Hoài niệm
Quê tôi ở Cù Lao Phố. Dù quê tôi được gọi bằng
những tên khác có ý nghĩa như Đông Phố, Giản Phố, Cù Châu, v.v. tôi vẫn
yêu cái tên Cù Lao Phố hơn cả. Ba tôi khai khẩn và lập nghiệp ở cù
lao này, vùng đất sa bồi từ nhánh sông Đồng Nai quanh co uốn khúc. Cả
tuổi thơ của tôi hồn nhiên không gợn chút ưu tư gắn trọn với Cù Lao
Phố nơi tôi ngày ngày cắp sách đến trường tiểu học Hiệp Hòa, đùa vui
thoả thích với chúng bạn lúc bắt cá, tắm sông, trèo hái vú sữa, để
rồi lớn dần theo năm tháng trong ốc đảo với kỷ niệm chất chứa.
Gắn bó cách mấy rồi tôi cũng đành đoạn bỏ Cù
Lao Phố mà đi. Bao năm biền biệt xa cách, niềm nhớ thương quê cũ gậm
nhấm hồn tôi. Nhắm mắt lại, tôi vẫn mường tượng được giữa dòng sông lặng
lẽ một Cù Lao Phố thấp thoáng mái đình, mái chùa. Nhà của ba má tôi
ở xa phố thị nên từ thuở nhỏ tôi đã quen thuộc với không gian cố
hữu: mùi đất ẩm ướt, sự tĩnh mịch quyện trong màu xanh cây trái và ruộng
vườn cùng những đêm mưa nhỏ hạt đồng điệu với tiếng dế nỉ non. Khi được
dịp dắt đi chùa Ông, tôi giương to đôi mắt trẻ thơ như bị thôi miên bởi những mái ngói cong đỏ
và những tượng thờ uy nghi mà thời bé thơ tôi có phần e dè, rón rén
khi tiến gần.
Lớn hơn một chút, tôi theo gương chị Sáu và chị
Bảy vào trường Trung Học Ngô Quyền tại thành phố Biên Hòa. Thời đó,
Ngô Quyền là trường trung học công lập duy nhất ở miền đông Nam Phần vì
vậy thi đậu vào một trường danh tiếng như thế là niềm tự hào cho gia
đình nhưng ba má tôi phải lo toan thêm. Chị Sáu thương ba má sớm khuya vất
vả nên đành bỏ dở việc học để phụ gia đình nuôi các em ăn học. Tôi
còn nhớ những ngày đầu tiên học lớp đệ thất, tôi bẽn lẽn trong
chiếc áo dài trắng nữ sinh và luôn trông ngóng đến ngày thứ hai hàng
tuần để được háo hức mặc chiếc áo dài màu xanh dự lễ chào cờ. Chị
em tôi đi học bằng phương tiện xe lam qua cầu Rạch Cát nơi kết nối Cù
Lao Phố với thành phố Biên Hòa. Sau này trở về thăm quê, tôi thỉnh thoảng dõi mắt tìm lại hình ảnh chiếc xe lam,
kiểu xe truyền thống với hai băng ghế khách ngồi đối mặt nhau; các
khách thường là các cô nữ sinh kéo vạt áo dài khép nép và các phụ
nữ quang gánh vất vả nhưng các hình ảnh tôi muốn tìm lại dường như
chỉ còn là ký ức.
Nếu ở trường tiểu học làng quê tôi đơn thuần là đứa
nhỏ thả hồn bé thơ trong những trò chơi banh đũa, nhảy cò cò với
bạn học thì ở trung học Ngô Quyền tôi đã để lại ấn tượng thương mến
từ bạn bè và thầy cô về những hoạt động sôi nổi thời học trò của
tôi. Tuổi mộng mơ của tôi song hành với những hoài bão mới ươm. Hiểu
biết về con người và hiện tình đất nước đưa tầm nhìn của tôi vượt
thoát không gian hạn hữu của một Cù Lao Phố bé nhỏ. Nhận thức về
chiến tranh, hy sinh và mất mát của con người đánh động tâm thức một nữ
sinh mới lớn như tôi. Trái tim nhiệt huyết của tôi bắt đầu có những
trăn trở, suy tư. Tôi thấy mình cần làm một điều gì ý nghĩa để đóng
góp dù chỉ là nhỏ bé. Tham gia sinh hoạt hiệu đoàn trường với tư
cách trưởng khối văn nghệ, tôi đã nối kết nhiều bạn học để tổ chức
những lần thăm tiền đồn ủy lạo chiến sỹ và phụ diễn văn nghệ. Lần
tổ chức nào cũng thành công vì tôi nhận được sự khích lệ của thầy
cô và bạn bè chung sức góp tay.
Cứ mỗi mùa hè ngôi trường Ngô Quyền đỏ thắm màu hoa phượng vỹ, tôi lại chứng kiến lớp lớp đàn anh sau khi đậu tú tài tiếp tục lên Sài Gòn học đại học hoặc tham gia quân ngũ. Trong số bậc đàn anh tôi ngưỡng mộ có anh Huỳnh Quan Minh cùng quê ở Cù Lao Phố. Anh đậu Thủ Khoa đại học Y mà vẫn khiêm cung cố hữu. Anh kèm chúng tôi học thi tú tài, mỗi lần chúng tôi mỏi mệt hay nản học, chúng tôi lại được thưởng thức ngón đàn guitar solo tuyệt diệu của anh. Vận nước đổi thay, tôi mất liên lạc với anh để rồi sau bao năm gặp lại, điểm hội ngộ không phải là Cù Lao Phố nơi anh em chúng tôi lớn lên mà là ở xứ người. Tôi nhớ mình đã xúc động bàng hoàng, thốt lên:
“Anh Minh ơi, em thấy anh già đi nhiều.” Anh cười nhẹ:
“Vậy Lộc còn trẻ lắm sao?”
Anh nói đúng, khi gặp lại anh thì tôi đã trải qua bao thăng trầm của
cuộc sống, tóc chớm muối pha tiêu, chứ đâu mãi là cô nữ sinh áo dài
đi học trường Ngô Quyền thuở nào. Riêng anh, tôi tin chắc rằng trong
lòng các bệnh nhân của anh thì anh vẫn giữ mãi hình ảnh của một vị
lương y đức độ.
Tôi nối tiếp lớp đàn anh lên Sài Gòn ghi danh đại học
Luật Khoa với mong ước một ngày mai dấn thân giúp đời, góp công sức
đem lại công bằng cho xã hội. Tôi vừa là sinh viên vừa đi làm thêm để
trau dồi nghiệp vụ cho một tương lai hứa hẹn. Tuy nhiên cuộc đời chỉ
trải thảm cho tôi đến khi tôi học năm thứ hai thì thế thời đảo lộn. Hụt
hẫng trước tương lai vô định và phải đương đầu với thực tế cơm, áo,
gạo, tiền, tôi đành bỏ học để lăn lộn kiếm sống phụ nuôi gia đình. Chị
Sáu và chị Bảy lúc đó cùng chịu chung số phận như bao phụ nữ với
đàn con thơ dại và chồng là chiến binh Việt Nam Cộng Hòa. Chồng chị
Sáu đang trong lao tù cộng sản và chồng chị Bảy đã tử nạn trước đó
trong mùa hè 1972. Riêng tôi lập gia đình được vài năm thì đã trở
thành goá phụ bên đứa con gái còn nhoẻn miệng cười ngây thơ chưa in rõ
nét hình ảnh người cha trong trí nhớ non nớt. Khóc cho phận mình chưa
đủ, tôi đa đoan thương thương chị Bảy hơn ai hết. Một phần là vì hai
chị em tôi kế nhau nên thân hơn, và một phần tôi đồng cảm với chị vì
cả hai chị em tôi đã sớm trở thành goá phụ khi tuổi đời chưa đến ba
mươi.
Chị Bảy tôi chọn nghề làm cô giáo trước khi quen
anh Quang, sau này là anh rể tôi. Anh Quang yêu chị, anh hứa với chị đi
học khóa sĩ quan rồi mới kết hôn với chị để chị không tủi với bạn
bè. Anh Quang giữ lời hứa, tốt nghiệp Thủ Khoa khóa sĩ quan Không Quân
tại Nha Trang và Á Khoa tại Hoa Kỳ rồi trở về nước cưới chị tôi. Hạnh
phúc ngập tràn khi đứa con trai đầu lòng của anh chị ra đời. Tuy nhiên
trong thời chiến không ai biết được cuộc sống sắp đến sẽ ra sao, vì thế
vợ chồng chị Bảy cũng không là trường hợp ngoại lệ. Khi cháu trai
tôi được tám tháng và cháu gái còn nằm trong bụng mẹ chỉ ba tháng
tuổi thì chị Bảy nhận tin dữ báo chồng tử nạn. Đó là mùa hè 1972 khi
anh Quang đang đóng quân ở Phù Cát và ngày đó anh cùng đồng đội thực
hiện phi vụ tiếp tế cho chiến trường Ban Mê Thuột thì máy bay bị
nạn.
Đau đớn cho chị Bảy ngày cùng tôi đi máy bay ra căn
cứ Phù Cát để nhận lại kỷ vật của chồng, chị đã ngất lịm khi cửa
phòng anh Quang được mở, mọi thứ trong phòng anh nguyên vị như lúc anh
còn sống và dường như anh chỉ chợt bước ra khỏi phòng để nhận lệnh bay
mà thôi. Ly cà phê còn dở dang, tấm ảnh người vợ với mái tóc thề
anh yêu quí là những kỷ vật sống động tựa như đang ngóng anh về. Chị
tôi có nỗi đau như bao phụ nữ có chồng chiến binh khi nhận giấy báo
tử, nhưng nỗi đau của chị tăng bội phần bởi lẽ các góa phụ nhận
giấy báo chồng tử trận thì vẫn còn được khóc bên xác chồng, còn
chị tôi nhận giấy báo chồng tử nạn thì xác chồng biết nơi nao mà
nhận. Đến khi chiến cuộc tàn thì hai đứa con của chị Bảy vẫn còn bé
dại. Cuộc sống của mẹ con chị càng bi thương hơn vì chị mang số phận
của người vợ sĩ quan chế độ cũ; một buổi chị tôi cầm phấn dạy học
trò, buổi còn lại trong ngày cũng đôi tay gầy guộc cày cố làm ruộng
còn con trẻ đi chăn dê. Tận đáy lòng, chị tôi vẫn giấu kín nỗi niềm đau đáu tìm lại xác chồng.
Phần tôi có nỗi truân chuyên của riêng mình. Được tiếng là xốc vác hơn các chị, tôi lăn lộn kiếm sống trọn đạo dâu con, trách nhiệm người mẹ, đồng thời dang tay đùm bọc cả những đứa cháu côi cút. Anh rể Quang đối với gia đình tôi chân tình, sống chan hoà nên khi nhận tin anh tử nạn, từ ba má đến các anh chị đều thương tiếc anh. Vì không nhận được xác anh nên mọi người vẫn hy vọng dù rất mong manh rằng anh chỉ bị mất tích và có cơ may trở về; thảng như anh đã mất thì ít ra cũng tìm được xác anh để an ủi chị tôi và các cháu phần nào. Khi định cư nơi xứ người, ngoài nỗ lực lo chu toàn cho người thân nơi quê nhà, tâm tôi còn mong muốn tìm được thông tin về người anh rể mà tôi quí trọng. Mỗi khi nghĩ đến anh Quang, tôi luôn cầu nguyện “Anh ơi, xin giúp em làm tròn ý nguyện là tìm được xác anh đem về cho chị Bảy và hai con của anh.”
Có chăng lời nguyện chân thành của tôi đánh động tâm linh người đã khuất, tôi may mắn liên lạc được với Đại Tá Nguyễn Hồng Tuyền, vị chỉ huy trưởng của anh thời đó và nhận được sự trợ giúp nhiệt tình. Với những nỗ lực đóng góp tài chánh, công sức, thì giờ, các chiến hữu của anh đã có thể thực hiện các chuyến đi dò tìm tọa độ nơi phi hành đoàn tử nạn. Sau cùng nhà ngoại cảm đã có thể cảm nhận địa điểm rơi của máy bay trên đỉnh núi ở độ cao 1.500 mét và rải rác năm bộ xương người quanh đó. Tuy nhiên, điều mong mỏi khai quật để đem năm bộ hài cốt trở về cho các thân nhân đã không thực hiện được, vì giấy phép không được cấp với lý do nơi đó thuộc khu vực núi cấm. Một lần nữa, chị tôi chỉ còn biết quỳ dưới chân núi lặng lẽ khóc thương chồng. Tin này nhận được trùng hợp với lúc tôi thấy xác một chú chim gục đầu chết buồn bã bên bệ cửa sổ phòng nơi tôi thường ngồi tư lự.
Giờ đây, chỉ có bài vị của anh rể tôi cùng bốn chiến hữu được đặt trong chùa, sáng chiều nghe kinh kệ. Cánh chim bạc Nguyễn Hữu Quang cùng với phi hành đoàn trong chuyến bay định mệnh đã yên nghỉ trên núi cao, xương cốt các anh dần trở về với cát bụi. Vợ con anh cam lòng chấp nhận điều không trọn vẹn như những tưởng. Phận tôi vuông tròn nghĩa vụ với bên chồng và bên cha mẹ; tôi yên lòng nhìn con gái vững chãi trên bước đường đời và các cháu tôi đã thành nhân. Quay nhìn lại đời mình tôi chợt nhận ra mình đơn lẻ không bạn song hành đến cuối cuộc đời. Giá phải chi tôi níu lại được tuổi thanh xuân thì tôi sẽ sống cho riêng mình. Giá phải chi cuộc đời không qua mau thì tôi sẽ thực hiện những dấn thân giúp thế nhân. Giá phải chi... Giá phải chi...
Vô vàn điều tôi muốn thốt lên giá phải chi. Nhất định có một điều. Giá phải chi tôi tái sinh, xin cho tôi được sinh ra nơi Cù Lao Phố một lần nữa. Chẳng là gì cả. Chỉ đó là quê hương tôi mang trong tim.
Angie Lê - Lộc Cù Lao
Tháng
11-2013