8:11 SA
Thứ Bảy
20
Tháng Tư
2024

BÊN NẦY SÔNG LONG TOÀN - PHẠM CHINH ĐÔNG

06 Tháng Mười 201012:00 SA(Xem: 18480)

Cảm ơn quý Hội đã ưu ái cho phổ biến bài viết tầm thường của tôi. Hy vọng bài viết đã làm chạnh lòng những kẻ tha hương chúng mình.
Để góp thêm một chút nữa về nơi đó, tôi xin kính mời quý vị đọc bài "Bên Kia Sông Long Toàn" để thấy dù Vĩnh Bình hay Biên Hòa, nơi nào cũng là quê nhà, là nơi để nhớ.
Trân trọng,
Phạm Chinh Đông


pcd1-content

 Tỉnh Vĩnh Bình, bây giờ gọi là Trà Vinh, có cả thảy 7 quận: Châu Thành, Càng Long, Cầu Kè, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang và Long Toàn. Long Toàn, bây giờ gọi là Duyên Hải, là quận heo hút nhất, trãi dài theo bờ biển. Kinh rạch chi chít trong những khu rừng lá dừa nước có chen lẫn cây tạp, nước mặn, muỗi độc đầy trời. Chỉ có một con lộ lớn duy nhất nối từ thị xã, ngang qua quận Cầu Ngang, băng qua một con sông lớn để vào địa phận Long Toàn. Đó là sông Long Toàn. Trước 1975, chi khu và quận đường ở phía bờ tây, cách sông Long Toàn khoảng 4 cây số. Sau này, Cộng Sản đổi tên gọi thành Huyện Ủy và dời về phía bờ đông.

 Từ lâu đã có một cây cầu sắt bắt qua con sông Long Toàn này. Dân chúng qua lại làm ăn thoải mái. Từ cuối năm 1963, sau khi toa rập giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, những tay đầu sỏ Sài Gòn liên tục hùng hục tranh ăn, bỏ ngỏ miền Nam cho Cộng Sản miền Bắc tha hồ xâm nhập, mở đầu cho cuộc bỏ chạy nhục nhã 12 năm sau. Trong bối cảnh đau lòng đó, năm 1965, Cộng Sản thả dàn phá nát con lộ và đem mìn giật sập chiếc cầu. Từ đó, và mãi sau này, qua sông phải dùng đò ngang.

 Buổi trưa nắng đỏ. Sông Long Toàn nước chảy cuồn cuộn. Chuyến đò vừa cập bến. Khách trên đò xôn xao đi xuống. Khách dưới bến láo nháo đi lên. Lại có những tay không đi đâu nhưng cũng tất bật ùa xuống đò. Tôi là một tay trong đám đó. Đám xe Honda ôm.

 Xứ này là xứ sống bằng nghề thủy sản. Vài năm trước, đám xe ôm chỉ có loe ngoe vài mống túng nghề xách xe chạy bậy. Đến giờ, đập đìa cá tép thưa dần, tôm cua nuôi hồ năm trúng năm thất, những tay chủ đập sạt nghiệp đành trốn nợ bỏ nhà đi xứ khác, những tay mới ngáp ngáp cũng mất vía, hoảng hồn, sang bán đổ tháo rồi mua một chiếc Honda để chở khách, kiếm gạo qua ngày. Vì vậy, riết rồi xe ôm nhiều hơn khách đi. Được một điều, mọi người đều biết nhường nhịn nên không có cảnh giành giật, chửi bới, đánh nhau.

 Tôi không có đập đìa gì hết. Tôi chỉ là một người trở về từ trại tù cải tạo với tài sản duy nhất và quý giá nhất là một cô vợ chung thủy và ba đứa con ngoan. Tôi gốc gác Biên Hòa, ngày xưa làm việc ở chi khu Long Toàn này, bị một cô nữ sinh tên là Bé Năm, nhà ở gần đó, trói cổ nên đã nhận nơi nầy làm quê hương! Khi nước mất, tôi vào tù, như mọi người. Sau sáu năm “học tập tốt”, xấc bấc xang bang, tôi tốt nghiệp, ra khỏi trường tù Bến Giá và về sống bên vợ con ở Long Vĩnh, một xã của quận Long Toàn. Bắt đầu làm lại cuộc đời mới bằng nghề đốn củi bán cho ghe buôn. Rừng lá dừa nước thì nhiều nhưng không thể làm củi. Cây mắm, cây giá, cây bần thì rải rác, chẳng bao nhiêu nên đã cạn kiệt. Lớp người trước đã đốn hết, chỉ còn để lại phần gốc rễ. Do đó, tôi không đốn củi mà là... đào củi! Và đào bằng cây búa lục nhầy của ông bà già vợ cho! Không phải ổng bả keo kiệt mà vì cả nhà bấy giờ chỉ có cây búa trành đó mà thôi.

 Không bao lâu, chẳng còn củi để đào, tôi xoay qua nghề làm mướn bá nạp. Đào ao, gánh đất, cuốc giồng trồng khoai...ai cần gì, tôi làm cái nấy. Đến một lúc cũng chẳng còn ai mướn vì xóm vốn thưa dân và kẻ dư ăn không có mấy người. Tôi bèn xoay qua nghề sửa xe đạp dù thật tình không biết chút gì cái nghề này. Qua Đôn Châu học lóm ba bữa, tôi trở về hì hục đóng ngay miếng bảng nhỏ “Sơn Sửa Xe Đạp” vào thân cây bạch đàn trước nhà. Ấy thế mà sống đựợc lai rai ! Cũng sửa con chó, nối sên đứt, vá ruột, sơn bằng ống bơm..! Xe đạp xã hội chủ nghĩa xài toàn đồ dỡm nên tôi có việc làm hoài. Có ông nội nào đó, mới thay cái ruột xe mới tinh bữa trước, bữa sau đã dắt tới vá rồi. Mà thiệt khổ, vá xong lỗ này thì xì lỗ khác.Vá xong đâu vào đấy, cái ruột xe mới giống như một miếng giẻ rách và tiền công vá muốn bằng tiền mua ruột mới! Phần tôi cũng không khỏi tổ trác. Anh chàng Ba Hợp xóm trong đặt làm 2 bánh, niềng mới, căm mới. Buổi chiều lấy, buổi tối ló đầu vô nhà. Tôi hỏi:

 - Tối rồi, đi đâu? Ủa, sao mà tèm lem, tuốc luốc vậy? 

 Ba Hợp nhăn nhó:

 - Xe đạp từ chiều tới giờ đi lắc như bàn gằn, tính ra cho anh hay để coi lại, ai dè tới đầu bờ thì lắc luôn xuống mương!

 Hóa ra thầy Hiệp bắt căm lỏng le! Xuống mương là còn may đó!

 Lúc đó, Tư Chiến, người bạn thân chòm xóm của tôi, trong nhà có sẳn chiếc Honda 67 trùm mền từ ngày Tổng Thiệu vác giò lên cổ chạy ra nước ngòai hưởng đời ăn hút còn hắn thì tả tơi xách túi vô tù. Một hôm, sau khi đi Trà Vinh về, Tư Chiến đem xe ra chợ Cái Đôi ngồi chong ngóc. Ngạc nhiên, tôi hỏi:

 -Chờ ai mà ngồi đây?

 Tư Chiến kể lễ:

 -Thấy trên thị xã, người ta chở khách bằng Honda, tui thử một bữa coi sao.

 Tối hôm đó, Tư Chiến mò tới nhà tôi, hể hả khoe:

 -Quá đã! Ngày hôm nay chạy được sáu, bảy ngàn!

Và hắn khẩn khoản biểu tôi ráng tìm cách xoay qua nghề honda ôm cho đỡ khổ hơn. Tôi ham quá nhưng không biết làm sao. Một chiếc Honda cũ rẻ nhất cũng trên dưới 1 cây vàng chớ bộ ít sao! Gia tài sự sản nhà tôi không hơn 2 chỉ. Cuối cùng, vợ chồng đồng ý làm liều: bán cái máy may của ông bà già vợ cho, mượn thêm vàng của bà con mỗi người một ít để mua một chiếc honda cũ và bắt đầu hành nghề xe ôm ngay hôm lấy xe về. Sau vài tuần, gom tiền mua 4 con heo con, nhịn ăn nhịn mặc cho heo ăn, và gần một năm sau thì trả xong nợ vàng. Mừng hú. Kể từ đó, tôi và Tư Chiến trở thành hai tên xe ôm chuyên nghiệp và đầu tiên trong xóm này. Hằng ngày chạy khách loanh quanh cơi Long Toàn, Cái Đôi, Kinh Đào, Cái Cối. Thỉnh thoảng cũng có dịp chở khách đi ngược ra Ba Động, Cồn Cù, nhìn biển trời mênh mông mà buồn nhớ đâu đâu.

 Khách qua đò lần lần đi lên. Mấy bà đi chợ về gióng gánh lỉnh kỉnh. Mấy cô cậu học trò tan lớp về nhà, đùa giỡn lao nhao. Mấy ông đầu tóc chờm bơm, râu ria lởm chởm, da sạm đen mốc thích, chắc mới qua chợ huyện bên kia sông mua này mua kia hay đi làm giấy tờ, vay tiền ngân hàng gì đó. Mấy tên xe ôm kiếm được khách đi hớn hở nổ máy chuẩn bị lên đường. Những tên không hên, thản nhiên trở lại dãy quán ăn lụp xụp quanh bến đò, ngồi chờ chuyến khác.

 Tôi thường được nằm trong những tên không may đó. Ngày trước, dàn xe ôm còn ít nên khách chở nhiều khi không hết. Đôi lúc phải chịu giận hờn vì chở người này, bỏ người kia. Bây giờ, dàn xe quá đông. Đã vậy, toàn những chàng trai trẻ, xông xáo, năng nổ chào mời tìm khách khiến cho những tay sồn sồn như tôi nhiều bữa phải chịu lỗ tiền xăng, ngồi ngóng gió suốt ngày.

 Chuyến đò này tôi không kiếm được mối nào. Cũng may hồi sáng sớm đã làm được một cuốc từ Cái Đôi lên đây. Chở cô nàng Hoa, con bà Hai Giáo ở cùng xóm, đi Long Toàn. Không biết cô nàng làm sở gì, vài bữa vắng bóng, vài bữa chạy về với mẹ, quần áo nhởn nhơ. Người ta xì xầm, con nhỏ này mắc bịnh siđa và công an đang kiếm bắt. Đây là một tin long trời lở đất vì thời buổi đó, xóm nghèo này chưa có chuyện đĩ điếm bao giờ. Cùng lắm là vài cuộc tình vụng trộm của những kẻ yêu nhau trong ngang trái mà thôi, đâu đến nỗi gì. Một lần, sau vài tháng làm phụ hồ bên Cầu Quan, thằng Cốm Đui, con chị Ba Như, dẫn về một cô gái và nói là vợ. Cốm Đui đâu có đui mù gì, chỉ có một con mắt lé và cái tật ba chớp, ba nháng mà thôi. Ba Như khoái chí vì khỏi tốn tiền cưới vợ cho con. Cơm không đủ ăn lấy gì cheo cưới? Ai dè ít bữa có người trên Trà Vinh về cho hay mới té ngữa ra là gái làng chơi ở khu Tiệm Rượu, Hàng Dầu. Vậy là cả xóm mượn công an ấp quyết liệt đuổi cô gái đi ngay, bất kể Cốm Đui nhào lăn dưới đất, khóc la như heo bị thiến. Về sau, Cốm Đui cũng được vợ chồng Hai Mén ở mé rừng gả không cho đứa con gái cưng. Cả hai chí thú làm ăn, chồng làm thợ, vợ chằm lá bán cho ghe buôn, tuy nghèo nàn nhưng thật giàu hạnh phúc.

 Đang vẫn vơ chuyện xóm làng, có tiếng người chợt hỏi:

 -Anh có khách chưa?

 Tôi giật mình, quay nhìn vào. Một người đàn ông trạc tuổi tôi, quần áo xuề xòa, đang ngồi một mình với ly đá chanh. Hình như người nầy đã đến từ những chuyến đò trước rồi ghé uống nước ở quán này. Tôi không hiểu hắn muốn gì, ngờ ngợ đáp:

 -Chưa.

 Người đàn ông nói bằng giọng từ tốn:

 -Vậy anh chở tui đi Cồn Trứng được không?

 Thì ra là khách! Tôi mừng hú, có phần khỏi lo là đây. Người khách đứng dậy, theo tôi ra xe, không hỏi giá cả như thói thường, nhanh nhẹn ngồi lên. Nhìn vết thẹo thâm đen ngay giữa trán của hắn, bỗng nhiên tôi cảm thấy không yên tâm chút nào.

 Chạy được một lát, khi bắt đầu quẹo vào lộ 81 dẫn ra Láng Cháo, Cồn Trứng, người khách cho tôi biết tên của hắn là Minh.

 Tôi hỏi cho vui:

 -Tại sao anh chọn tui?

 Minh cười hì hì:

 -Sợ té! Mấy bố trẻ chạy dữ quá. Bị té một lần xém gãy giò, hoảng rồi. Cở tuổi tụi mình chắc chạy cẩn thận hơn.

 Tôi đùa:

 -Gặp già dịch thì sao ? Nói vậy thôi, đường này đắp bằng đất có té cũng nhẹ thôi. Trặc xương sống là cùng!

 -Giỡn hay chơi đó?

 -Để coi. Mà anh biết không, tui cũng dự phần "học" đắp nên con đường này đó.

 Minh có vẻ thắc mắc:

 -Làm dân công hả?

 Tôi vắn tắt kể chuyện ngày xưa khi nước mất, đã "học tập" khắp nơi trong vùng này. Bắt đầu từ một đêm mùng 1 tháng 5 năm 1975, kẻ chiến thắng trưng dụng chiếc ghe lá đưa toàn bộ 21 sỉ quan chi khu Long Toàn thất trận vào rừng Mù U để "học". Rồi theo thời gian, dời về Láng Cháo, Khám Lớn Trà Vinh, Bào Sen, Cồn Tàu, La Ghi và cuối cùng là Bến Giá. Toàn là những "bài học" gian nan, bi thiết, suốt đời ám ảnh không rời. Con lộ 81 này đã được đắp lên bằng máu của hai chiến hữu và mồ hôi, nước mắt của hơn 200 chiến sĩ sa cơ.

Minh hớn hở ra mặt khi biết tôi là tên lính cũ. Hắn thì thầm cho tôi biết hắn cũng được đi "học" nhưng xa hơn, miền Bắc, "tốt nghiệp" năm 1982 và đang ở Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa, làm rẫy. Vết thẹo trên trán là kỷ niệm đòn thù ở trại tù Tuyên Quang. Thì ra là vậy! Hai người đồng cảnh bất ngờ gặp nhau nên nói không hết những chuyện dưới đất, trên trời.

 Cuối lộ 81 là Láng Cháo. Quẹo phải về Cồn Cù, Động Cao. Quẹo trái về Cồn Tàu, Cồn Trứng, Khoáng Tiều, Nhà Mát, Ba Động. Tôi chỉ long phong về phía sau dãy nhà lá trước mặt để nói với Minh rằng trại tù Láng Cháo ngày xưa ở đó với dãy ruộng muối rộng lớn do chính bàn tay khai phá của đám tù binh. Đâu đó trong đám nhà lá trước mặt này, hồi đó có ông Ba Sài Gòn và bà Sáu Lục. Ông Ba Sài Gòn quê quán ở đây, thời chiến tranh bỏ xứ lên Sài Gòn kiếm ăn, nay về quê sinh sống. Không dè, ông lại là anh họ của Lâm Văn Mầu, người bạn cùng khóa và đang cùng khổ với tôi. Chính ông đã tổ chức đưa Mầu trốn trại bằng đường ghe lên Trà Vinh rồi từ đó đi xe đò về Sài Gòn ở với vợ con. Mầu lại tìm đường vượt biên đường bộ qua Kampuchea. Rủi thay, bị Cộng Sản bắt ở Châu Đốc và đem giam ở trại tù Suối Máu. Ở đó, Mầu anh dũng leo rào vượt trại và bị lính gác bắn chết tại vòng rào thứ nhì.

 Bà Sáu Lục cũng mới hồi cư về đây sau chiến tranh. Hình như không có chồng và sống hui hút với đứa con gái chừng mười bốn, mười lăm tuổi. Bả có sở ruộng hương hỏa cả chục công đất rừng giáp ranh với trại tù, đào ao xẻ mương đàng hoàng. Nhờ vậy, mỗi con nước, cá tép chạy xà ngôm đem bán chợ cũng đủ xây xài cho hai mẹ con. Từ trại tù có một con đường bờ chạy thẳng tới chòm nhà Sáu Lục. Một bữa nghỉ chủ nhật , tôi bàng hoàng khi người bạn tù vong niên, Sáu Hoàng, nguyên trưởng ấp Cờ Đỏ, Càng Long, lớn hơn tôi hơn 20 tuổi, rủ tôi ra nhà bà Sáu Lục làm chuyện "nọ kia" cho vui. Sáu Hoàng nói rất thiệt tình:

 -Tao làm hai ba lần rồi! Bả biểu tao chớ làm sao tao dám!

 Tôi hỏi:

 -Đi cách nào tới đó được?

 Sáu Hoàng đáp:

 -Giả bộ đi kiếm cá theo đường bờ phía sau trại, cây già, cây vẹt lung tung, không ai thấy đâu. Mút đường là nhà bả. Chui qua cái hàng rào chà tre là xong, dễ ợt!

 -Dễ vậy sao không trốn luôn cho khỏe?

 Sáu Hoàng buồn bã:

 -Ai không muốn trốn, nhưng trốn rồi làm sao ra khỏi vùng này? Ngoài kia là biển, quanh đây là dân của tụi nó, là rừng chồi, mương xẻo chằng chịt. Nhắm trốn lọt không? Thôi thì ra đó chơi một lát cho đã rồi vô.

 Tôi không đi vì không dám chơi dại và cũng nhất định không tin chuyện trời ơi đất hỡi đó. Đến lúc anh chàng Lương đi theo Sáu Hoàng về nói lại, tôi mới chưng hững. Lương khoái trá nói:

 -Tao với ổng thay phiên nhau làm. Không tốn tiền bạc gì hết. Bả còn nói "ngày nào không có chịu không nỗi" nghe mậy!

 Tôi chỉ còn biết kêu trời:

 -Ở tù muốn chết mà chơi với bời! Lạ thiệt!

 Nghe Sáu Hoàng nói đám ham vui càng ngày càng đông, trong đó có cả lão Không già lụm cụm. ốm trơ xương, thiếu điều đi không nỗi trong chuyến về ! Đến nửa năm 1977, trại tù Láng Cháo đóng cửa. Tù binh được dời về Khám Lớn Trà Vinh và quên dần chuyện lạ Sáu Lục.

 Bây giờ, hơn mười năm sau, tôi lại có dịp ngang qua và nhắc lại. Biết bao lần đi ngang nhưng tôi không có thì giờ để ghé. Cảnh cũ còn đây nhưng người xưa còn đó hay không? Lòng tôi bỗng nhiên chùng xuống.

 Minh chợt kêu lên:

 -Người ta làm gì mà gánh gồng tùm lum vậy?

 Từ hướng Cồn Tàu, ba bốn người gánh những thúng, giỏ, nong, nia, rỗ, ki, rế nồi... đương bằng tre đang đi trở ra.

 Tôi không dấu được nỗi xót xa:

 -Họ là những người Kmer ở tuốt bên Đại An, Hàm Giang, chuyên sống bằng nghề đương đát. Chắc chuyến này bán ế, họ đang đi lần về nhà. Tội lắm, đồ này gánh muốn gãy xương sống nhưng bán rẻ như bỏ. Mình làm không nỗi đâu.

 Minh cũng buồn lây:

 -Không còn nghề nào đỡ hơn sao?

 -Đỡ gì nỗi! Lúa thất, đất cằn, việc làm không có, sẳn có nhiều tre trúc nên làm đại nghề đương đát kiếm cơm.

Đại An, Hàm Giang thuộc quận Trà Cú, đa số là người Kmer. Không hiểu vì sao dân cư ở đó phần đông nghèo khổ quá. Những ngày mùa hạn, họ dẫn nhau đi từng đoàn qua Kinh Đào, Cái Đôi, Long Khánh, Đình Cũ của quận Long Toàn, là những nơi có nhiều ruộng nuôi tôm, để chủ ruộng nào cần người đào đất, sên mương thì chạy ra gọi vào. Công xá tính theo tầm, theo thước. Nhìn họ dồn tất cả sức lực vào cái gàu ống, ném từng thỏi đất nặng trĩu lên bờ cao nghệu, ai có lòng từ tâm đều không khỏi xót thương. Những người đi bán đồ tre trúc này càng đáng thương hơn. Từ bến đò Đôn Châu, họ đi đò qua Kinh Đào. Từ Kinh Đào, họ gánh hàng theo lộ cái đi dần lên, tới đâu bán tới đó. Khổ nỗi, con lộ độc đạo ấy lại đúng ngay hướng gió chướng ào ạt từ Long Toàn thổi xuống. Bạn sẽ nghĩ gì khi thấy những con người đen đủi, ốm nhom, còng lưng gánh nặng đang chống chỏi với cơn gió vô tình quái ác? Đôi lúc lại có hai người chung vai gánh nguyên một cái giường tre ! Buồn cười nhưng rớt nước mắt không hay!

 Minh và tôi tự dưng im lặng. Không biết vì đâu. Xe vẫn chạy rì rầm trên con đường đất nhỏ vắng tanh, hai bên là những lùm cây lức mọc dày đặc trong dãi đất bỏ hoang, và không xa lắm, những đụn cát trắng im lìm với hàng phi lao chớn chở che khuất biển xanh ngay chân phía ngoài. Khi chòm nhà đầu tiên hiện ra, tôi chạy xe chậm lại:

 -Tới Cồn Trứng rồi. Anh muốn xuống ở đâu?

 Đến lúc nầy, Minh mới hỏi tôi :

 -Anh biết nhà ông Sáu Ngời không? Bác ruột của tui đó.

 Tôi phân vân:

 -Phải ông Sáu Ngời đã chết mấy năm rồi không?

 -Đúng rồi. Tui về dự đám giỗ đây. Anh biết ổng sao?

 -Còn hơn vậy nữa, tui mang ơn ổng.

 Năm xưa, đám tù tụi tôi bị đem ra Cồn Tàu gần hai tháng để đắp bờ ngăn nước mặn. Không có sẳn trại giam nên Cộng Sản gởi mỗi nhà dân quanh đó hai ba tên tù. Sáng sớm tập trung đi vào rừng lao động, tối về tự nấu nướng, ngủ nghê. Tôi và Phạm Vĩnh ở trong nhà của một cặp vợ chồng son. Thủy, người vợ, tối ngày nhiếc chồng là đồ làm biếng nhớt thây. Năm Dơi, người chồng, ngày nào cũng than thở, "chắc tui sống không lâu quá!"

 Nhà lá chật hẹp, giường ngủ của vợ chồng Năm Dơi phía sau vách lá vàng bạc và cái giường nống chà là dành cho tụi tôi lại đâu đầu ngay tấm vách mỏng đó! Vì vậy, tụi tôi hiểu được tại sao Năm Dơi kêu trời, kêu đất. Dĩ nhiên, hai tên tù đói khát đủ thứ này cũng trắng mắt, kêu đất kêu trời! Sau này, tình cờ gặp lại Thủy ở bến đò Long Toàn, tôi hỏi dò:

 -Anh Năm cấp rày khỏe không?

 Thủy phấn khởi:

 -Khỏe hơn trâu! Bây giờ đứng bán tiệm có gì đâu mà mệt!

 Thì ra, chuyện trời đất cũng đâu đến nỗi làm người ta sống không lâu. Đừng lo!

 Những ngày ở Cồn Tàu, chủ nhật nghỉ, đám tù đi lang thang đầy đường. Không phải đi chơi, ngắm cảnh mà là đi kiếm ăn. Người đi thụt cá kèo, móc cua, đào ba khía. Người thả rề rề đầu làng cuối xóm để coi có ai kêu vào mướn đào đìa, cuốc cỏ gì chăng hầu có được vài đồng mua thuốc giấy, đồ ăn.( Mười mấy năm sau, những người nghèo đói bên Trà Cú đi tìm nơi làm mướn cũng y chang như vậy).Tôi theo vài tên khác lén bơi qua cái mương lớn đến ấp giáp ranh, Cồn Trứng. Ở đây, tụi tôi được một ông già gọi vào đào đìa. Ông Sáu Ngời. Ông nói:

 -Mấy cháu cứ từ từ mà làm. Chừng nào rồi cũng được.

Trước khi vào việc, ông cho đám cu-li-bất-đắc-dĩ ăn một bữa cơm có đầy đủ rượu thịt - bữa cơm Phiếu Mẫu ngon nhất trần đời. Rồi đến khi làm việc, cứ một lúc ông lại đi ra kêu cả đám lên bờ hút thuốc, ăn đường thẻ, uống nước trà! Bởi vậy, mặc dù làm việc thiệt tình, đến xế chiều cả đám đào chưa được phân nửa ! Ông Sáu Ngời vẫn vui vẻ nói, "đi đâu mà gấp", rồi cho mỗi người một số tiền cùng với một bộ đồ và dặn tuần sau tới làm tiếp. Đang cơn đói ăn, thiếu mặc, hơn nữa đang sống trong quê hương, giòng họ của quân thù, chúng tôi như từ trên trời rơi xuống. Đêm đó, hỏi khéo Năm Dơi về ông già tốt bụng ấy, tôi chới với khi biết đó là một đảng viên kỳ cựu, từng giữ chức xã đội trưởng Trường Long Hòa trong những năm chiến tranh. Sau khi cướp được miền Nam, Cộng Sản Bắc Việt vất bỏ ngay đám Giải Phóng bung xung, bởi vậy Sáu Ngời đành về vườn, sống bằng nghề lưới biển và cho mướn đám lá dừa nước rộng ngút ngàn. Có lẽ nhờ cay đắng tình đời nên Sáu Ngời đã biết chút tình nhân ái. Con cháu của ổng lũ khũ. Một mớ đã rửa giò trèo lên bàn thờ làm liệt sĩ. Một mớ thoát chết mặt mày xanh mét đang làm việc khắp nơi trong huyện này.

 Bây giờ lại té ra thêm một đứa con cháu có gốc "ngụy" tên Minh này nữa ! Tôi bán tín bán nghi:

 -Anh biết nhà ổng không?

 Minh cười:

 -Biết chớ. 

 Và hắn chỉ đúng căn nhà dưới hàng dừa cao có cái đìa rộng ở vườn sau, nơi mà ngày xưa tụi tôi đã "đi đâu mà gấp" suốt 3 cái chủ nhật mới xong!

 Tôi yên chí, vậy là tay nầy không ba xạo. Quốc gia, Cộng sản cùng trong một nhà, chuyện nầy đâu có gì lạ trong cuộc chiến Việt Nam. Tôi nói:

 -Vậy thì sẳn dịp, tui cũng ghé vào thắp nhang cho bác Sáu. Tội nghiệp ông già, mới gặp đó mà đã khuất bóng mấy năm rồi.

 Xong đâu đó, tôi trở ra bến đò tìm chuyến khác. Minh ở lại và không biết đến bao giờ mới về lại Xuyên Mộc. Tôi gần như quên bẳng người khách xa xôi này.

 Cuối năm 96, sau một năm giấy tờ trật vuột, cả nhà tôi được qua Mỹ định cư trong diện tù cải tạo. Xứ lạ quê người, không một người bà con dòng họ, chúng tôi quen dần với cuộc sống chẳng có gì vui.

Một ngày chủ nhật, theo thói quen, vợ chồng tôi đến chợ trời giải khuây. Người bán, người mua lao xao giữa trời xứ xa gợi nhớ những buổi chợ quê nhà. Ôi, những buổi chợ mưa ngập lối đi, những buổi chợ nhóm từ lúc trời chưa sáng, le lói ngọn đèn dầu nghèo khó thương yêu.

 Chằng Lửa, biệt danh thân thương do tôi đặt cho vợ, chợt chỉ tay về phía cuối dãy. Một người đàn ông vác cây cần câu đang bước đi chậm rãi, lưng quay lại.

 -Anh dùm hỏi ông kia mua cần câu ở khu nào và giá bao nhiêu?

 Tôi lựng khựng:

 -Câu kéo ở đâu? Hỏi làm gì!

 Chằng Lửa nằn nì:

 -Lẹ đi, để ổng đi mất bây giờ.

 Tôi càu nhàu, "cần câu ngời ngời như cây ăng-ten làm sao mà mất!" và luồn lách đám đông, bước vội theo người đàn ông. Mái tóc đen, vóc dáng người châu Á. Khi đến sát sau lưng, tôi nói bằng tiếng Mỹ cho chắc ăn:

 -Excuse me.

 Người đàn ông quay lại. Trong một lúc, cả hai đứng ngớ ra. Hắn nhìn tôi, mắt nheo lại vì suy nghĩ. Tôi nhìn hắn, bàng hoàng vì vết thẹo thâm đen giữa trán. Và như tia chớp, cả hai đều nhận ra nhau ngay.

 -Hiệp xe ôm đó hả?!

 -Minh khách ôm tui đó hả?!

 Hai người cố tri cười vang trời tha hương. Có niềm vui nào lớn bằng?

 Tôi hỏi:

 -Anh đi năm nào? HO mấy?

 Minh cười hề hề:

 -Không ho hen gì hết! Đi ngay đêm sau bữa gặp anh, bằng chiếc ghe cào của con ông Sáu Ngời! Mà tui cũng không phải là cháu chiếc gì của ổng! Che mắt công an vậy mà. Đi bằng ghe của con nhà đảng viên chắc ăn như bắp, phải không?!

 Tôi kêu trời từng chặp. Đời tôi hình như hay gặp những chuyện khác thường. Lần này, tôi kêu trời nhưng không phải như lúc ở Cồn Tàu đâu nhé!

 

 Phạm Chinh Đông

 

 -

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
20 Tháng Tư 2015(Xem: 9242)
Giờ này, có ai thả dùm tôi một ngọn đèn, làm dấu chỗ Sông nằm, hoi hóp, chờ ngày sẽ ngừng trôi ra biển!
19 Tháng Tư 2015(Xem: 9401)
Thế là hết một ngày vui, tuy mệt mỏi vì phải cuốc bộ trên những con đường dài, nhưng rất lý thú.
19 Tháng Tư 2015(Xem: 10625)
Hy vọng đời sống luôn có những người trọng tình nghĩa như những nhân vật trong chuyện
12 Tháng Tư 2015(Xem: 15868)
Xin chân thành gởi nén hương lòng “Tưởng Niệm” đến những Anh Hùng QLVNCH. Những người nằm xuống trong cuộc chiến, những người tuẫn tiết vì quốc nạn 30/04/1975 và những người ngã gục trong lao tù cộng sản.
12 Tháng Tư 2015(Xem: 11399)
làm thơ Đường Xướng Họa tham gia vào nhiều nhóm tác giả tên tuổi. vừa để tập dợt, vừa học hỏi cầu tiến.
06 Tháng Tư 2015(Xem: 13201)
Có đi vào chiến tranh, có chia xẻ tận tình với nhau những lần sống chết mới thấm thía được nỗi nhớ ấy như thế nào
03 Tháng Tư 2015(Xem: 9247)
Là hễ đờn ông được danh vọng thì đàn bà cũng thơm lây, nhưng khi đàn bà nổi danh thì tên tuổi đàn ông chìm sâu thêm.
31 Tháng Ba 2015(Xem: 11569)
Cám ơn tác giả Hà Thu Thủy đã gởi đến cho người đọc thông điệp yêu thương và nhân ái với nhiều quyết tâm
29 Tháng Ba 2015(Xem: 10122)
Cuộc chia ly nào cũng đau khổ và tiếc nuối. Ra đi là hết, biết đến bao giờ trở lại. 1954 Cầu Hiền Lương đã chia đôi đất nước.
28 Tháng Ba 2015(Xem: 10894)
Tôi không tin một triệu dân Biên Hòa ai ai cũng đồng tình phát triển thành phố mà quên đi chục triệu dân Sài Gòn.
21 Tháng Ba 2015(Xem: 9305)
Trời bảo, Trời mưa vì buồn thôi Để người thơ thẩn, ngắm mưa rơi
19 Tháng Ba 2015(Xem: 10821)
Chúng tôi có bạn đồng hành, đồng trang lứa, có những người lính, người sĩ quan VNCH cùng lớn lên ở đấy, đang xả thân thay cho chúng tôi
17 Tháng Ba 2015(Xem: 10249)
hình bóng cuả quê hương nằm rải rác suốt ba miền Trung Nam Bắc, nơi nào tôi cũng thấy đáng yêu, càng nghèo càng khổ lại càng thương càng nhớ.
13 Tháng Ba 2015(Xem: 10474)
Tiếc nuối nhớ lại những kỷ niệm xa vời, để mà ngậm ngùi thương tưởng, tìm về một thời “Xuân Thì” đã qua.
09 Tháng Ba 2015(Xem: 11211)
đưa con thuyền bềnh bồng, mênh mông theo làn nước cuộn, thoang thoảng xa xa bài ca vọng cổ não nề, buồn bã chia tay…
08 Tháng Ba 2015(Xem: 16957)
“Rồi Mai Đây” và “Tôi Muốn”. Như một lời cám ơn các anh Ngô Quyền, các em Khiết Tâm trong đêm Reunion và 45 Năm Tình Bạn.
08 Tháng Ba 2015(Xem: 10633)
Tiển biệt Mẹ người mẹ vĩ đại của chúng con với lòng thương tiếc trọn đời
07 Tháng Ba 2015(Xem: 11392)
Mong cháu tôi nhớ mãi ngày hôm nay để cố gắng học hành, không phụ lòng tin tưởng của cha mẹ cháu và của chính tôi.
28 Tháng Hai 2015(Xem: 10628)
tình cảm anh chị em vẫn tràn trề dù thời gian đã mấy chục năm. Xin cám ơn người Biên Hòa của tôi.
25 Tháng Hai 2015(Xem: 10073)
khi nghe một chiếc lá rụng, một giọt nước rơi, như nhắc nhở mình để biết thương tuổi thơ, tuổi trẻ Việt Nam và biết yêu đất nước mình hơn.
25 Tháng Hai 2015(Xem: 10282)
Định cư ở Mỹ từ năm 1992 nhưng mãi đến giữa năm 2013 mới liên lạc được với vài anh chị đồng hương Biên Hòa
25 Tháng Hai 2015(Xem: 11041)
Tấm lòng nhi nữ thương mà trách. Chẳng trách chi Nàng, trách Hóa công
25 Tháng Hai 2015(Xem: 9580)
Để đắm mình trong Dòng A Mai trong vắt, rồi nửa đêm thao thức, vẳng bên tai xào xạt, sóng bổ ghềnh.
23 Tháng Hai 2015(Xem: 19182)
Ban chấp hành hội ái hữu Biên Hòa California và đồng hương đã tham gia cả sự trang trọng và đặc biệt.
19 Tháng Hai 2015(Xem: 10382)
giáng sinh năm nay người mẹ đã mất và người con chỉ biết gởi cho chúng tôi tấm hình để làm kỷ niệm như một lời tri ơn
14 Tháng Hai 2015(Xem: 10555)
Cám ơn Hội Ái Hữu Biên Hòa, cám ơn Ngô Quyền và cám ơn cái quán Cà Phê Cầu Mát dễ thương
12 Tháng Hai 2015(Xem: 10199)
Anh tôi đã mất lâu lắm rồi, nhưng mỗi khi thấy một người mặc đồ Biệt Động Quân trong những ngày lễ hội, tôi lại nhớ anh tôi vô cùng
12 Tháng Hai 2015(Xem: 10455)
Tôi chịu không nổi cái cảnh bó gối ngồi trong rọ. Bao nhiêu gia đình đã tìm đường chạy khỏi Sài Gòn và đã chạy được khỏi Việt Nam
12 Tháng Hai 2015(Xem: 10685)
Người Đi Trên Mây của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng có lẽ là tác phẩm được nhắc đến nhiều nhất mỗi khi người ta nói hoặc viết về Nguyễn Xuân Hoàng
12 Tháng Hai 2015(Xem: 10554)
Cuộc đời có những buồn vui bất chợt dễ thương để trở thành kỷ niệm đẹp, đều mang một ý nghĩa thiêng liêng.
04 Tháng Hai 2015(Xem: 10215)
Hy vọng tôi sẽ vượt qua một cách bình an và để lại một nụ cười. Nụ cười mãn nguyện cám ơn cuộc sống quý giá mà ơn trên đã ban cho tôi.
04 Tháng Hai 2015(Xem: 9987)
Cái chết của người bạn thân thiết là sự đoạn tuyệt đột ngột với quá khứ của mình. Chúng ta không những mất một sự hiện diện mà còn mất cả một phần của cuộc sống
04 Tháng Hai 2015(Xem: 11315)
Tôi chỉ là một bông hoa dại được hội AHBH đem vào vườn hoa văn nghệ và ươm phân, tưới nước.
23 Tháng Giêng 2015(Xem: 10280)
mong chị hãy thanh thản bước về miền tây phương cực lạc
23 Tháng Giêng 2015(Xem: 10727)
Cám ơn tác giả Nguyễn Thị Thêm đã cho tôi và những đồng hương độc giả BH thưởng thức một bài thơ hay, đầy ý nghĩa và chứa chan tình tự quê hương.
17 Tháng Giêng 2015(Xem: 10386)
những kỹ niệm, những tình cảm mến thương với chị Chu Diệu Thi, chị Lương Thị Sao bỗng chốc không cầm được nước mắt…
15 Tháng Giêng 2015(Xem: 9934)
Trong khi những cơn gió Bấc cứ thi nhau thổi phà qua căn nhà trống trước, trống sau đem thêm những cơn lạnh thấu da.
14 Tháng Giêng 2015(Xem: 8779)
Trong không gian êm tịnh, tôi trở về với cái tôi. Chung quanh sự vật cố hữu quen thuộc như muốn nói lên điều tự khoái…
14 Tháng Giêng 2015(Xem: 10902)
cho một thi sĩ đã ra đi, nhưng lời thơ còn ở lại và vẫn chứa đựng mênh mang năm tháng cuộc đời .
13 Tháng Giêng 2015(Xem: 10338)
Tiển người đi. Trả lại buồn phiền những ai bi
11 Tháng Giêng 2015(Xem: 10607)
Sáng ngày 1-5, tôi bước ra khỏi bịnh xá, đứng trên Quốc lộ 4 nhìn về hướng Cần Thơ thấy mặt trời lên đỏ rực, báo hiệu một ngày mới
10 Tháng Giêng 2015(Xem: 10286)
Phong bao tuy nhỏ nhưng mang một ý nghĩ to lớn là người Việt mình độc lập trong đời sống, trong tư tưởng cũng như phong tục tập quán.
05 Tháng Giêng 2015(Xem: 15795)
Nhìn lại, mái tóc đã pha muối tiêu. Tình cảm vẫn như ngày xưa. Xin cám ơn cuộc đời.Một ngày vui qua mau.
01 Tháng Giêng 2015(Xem: 10412)
Tôi thấy mình quá đầy đủ và hạnh phúc. Xin chia sẻ niềm hạnh phúc này đến tất cả các bạn.
24 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 11358)
Thưởng thức lại ca khúc “Lời Con Xin Chúa” không phải để khơi lên “đống tro tàn tang tóc”, mà để cảm thông với những con người đã và đang chịu đau khổ
24 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 9970)
merry Christmas and happy New Yeara
24 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 9855)
Gia đình Kiều Oanh xin chân thành gửi lời kính chúc đến quý vị trưởng thượng, quý Thầy cô, đồng hương, cùng các bạn hữu vui đón một mùa Noel an bình, thịnh vượng
21 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 14951)
Lòng bồi hồi xúc động nhớ những ngày vui hồn nhiên của một cô gái nhà quê lên tỉnh học
20 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 9088)
Cám ơn các thân hữu, bạn bè gần xa đã đọc những tâm tình của tui trong năm qua và luôn yêu thương, khuyến khích.
11 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 11292)
Giữa hai người yêu nhau mà người con gái vì một chuyện gì đó nhỏ lệ thì người con trai lại hốt hoảng lo âu