy không nhiều chút ít mẹ ăn trầu "... Những lời hát đó khiến ai nghe cũng rưng rưng nước mắt, người lính ấy đã tử trận. Nếu không có chiến tranh gây tang tóc, chia ly thì họ sẽ hạnh phúc bao nhiêu! Quê hương còn nghèo khó nên mơ ước của người lính cũng đơn sơ nghe mà thương quá đỗi:" Ôi ước ngày nào trời thôi mưa gió, cho mắt mẹ thôi hết đỏ lệ nhòa. Đàn em vui hát trên sân lũ diều căng gió. Trai, gái từng đôi tính chuyện chuyện đá vàng " ( Song An- Lời người lính xa xôi). Có người lính khi xuân về vì "nơi núi rừng quà xuân đâu có " nên lấy vỏ đạn đồng làm bình hoa như là món quà xuân cho con:" Cho con niềm vui đó. Mùa xuân có hoa có cỏ, con vui đầy tuổi ngọc ngà. Một mai quê hương không còn chinh chiến, ba sẽ về thăm con, bỏ đi ngày tháng mỏi mòn." (Lời đầu năm cho con- Nguyên Thảo). Có rất nhiều bài hát chủ đề quê hương, lính và mẹ như: xuân nầy con không về, Mùa xuân của mẹ, Lá thư từ chiến trường, Lạy mẹ con đi...
Nhạc sĩ Thanh Phương hay viết về đề tài nầy. Người lính trong nhạc phẩm của ông là người trai mang nặng trách nhiệm với quê hương; người con hiếu thảo " À ơi! Đói lòng ăn đọt chà là, để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng. Nếu ngày mai hòa bình, con về tìm gỗ,đất năm xưa, đắp nền, tô lại nhà cho tóc mẹ ngày không chóng già ". Anh ước mơ rất bình dị nhưng hạnh phúc gia đình ấm êm khi quê hương không còn chinh chiến: đôi vợ chồng nghèo xay lúa dưới ánh trăng. " Mẹ têm trầu trên võng đong đưa. Dăm cháu nhỏ ríu rít nghe bà kể chuyện ngày xưa." (Làm nhà cho mẹ). Vì trách nhiệm với với nước non, người trai khoác áo chinh nhân bỏ lại quê nhà người yêu " mắt xanh, xanh màu trùng dương (...) duyên tình đôi mình xin hẹn lại ngày mai "; nơi " có mẹ thương đã già lưng gầy uốn nặng thời gian." Để cho ngày mai "thanh bình con về cho quê mẹ trọn thương " (Trọn thương- Thanh Phương). Những bà mẹ trong chiến tranh tuy nghèo khổ nhưng nhân hậu, giàu đức hy sinh như:" Bà Tư bán hàng có bốn người con" trong Bà mẹ Việt Nam của nhạc sĩ Lê Thương; hay Bà mẹ hai con- nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông "Thằng Hai đi lính đã lâu, tình mẹ già luôn khăc sâu hai mươi lính được lĩnh tiền, tháng tháng viết thư mẹ liền: con xin kính thưa mẹ hiền, con phương nầy bình yên. Lương đi lính tuy không nhiều chút ít mẹ ăn trầu "... Những lời hát đó khiến ai nghe cũng rưng rưng nước mắt, người lính ấy đã tử trận. Nếu không có chiến tranh gây tang tóc, chia ly thì họ sẽ hạnh phúc bao nhiêu! Quê hương còn nghèo khó nên mơ ước của người lính cũng đơn sơ nghe mà thương quá đỗi:" Ôi ước ngày nào trời thôi mưa gió, cho mắt mẹ thôi hết đỏ lệ nhòa. Đàn em vui hát trên sân lũ diều căng gió. Trai, gái từng đôi tính chuyện chuyện đá vàng " ( Song An- Lời người lính xa xôi). Có người lính khi xuân về vì "nơi núi rừng quà xuân đâu có " nên lấy vỏ đạn đồng làm bình hoa như là món quà xuân cho con:" Cho con niềm vui đó. Mùa xuân có hoa có cỏ, con vui đầy tuổi ngọc ngà. Một mai quê hương không còn chinh chiến, ba sẽ về thăm con, bỏ đi ngày tháng mỏi mòn." (Lời đầu năm cho con- Nguyên Thảo). Có rất nhiều bài hát chủ đề quê hương, lính và mẹ như: xuân nầy con không về, Mùa xuân của mẹ, Lá thư từ chiến trường, Lạy mẹ con đi...
Tâm hồn người lính tuy dung dị. Họ luôn mong những điều rất thật :" Ai mơ giấc mộng xa hoa trong đời, lính chỉ đơn sơ trao lời thành thật nói tha thiết thôi " (Lính nghĩ gì - nhạc sĩ Hoài Linh); còn nhạc sĩ Trúc Phương thì viết trong nhạc phẩm Kẻ ở miền xa:" Đến với tôi, hãy đến với tôi, đừng yêu lính bằng lời ". Dù nói thế thôi nhưng họ là những chàng trai rất lãng mạn:" Nếu em không là người yêu của lính, ai sẽ nhớ em chiều dừng hành quân? Ai khẽ nhắc tên em muôn nghìn lần, để thấy cánh sao gần không đẹp bằng hồ mắt giai nhân " (Người yêu của lính- Trần Thiện Thanh). Dù xuôi ngược chinh chiến " gót mòn nẻo gần xa " người lính vẫn hẹn một ngày mai:" Tôi sẽ về đưa người yêu đi qua lối cũ, nhặt hoa lót từng bước em đi. Nếu chân có mỏi vì đường dài, xin yên giấc ngủ, đêm xuân gió thoảng ru mộng tròn môi em ." (Đinh Việt Lang- Tôi sẽ về).Lính khi yêu rất ngang tàng, mạnh mẻ nhưng cũng rất chung tình:" Khi lính đã yêu bướm ghen tình thắm, muôn kiếp cũng yêu nói chi ngàn năm? Khi lính đã yêu rừng tàn núi lở. Tình mình vững bền muôn thuở, bao la như lòng đại dương."( Minh Kỳ- Dạ Cầm- Ai nói với em?)
Lính chung tình là thế, người yêu của lính cũng thủy chung, son sắc:" Anh đi ngày mai trên chiến địa. Nơi đây tình yêu em vẫn đợi. Cầu xin non nước mình được yên vui thái bình, cùng nhau xây ước hẹn hò"( Vườn Tao ngộ- Nhật Hà). Người yêu của lính trong nhạc phẩm Cho người vào cuộc chiến, của nhạc sĩ Phan Trần cũng khẳng định một lòng sắc son " Dù anh trở về trên đôi nạng gỗ, dù anh trở về bằng chiếc xe lăn hoặc anh trở về bằng chiến công đầu tình em vẫn chẳng đổi thay "...
Trên chiến trường hay nơi thao trường, giữa người lính còn có tình đồng đội rất thân thiết qua những bài hát như : Mười năm tái ngộ, Chín tháng quân trường, Nó, Tình bạn Quan Trung...Tình bạn đó khiến cho họ có niềm vui, san sẻ, giúp nhau trong buổi đầu bỡ ngỡ, cũng như lúc hiểm nguy, loạn lạc, giữa sự sống và cái chết.
...
Nhạc vàng tuy ngôn từ thật bình dân nhưng đẹp, rất trao chuốt và giàu giai điệu, nó chứa đầy một trời yêu thương, không kích động hận thù mà chỉ buồn đau vì non nước điêu linh; gia đình tan tác, chia ly vì chinh chiến triền miên. Ngay sau ngày 30-4-1975, tất cả các tác phẩm văn học nghệ thuật của miền Nam, trong đó có nhạc vàng bị hủy diệt không thương tiếc, bị cấm lưu hành tuyệt đối vì không phù hợp với chế độ mới.Cũng như nàng Thúy Kiều suốt 15 năm phiêu bạt, tả tơi mới được tái hồi Kim Trọng- nhạc vàng phải 20 năm mới được trở lại khắp mọi nơi, bởi nó sống mãi trong lòng dân chúng từ lâu. Trang văn chương miền Nam là nơi để ta hoài niệm về những ký ức tốt đẹp xa xưa của người miền Nam thể hiện qua văn, thơ và nhạc vàng- rất hiền hòa nhưng phóng khoáng và nhân bản.
Rạch Bộng 29-4- 2024 - Những ngày nắng cháy.
VĂN THẮNG TRƯƠNG
VĂN THẮNG TRƯƠNG
Gửi ý kiến của bạn