truyện phiếm của NGUYÊN NHUNG
Ngày di cư vào
Tuy vậy, làng xóm người Bắc lọt thỏm vào những xóm làng miền
Người miền Bắc đời sống chật vật, chịu đựng giỏi để vươn lên, chắt chiu tiện tặn lần hồi cũng nhà cao cửa rộng, con cái ăn học nên người. Người miền
Giai đoạn đầu người miền Nam nhìn người Bắc di cư như người khác nước, nhưng sau hiểu ra họ cũng thông cảm phần nào cảnh gia đình tan nát vì chiến tranh. Đã 45 năm Trịnh Nguyễn phân tranh, dân ta cay đắng nhiều rồi, chỉ mong đất nước thanh bình, sống đời an lạc. Chiều chiều những đợt khói lam bốc lên từ những mái tranh mái lá, tiếng chuông nhà thờ ngân nga xóm đạo miền Bắc, hòa lẫn tiếng chuông chùa miền
Ở chưa yên chỗ chiến tranh lại bò dần vào xóm làng người Bắc , đêm đêm nghe tiếng súng nổ ai cũng hãi hùng. Mẹ tôi vì sự học cuả các con, đi theo người anh cả nên dẫn đám con nhỏ xuôi về miền Tây, đồng ruộng màu mỡ, vườn tược xum xuê làm nơi đất lành chim đậu. Hôm mới đến, một bà hàng xóm miền
" Con tui nó cũng lấy chồng ở "nước" nhà chị. Hồi đó tui hông biết tại sao người xứ chị "dzô" ở với người Việt tụi tôi, sau thằng rể dẫn đi coi phim "Chúng tôi muốn sống", tui mới hiểu."
Chuyện cười ra nước mắt, tội này là tội cuả tụi Thực Dân chia để trị, người hiểu biết thì không ai lại phát ngôn một cách vô ý thức như trên. Mẹ tôi tính hiền lành, không cải chính sợ gây ác cảm với người hàng xóm, chỉ hơi ngạc nhiên vì tiếng “Chị” thay cho tiếng “Bà” mà những người miền Bắc hay dùng khi nói chuyện với nhau. Chúng tôi đi học, từ bậc Tiểu học rồi qua tới thời kỳ Trung học, thầy cô giáo Nam có, Bắc có, học sinh miền Nam tha hồ nhái giọng Bắc để trêu ghẹo đám bạn mới từ miền Bắc vô. Tôi có nhiều bạn miền
Đi về miền
Tôi đi học, nói tiếng Bắc nghe có vẻ lạc lõng giữa một lớp học toàn Nam Kỳ quốc, bởi vậy tự động nhái giọng Nam, rồi chắc vì lưỡi con nít còn dẻo nên dần dà không ai biết tôi là người Bắc. Đa số người Bắc nói tiếng Nam cứng đơ, nói không đúng, có khi lại còn bị hiểu lầm là "Chửi cha không bằng pha tiếng", thực là "oan ui ông Địa". Đúng ra thì chỉ có một thứ tiếng, nhưng từ ở miền Bắc phát âm hơi cưng cứng, chữ TR với CH nghe giống hệt nhau, vào tới miền Trung nó cứ trài trại ra nghe nằng nặng, khi đến miền Nam bị ảnh hưởng Lào, Xiêm, nó trơn trớt rồi nói sao viết vậy, đâm trật lất. Tôi ít chữ nghiã nên chỉ diễn tả theo lối bình dân học vụ, hễ sai sót thì bà con đánh cho hai chữ "đại xá". Chả bù cho anh tôi, uống nước miền Nam đầy cả bụng, lấy vợ miền Nam nấu cơm chắt nước rồi lại lấy nước cơm uống lại, mà phát âm tiếng miền Nam cứng đơ như người Mỹ nói tiếng Việt. Vậy mà mấy chú G.I. tóc vàng mắt xanh lúc trở lại Việt
"Việt
Họ nói tiếng Bắc đấy, cứ như là họ yêu mến cái xứ sở cuả mình còn hơn xứ sở họ, hèn gì mà gần như cả thế giới không ưa họ mà vẫn không dám cắt đứt tình hữu nghị với họ. Mắt họ xanh xanh, biêng biếc như sóng nước đại dương, nhìn họ cứ tưởng họ "khờ "mà họ "khôn" tổ mẹ, chả tin thì cứ nhìn qua những công trình xây dựng cuả họ, mới thất kinh cho cái đầu đoàn kết cuả dân tộc họ, họ chỉ đi vào chuyện lớn chứ ba cái lẻ tẻ họ xem như "pha". Cái món mình ăn họ không xơi được vẫn khen ngon rối rít, nhưng mời ăn nưã thì họ "thank you" rồi xua tay mỉm cười rất khó hiểu. Thành ra tôi thông cảm với cái người miền Bắc xứ tôi, hồi mới di cư vô Nam hễ được mời ăn sầu riêng là món quý cuả miền Nam, họ cũng cầm lấy rất lịch sự nhưng chờ cho người kia quay mặt đi là len lén vứt vô thùng rác. Đó là chuyện xưa lúc tôi còn bé tý, chứ bây giờ một trái sầu riêng be bé tôi cũng xực tuốt luốt chỉ chừa cái …hột và vỏ.
Thôi tôi không nói chuyện Quốc Tế nưã, chuyện đó để cho những người nhiều chữ nghiã, tôi chỉ kể chuyện Nam Bắc xứ tôi nghe chơi thôi. Chị dâu tôi ngưòi miền Nam , chị nấu ăn ngon tuyệt mà cũng chiều ông chồng Bắc Kỳ tối đa, chả phải chỉ có đàn bà miền Bắc mới biết tảo tần, chiều chồng đâu. Những khi nhõng nhẽo với anh, chị chỉ cần nhão nhà nhão nhẹt “anh ơi, anh à” thì nói gì anh tôi cũng nghe. Mật ngọt chết ruồi, anh tôi đành làm con ruồi bơi trong hũ mật miền Nam.Trong khi đó cả nhà tôi cố bắt chước nói tiếng Nam, để hoà nhập vào với miền Nam thân thương, bầu bí gì mà hễ đem nấu với đầu tôm thì canh cũng ngọt như thường, đâu ngờ khi đó bà chị dâu miền Nam cuả tôi lại bắt đầu pha giọng Bắc. Trời đất quỷ thần thiên địa ui! Cái giọng Nam pha Bắc sao nó "ngộ" quá trời quá đất đi, mỗi câu chị nói, xề xuống chữ "Ạ" cuả dân miền Bắc nó mùi thua gì ca sáu câu vọng cổ, y như tiếng trẻ con chào khách. Bởi vậy mẹ tôi quý cô con dâu miền
Chị dâu tôi khéo về môn bánh trái, thêu thuà lắm, dù gì chị cũng xuất thân từ một gia đình nền nếp ở miền Tây, đi đâu ăn mặc chưng diện chứ không xuề xoà như người ta thường nói. Cái này mới là điều mà mẹ tôi hơi phiền lòng mà không dám nói ra, chị lại là cô thợ may nên chăm chỉ ăn diện cho khách nhìn vào sẽ không tiếc tiền may mặc. Mỗi lần nhân dịp Lễ Hai Bà Trưng, phụ nữ trong Tỉnh đua nhau thi gia chánh , nữ công, chị luôn luôn đoạt giải phụ nữ khéo, còn tôi hồi ấy khá "xổ sưã", nếu có thi chắc chỉ đoạt giải "trẻ em hay ăn chóng nhớn". Một đám em chồng miền Bắc mà hồi xưa chị cho là "giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng miền Bắc "cũng dễ thương quá "chời" , mấy anh bà con bên nhà chị đã không kỳ thị, lại còn theo đuôi tụi tôi mà ca bài "áo nàng "dzàng" anh " dzìa" yêu hoa cúc, áo nàng xanh anh mến lá sân trường" nưã chứ!
Ngộ là hồi ấy mấy anh con trai miền Nam lại mê tít mấy cô gái Bắc, họ cũng văn chương mà gọi tụi tôi là "Hỡi cô Bắc kỳ bé nhỏ cuả tui ơi!", còn tụi tôi thì bèn nhái cả giọng Nam lẫn giọng Bắc mà trêu lại rằng "Lam" Kỳ mà "nại "đi thương "Bắt" Kỳ". Trong khi đó mấy anh Bắc Kỳ nhà tôi thì lại quả quyết rằng, mấy cô gái miền
Hồi chị dâu tôi mới lấy anh tôi, bất cứ nước luộc. . . gì cũng đổ đi, cả nhà chưng hửng vì cho là người phí phạm. Sau mới biết là thói quen ăn uống cuả người Nam khác miền Bắc. Sau này nhờ mẹ chồng chỉ dẫn, mới biết lấy nước luộc rau muống đánh dấm cà chua, cho thêm tý tỏi tý muối, tý bột ngọt , vắt thêm miếng chanh là làm được món canh " chay" rất mát bụng. Bởi vậy mới có thơ thẩn ... rằng:
" Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa có ao rau muống, xung quanh Bắc Kỳ.
Luộc rau chớ đổ nước đi,
Vắt chanh thêm muối còn gì... mát bụng hơn."
Con cua đồng miền
Thời gian sống ở miền Tây, tôi còn được làm quen với các loại rau hoang như rau càng cua mọc lan tràn trong vườn, trong sân như cỏ dại, chỗ nào cây to bóng mát, đất ẩm chỉ cần vài cơn mưa là dưới bóng cây rau càng cua mọc lên từng mảng xanh rờn. Không ngờ loại rau có lá hình trái tim hơi tròn trĩnh như một đồng xu, màu xanh non ngọc thạch mượt mà dễ thương, lại là một món rau bổ ích mà mãi sau này khi tìm hiểu tôi mới biết công dụng dược thảo của nó tốt hơn nhiều thứ rau nhà được vun trồng tưới tắm.
Trên mâm cơm của người miền Tây thuở ấy, từ Trà Vinh cho đến Cần Thơ thường có rổ rau sống ăn kèm với thịt , cá kho, mắm kho, vì vậy mà chất tươi mát này đã thấm đẫm trong xương tuỷ cũng như tâm hồn của người miền Nam. Một rổ rau tươi đủ loại để ăn mắm bao giờ cũng có sự hiện diện của nắm rau càng cua hương vị nồng nồng nhưng giúp những gia đình nghèo đưa chén cơm vào miệng thật ngon lành. Mảnh đất ẩm nằm cạnh cái giếng nước giúp cho rau càng cua tăng trưởng tươi xanh , mọc len trong cỏ nằm cạnh vách tường, miễn có đất ẩm là có rau, nên cả nhà tha hồ hái rau ăn quanh năm.
Chị dâu tôi thường làm món rau càng cua trộn dầu giấm thịt bò, ngon hết biết. Nhưng sau này khó khăn, đâu phải lúc nào cũng có thịt bò, nên mẹ tôi chế biến thành món rau trộn chay giản dị mà cũng rất ngon. Vài trái cà chua chín thái ngang, mấy củ hành khô ngâm dấm và chừng hai cái hột vịt bày xung quanh đĩa rau, trộn dầu giấm chấm nước mắm chua ngọt là cả nhà đã được một bữa ngon cơm rồi. Bây giờ ở quê người, cuối xuân sang hè tôi chỉ mong trời mưa, tiếng sấm động ì ùng với những cụm mây đen ùn ùn kéo đến, vài trận mưa lút đầu ngọn cỏ là lúc đó rau càng cua cũng chuẩn bị mọc lên chen nhau dưới những bụi cây thấp và ẩm. Khi đã mọc rau tăng trưởng khá nhanh, một sớm mai ra vườn nhìn thấy những cụm rau mát như ngọc thạch vươn lên chen lẫn trong lá cỏ, người xa quê mới cảm thấy nỗi ao ước hưởng lại hương vị rau càng cua quê nhà, giờ đây cũng lạc loài nơi xứ lạ.
Vì thích ăn rau càng cua nên tôi đã tò mò tìm hiểu xem loại rau này mang tiếng là hoang dại, nhưng hình như dòn dòn ngon ngon hơn nhiều loại rau khác. Theo bảng phân tích các chất dinh dưỡng, rau này có rất nhiều loại chất bổ khác nhau với hàm lượng hơn hẳn so với rau Muống. Nói có sách mách có chứng, tôi kèm theo đây bảng phân chất để chứng minh tại sao tôi khoái ăn cái món rau thiên nhiên này từ lúc không hiểu tính chất dược thảo của nó:
STT CHỈ TIÊU/ĐƠN VỊ KẾT QUẢ So sánh
1 Protein (g%) 4,00 6,5 (đậu Hà Lan)
2 Tro (g%) 1,8 1,3 (rau Muống )
3 Cellulose (g%) 1,2 1,0 (rau Muống)
4 Canxi (mg%) 242,2 100 (rau Muống)
5 Photpho (mg%) 116,3 37 (rau Muống)
6 Sắt (mg%) 7,1 1,4 (rau Muống)
7 β-Caroten (µg%) 5100 5040 (cà Rốt)
8 Vitamin B1 (mg%) 0,07 0,03 (cà Rốt)
9 Vitamin B2 (mg%) 0,09 0,04 (cà Rốt)
10 Vitamin PP (mg%) 0,06 0,5 (cà Rốt)
11 Vitamin C (mg%) 1,8 3 (cà Rốt)
12 Glycine (mg%) 81,6 81 (Cải bắp)
13 Lysine (mg%) 15,7 62 (Cải bắp)
14 Proline (mg%) 109,6 53 (Cải bắp)
15 Leucine (mg%) 113,4 90 (Cải bắp)
16 Độc chất KPH KPH
Rau càng cua theo Đông Y thì còn có tên là đơn kim, đơn buốt, cúc áo, quỷ châm thảo , thích châm thảo , tiểu quỷ châm,cương hoa thảo. Vị đắng, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, khu phong, hoạt huyết, tan máu ứ; thường dùng để chữa các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp, viêm họng, viêm ruột thừa, viêm gan truyền nhiễm, viêm dạ dày, ruột, tiêu hóa kém, đau nhức xương khớp. Tôi học sách của Lâm Ngữ Đường nên thích ăn hơn uống thuốc, bởi vậy những món rau trời cho không phải trồng mà có ích cho sức khoẻ là tôi xơi như trâu bò nhơi cỏ vậy.
Tôi là cọng rau muống trôi giạt trên dòng sông Hậu Giang, sống quen với phong thổ và khí hậu miền Nam,nhờ gió thuận mưa hòa mà lớn lên sơi sởi như rau cỏ mọc trong vườn. Ông già bạn tôi dân nhậu, không thể thiếu xị rượu đưa cay trong mỗi bữa cơm hằng ngày, cũng nhờ rau mà lá gan cầm cự được với con sâu rượu năm này qua năm nọ.
Tôi đã từng thú nhận với bà con xa gần, tôi là cô bé con Bắc Kỳ di cư, nhưng "tôi lớn lên ở miền Nam, ăn bát cơm miền Nam, uống nước từ những cái giếng trong văn vắt sâu hun hút dưới lòng đá ong...", tôi yêu miền Nam còn hơn miền Bắc cuả tôi nưã, và khi đi xa, những gì tôi nhớ lại chỉ là hình ảnh cuả miền Nam nước tôi. Chuyến phà qua sông Hậu giang, tiếng sóng róc rách vỗ vào mạn bờ nghe ngậm ngùi quá đỗi. Chiếc cầu tre lắc lẻo bắc qua con rạch nhỏ, cây mai vàng trước sân óng ả mỗi độ xuân về, thì ra hễ nơi nào mình lớn lên, gắn bó vào những kỷ niệm trong đời người thì nơi đó là quê hương cuả mình vậy. Thành ra tôi không ngạc nhiên khi thấy những ngươi đồng hương dù Nam hay Bắc, sinh trưởng ở những miền quê nghèo khổ, nay sống ở hải ngoại họ vẫn không bao giờ phủ nhận nơi chôn nhau cắt rún cuả mình, những cái họ nhớ lại chỉ là những gì rất là nhỏ bé và tầm thường, những lúc gian nan lận đận sống trong căn nhà rách chăng nữa thì dấu kín trong đó vẫn vô số kỷ niệm.
Đât nước ta giang sơn gấm vóc, bé tẻo teo nhưng chia tới ba miền, núi sông ảnh hưởng đến con người. Cứ xem cốt cách văn chương thì rõ, đất sản sinh ra vật chất nuôi sống con người, Hà Nội ngày xưa là chốn “ngàn năm văn vật” nên người cũng thanh tao lịch sự không hổ lốn như bây giờ. Miền Trung đất đai hiểm trở, chỗ núi chỗ biển có nhiều nơi đất cày lên sỏi đá, chỗ lại thanh lịch như cố đô Huế, bởi vậy con người cũng sâu sắc, u trầm, lãng mạn. Miền Nam sông nước tràn bờ, lồng lộng gió thổi suốt ngày không hết ruộng luá, đời sống vì vậy mà thanh bình no ấm hơn hai miền Trung Bắc, tính tình cũng hào sảng rộng rãi, yêu ghét lộ rõ ra bên ngoài. Ba miền bổ xung cho nhau để tạo thành một sắc thái đặc biệt cuả Dân Tộc, nhưng bản chất cuả mỗi con người tốt hay xấu thì tuỳ vào Trời sinh, cho nên không thể kết luận miền nào hơn miền nào được.
Bao năm ở quê người, tôi vẫn nhớ về quê hương với biết bao hình ảnh đằm thắm cuả ba miền đất nước, chị em tôi mỗi lần nhắc về quê hương, vẫn nhớ lung tung chỗ này một tý, chỗ kia một tẹo. Khi thì căn nhà xưa nơi chôn nhau cắt rốn ở miền Bắc, có cây bàng trước cửa, có cái ao vuông sau nhà, và những bụi tre, bụi trúc rung rung trong gió thu buồn man mác. Khi thì nhớ căn nhà tranh với khu vườn đất cát pha thịt ở miền Đông Nam phần, buổi chiều nắng xiên khoai chiếu chênh chếch lên những vồng khoai vồng đậu, ngửi mùi cá khô nướng, củ khoai lang lùi trong bếp lưả
Đó, chị em tôi nhớ về quê hương như vậy, không có bóng dáng những nhà cao tầng, địa điểm du lịch sơn lòe loẹt cho em nhỏ nó mừng, mưa gió ngập lụt đường hoá sông, nhất là xe cộ chạy ì xèo tung bụi mù trên đường phố, muốn băng qua đường chờ cả giờ vẫn không dám đi sợ bỏ thây trên mặt lộ. Mỗi khi nhắc về miền Tây, tôi lại nhớ tha thiết chuyến phà qua sông, con đò bập bềnh trên sóng nước Hậu Giang, bóng dáng yêu kiều, thơ mộng cuả những con đường tỉnh nhỏ, hàng sao già với những hôm trời gió lộng , tan trường về nhà vừa đi vừa lượm những trái me chua chín tới rụng trên mặt cỏ, hay nhặt những cành sao khô về nhà cho mẹ nhúm bếp.Trong tôi, hình bóng cuả quê hương nằm rải rác suốt ba miền Trung Nam Bắc, nơi nào tôi cũng thấy đáng yêu, càng nghèo càng khổ lại càng thương càng nhớ.
Nguyên Nhung