Phàm ở đời hầu như ai ai cũng đều sợ
chết hết, ngoại trừ những vị cao tăng đã thấm nhuần lý vô thường, những
người có lý tưởng hy sinh, những người đau bệnh trầm kha nằm một chỗ, những
kẻ mang tâm trạng chán đời trầm cảm cực độ, cũng như những kẻ bất bình
thường mà thôi.
Riêng cá nhân tác giả cũng sợ bệnh sợ chết như mọi người vậy.
Tham sanh úy tử
Ai cũng vậy, hồi trẻ, sức khoẻ dồi
dào, yêu đời, tối ngày chỉ biết có vui chơi mà thôi, chuyện chết chóc là
chuyện cùa mấy ông già bà cả chớ có bao giờ mình bận tâm suy nghĩ đến đâu.
Lớn lên thì phải lo chuyện cơm gạo, chuyện gia đình, chuyện con cái suốt
ngày suốt tháng nên đâu còn thì giờ gì mà nghĩ đến vấn đề chừng nào mình
đứt bóng theo ông theo bà…
Khi tuổi đời bắt đầu hơi cao, khoảng từ 55 tuổi trở lên thì bệnh tật cái
nầy cái nọ bắt đầu lòi ra. Lúc đó, chúng ta mới ý thức rằng cuộc đời rất
phù du, thân xác con người ta không thể nào trường tồn vĩnh viễn được,
không thể nào cải tử hoàn sanh được, v.v…
Tóm lại đó là lẽ vô thường! Có ngày mình cũng phải ra đi như mọi người mà
thôi.
Đi lúc nào thì chưa biết được, nhưng
càng trễ càng tốt phải không các bạn.
Tùy theo số mạng cả. Chết đến không báo trước. Có thể là bất cứ lúc nào, do
tai nạn bất ngờ hoặc vì bạo bệnh bất tử.
Riêng đối với người viết, vài ba năm nữa mình sẽ bước vào lớp thất thập cổ
lai hy nên ý thức rằng ngày ra đi chắc cũng không còn mấy xa lắm đâu.
Tuổi càng về già thì con người ta càng hay suy tư nhiều về cái chết. Vào
lớp tuổi nầy, quanh ta, người thân cũng như bạn bè, lác đác đã có người ra
đi rồi.
Xem mục cáo phó trong các báo Tây báo Việt, thì thấy thiên hạ thường chết
nhiều trong khoảng 80-90 tuổi. Thôi thì mình cũng hy vọng được như họ. Như
vậy, mình còn sống cao tay lắm cũng chừng 15-20 năm nữa là quá sức rồi, với
điều kiện là Trời còn thương và Ngọc Hoàng đừng giũ sổ gởi xuống âm ti bất
tử.
Sao mà lẹ quá vậy Trời!
Ở cái tuổi của tác giả, có ai mà dám nói mình chưa thấm đòn đâu.Tóc thì bạc
phơ rồi, răng cỏ thì cái còn cái mất, ăn uống phải đeo răng giả rất là
phiền phức, còn nếu lỡ nhìn vào kiếng thì thấy mình lụ khụ, lưng khòm, da
thì nhăn nheo đầy đồi mồi mất hết thẩm mỹ, tiếng nói thì bắt đầu hơi run
rẩy, hay nói đi nói lại khiến con cháu bực mình, cái gì cũng yếu hết, bắt
đầu hay quên trước nhớ sau, nay đau chỗ nầy mai đau chỗ kia, nhưng kẹt một
nỗi là đầu óc thì vẫn chưa chịu chấp nhận là mình đã già rồi.
Mình tưởng mình còn trẻ hoài, thế mới khổ chớ.
Mình còn ham vui, còn ham sống mà.
Vô tiệm ăn thì người ta gọi mình bằng
bác, kêu bằng ông bằng bà. Mình mới giật mình. Vậy mà mình cứ cho rằng mình
chưa có già. Ngược lại mình rất chủ quan mà thấy bạn bè và người khác sao
họ có vẻ lại già hơn mình quá.
Nghĩ cho cùng, già thì phải có bệnh để mà chết chớ hổng bệnh thì lấy gì mà
chết được.
Đó là cái logic của sanh bệnh lão tử.
Theo mình nghĩ, sống quá già thì thân
xác càng xấu xí đi… chả có ích lợi gì cả và vả lại sống đến 100 tuổi hoặc
cao hơn nữa thì sống với ai đây? Ở cái tuổi nầy, con cái của mình dám chết
hết rồi. Còn cháu chắt thì có thể khi thấy mình tụi nó lại sợ thấy mồ tổ.
Có chắc gì tụi nó dám lại gần hay đi thăm mình không?
Vậy chỉ còn nhà già là trạm dung thân cuối cùng của mình trên dương thế nầy
trước ngày ra đi mà thôi.
Thỉnh thoảng đi chùa, mình có đưọc nghe các thầy giảng về tử sinh. Mình
cũng có tìm hiểu vấn đề nầy qua kinh sách Phật giáo Tây Tạng, nên cũng biết
lõm bõm vậy thôi chớ hổng chắc gì là mình hết còn sợ chết.
Ai cũng muốn chết sướng hết
Cũng ngộ, con người ai ai cũng muốn
sống sao cho sướng mà đến lúc chết thì mọi người cũng hằng ao ước được chết
sao cho lẹ, cho sướng.
Đây là bình thường normal, là lẽ thường tình mà thôi.
Đa số đều nói họ không sợ chết nhưng chỉ sợ bệnh tật dây dưa làm đau đớn
thể xác lẫn tâm hồn, làm mất cả nhân cách cũng như làm khổ não và phiền
toái cho gia đình.
Chết sướng là gì? Đó là chết già, chết êm thắm, không đau đớn thể xác lẫn
tâm hồn, vậy chết trong giấc ngủ là khỏe nhất, kế đến là chết vì bệnh tim
mạch, đứng tim, đứt gân máu và phải chết cho thật mau thật lẹ, không lê lết
cả tháng trời, không xụi bại, bán thân bất toại, á khẩu, không ỉa trây đái
dầm, không bị mất trí nhớ và không bị lú lẫn điên khùng nầy nọ, v.v…
Giờ phút lâm chung cần có sự hiện diện đầy đủ của vợ con hay chồng con mình
để tiển đưa mình cho khỏi tủi thân (?)
Có người thì còn lo xa hơn, nghĩ tới hậu sự nên bắt đầu lo tu, bắt đầu ăn
chay, niệm kinh, lo thiền, lo cầu nguyện, siêng đi chùa, đi nhà thờ thường
xuyên, cúng dường tam bảo, phóng sanh, bố thí công đức, bố thí tài vật, làm
từ thiện gieo duyên lành để được phước, được hồng ân hầu khi chết thì hy
vọng sẽ được rước về cõi Phật hoặc về thiên đàng với Chúa…
Cái gì cũng vậy. Chết cũng cần phải được chuẩn bị tinh thần từ trước. Thiền
cũng là một phương pháp giúp chúng ta ý thức hơn về tánh có không của mọi sự
vật trong cõi đời nầy, nhờ vậy chúng ta chấp nhận sự chết dễ dàng hơn và ra
đi được thanh thản hơn!
Tại sao người ta sợ chết?
Chết vẫn còn là một việc cấm kỵ
tabou, một điều quá bí ẩn đối với tất cả mọi người. Từ trước tới giờ vẫn
chưa có người quá vãng nào trở lại dương thế để kể lại cho bà con ta nghe
với.
Chuyện cận tử, thân trung ấm, lúc vừa mới chết thì hồn bay lơ lững đâu đó,
rồi vào đường hầm thấy toàn ánh sáng chóa lòa, gặp lại bà con đã chết từ
lâu, kêu réo nhau la ới ới, chuyện đầu thai lại, chuyện tái sinh, chuyện ma
quỷ, và còn nhiều thứ lắm lắm… có thật hay không có thật chẳng có ai biết
được hết. Tin hay không là chuyện riêng của mỗi người.
Có người còn so sánh sự chết cũng không khác gì giấc ngủ mỗi đêm. Tối ngủ,
mình chẳng còn biết gì hết hổng khác gì như mình đã chết rồi. Sáng ra thức
dậy như được tái sanh trở lại, sống thêm một ngày nữa. Mừng hết lớn.
Vậy sợ chết là sợ những gì mình không rõ, những gì bí mật mình chưa biết
được.
Người ta sợ chết vì sợ thân xác bê bết máu me, nát bấy, xấu xí đi, sình
thúi ghê tởm quá.
Trường hợp những giây phút trước khi phi cơ lâm nạn lao xuống đất chắc hành
khách phải hãi hùng kinh hoàng tột độ. Đây là một thí dụ rõ rệt nhất về sự
kiện sợ chết.
Có cả trăm câu hỏi được đặt ra nhưng chưa có câu giải đáp nào hết về sự
chết. Mọi người cứ tưởng tượng thế nầy thế nọ cho nên thiên hạ vẫn còn lo
và vẫn còn sợ chết.
Người đời thường nghĩ rằng hễ chết là
hết, là trống không, là rơi vào vực thẩm tối thui, là hư vô, tĩnh lặng.
Chết rồi thì mình sẽ đi về đâu sau đó, rồi mình sẽ ra sao? Bởi vậy nên ai
ai cũng đều sợ chết lắm.
Ai cũng phải có ngày chết hết. Đây là một sự thật. Chạy đâu cũng không
khỏi. Đây là điều chắc chắn 100%, thật rõ ràng và là lẽ công bằng của trời
đất.
Trên cõi đời nầy, chỗ duy nhất, nơi mà con người thật sự được hoàn toàn
bình an, không còn thù hận nhau nữa, không bao giờ biết hơn thua, phân biệt
đố kỵ với nhau nữa, đó là chỗ nghĩa địa an giấc ngàn thu.
Cuộc đời thật vô thường, vậy phải biết trân quý sự sống. Thù hận, tranh
đua, phân biệt, cố chấp, ganh tị, suy bì, hơn thua nhau từng tiếng, từng
lời, từng chút một rồi cuối cùng cũng phải chết mà thôi. Đến lúc đó thì ăn
năn hối cải, than khóc, kể lể, luyến tiếc làm chi cho mất công, muộn màng
rồi bạn ơi.
Tại sao hồi còn sống không biết sống cho hòa thuận, thương yêu nhau, giao
hảo nhau trong tình người, biết tha thứ nhau?
Mọi người đều đến cõi đời nầy với hai
bàn tay trắng, thì lúc ra đi cũng chỉ với hai bàn tay trắng mà thôi.
Ai ai cũng đều biết như vậy, nhưng hễ sao mỗi khi nghĩ đến chết thì thấy
rờn rợn và hơi lo một chút.
Bằng mọi giá họ phải níu kéo sự sống lại. Bỡi lý do nầy mà ngày nay khoa
học đã sáng chế ra vô số kỹ thuật để kéo dài thêm sự sống… Nào là kỹ nghệ
thuốc trường sanh, kỹ nghệ ngâm xác trong khí lỏng liquid nitrogen để chờ
ngày tìm ra thuốc trị liệu để tiếp tục… sống, v.v…
Người ta sợ chết gì sợ mất người mình thương, sợ xa lìa người thân, bạn bè,
xa lìa vợ con, chồng con, sợ không ai nuôi con mình, sợ rồi đây tụi nó sẽ
ra sao? sợ mất đi cái tôi của mình, sợ mất hết tài sản của cải mà mình đã
thật sự khổ công tạo dựng được trong suốt cả cuộc đời, cũng như sợ chưa
thực hiện được những hoài bão mà mình hằng mong ước, và sợ bị lãng quên,
v.v…
Nhưng theo quan niệm triết lý Phật giáo, thì những thứ vừa kể trên là đều
không có thật!
Giàu có, tỷ phú thì sợ chết đã đành, nhưng nghèo rớt mồng tơi, không có của
cải gì ráo trọi cũng sợ chết luôn tuốt luốt.
Thường những người sợ chết là những người còn hoạt động, đi đứng và còn
sinh hoạt được bình thường.
Nếu đã già khú cú đế rồi, bệnh hoạn đủ thứ, sinh hoạt khó khăn, ăn uống ngủ
nghê không được, mà còn bị con cháu bạc đãi hất hũi nầy nọ thì nhũng người
nầy chấp nhận cái chết dễ dàng hơn nhiều.
Sợ chết cũng là một phản ứng tự nhiên của bản năng sinh tồn của tất cà mọi
sinh vật.
Trong phạm vi nghề nghiệp, người viết có thể cả quyết rằng thú vật như bò,
heo lúc bị lùa vào lò sát sanh để bị làm thịt chúng đều rất kinh hoàng, la
rống, phản ứng lại rất dữ dội vì bản năng sinh tồn. Hình như chúng biết cảm
nhận được cái chết gần kề. Phải chăng thú vật cũng có tình cảm như chúng
ta?
Các tôn giáo lớn đều có đề cập đến vấn đề chết. Mỗi tôn giáo đều có giải
thích một cách khác nhau.
Cách nào nghe ra cũng đều thấy có lý hết với điều kiện là mình phải có đức
tin tuyệt đối vào tôn giáo đó.
Chết qua cái nhìn của Phật giáo
“Mạng sống mong manh, cái chết là
điều cầm chắc – Life is uncertain, death is certain”
Đây là tựa đề quyển sách giá trị nói về cái chết. Sách do Venerable Dr Sri
Dammananda viết và được thầy Thích Tâm Quang dịch. Sau đây là tóm lược các
ý chánh:
Chúng ta không nên sợ chết vì đó là lẽ thường tình, là quy luật tất yếu của
tiến trình của vòng sanh tử mà thôi. Có sanh thì phải có tử để có thể tái
sanh theo nghiệp lực nhân quả luân hồi.
“… Đời sống mong manh, chết là điều
chắc chắn. Đó là câu châm ngôn nổi tiếng trong Phật Giáo. Biết rõ Chết mong
manh và là một hiện tượng tự nhiên mà mọi người phải đương đầu, chúng ta
không nên sợ cái chết. Nhưng tất cả chúng ta đều sợ chết vì không nghĩ về
điều không tránh được. Chúng ta thích bám víu vào đời sống, vào xác thân và
phát triển quá nhiều tham dục và luyến ái.
Sự đau đớn về cái chết thật khủng khiếp, đó là một thái độ phát xuất bởi vô
minh.
Con người bị lo âu không phải vì ngoại cảnh mà vì niềm tin và tưởng tượng
về đời sống và mọi thứ của mình. Cái chết, chẳng hạn, tự nó không khủng
khiếp: Khiếp sợ và kinh hãi chỉ do tâm trí chúng ta tưởng tượng mà ra.
Vì tham sống nên sự sợ chết được hình thành một cách thiếu tự nhiên. Nó tạo
lo âu mạnh mẽ trong đời sống đến nỗi làm con người không bao giờ dám mạo
hiểm làm điều gì dù đó là lẽ phải. Người đó sống trong sợ hãi lo lắng về
bệnh tật và các tai nạn có thể xẩy ra cướp mất mạng sống quý giá của mình.
Tuy nhiên có một phương pháp để vượt qua sự sợ hãi này. Hãy quên đi quan
niệm về cái ‘tôi’; hãy đem tình thương phục vụ nhân loại và tỏ tình thương
với người khác. Say mê phục vụ tha nhân, chẳng bao lâu bạn sẽ tự mình thoát
khỏi cái tự kỷ luyến ái nặng nề, mơ ước, kiêu căng, và tự tôn.
Bệnh và chết cả hai đều là việc xẩy ra tự nhiên trong đời sống của chúng
ta, và chúng ta phải chấp nhận điều đó với sự hiểu biết
Đức Phật khuyên: “Hãy tin và nương tựa vào chính mình, hãy gắng sức và
chuyên cần”. Người Phật Tử không sầu thảm bi thương trước cái chết của một
người thân hay bạn hữu. Không có gì có thể ngăn cản được bánh xe nhân quả.
Khi một người chết, nghiệp do họ tạo nên sẽ theo họ đến cuộc đời mới. Người
còn lại phải chịu đựng sự mất mát với bình tĩnh và hiểu biết. Chết là một
tiến trình không tránh được trên thế gian này. Đó là một điều chắc chắn
trong vũ trụ này….
Chúng ta phải cố gắng hiểu rằng mọi việc trong vũ trụ này đều mong manh.
Cuộc sống chỉ là ảo giác hay ảo tưởng. Khi ta phân tách mọi thứ bằng khoa
học hay triết lý, không ham muốn vị kỷ, cuối cùng chúng ta không thấy gì cả
mà chỉ là hư không…”
(Những Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo – Gems of Buddhist Wisdom – Buddhist
Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996 – Thích Tâm Quang dịch)
Kết luận
Nghĩ cho cùng cái chết chỉ là một
giai đoạn của cái sống. Có chết đi thì mới có được một cái sống mới khác
tiếp nối theo được.
Vậy hãy trân quý cuộc sống ngày hôm nay. Không nên để tâm trạng sợ chết trở
thành một nỗi ám ảnh thường xuyên làm ô nhiễm cuộc sống của chúng ta.
Hãy quên sự chết đi để mà sống. Chừng
nào chết thì chết.
Chết thì dễ, là việc đương nhiên rồi.
Sống sao cho đáng sống mới là việc khó.
Đời là vô thường!
Hầu hết bạn bè tôi, nếu còn sống sót sau cuộc chiến tang thương đó, kẻ đã phải ra đi trong loạn lạc, ly tan, người thì được ông bạn đồng minh phản bội năm xưa, can thiệp với kẻ cựu thù cho "ra đi trong vòng trật tự" sau nhiều năm bị đày đọa ngục tù, vợ con nheo nhóc, để giờ này mỗi người trôi dạt một phương, mang theo những vết thương không lành được ở trong lòng. Biết đến khi nào chúng tôi mới đuợc như những con chim trane đang tụ tập ca hót líu lo ngoài kia, trươc giờ bay xuống phương nam?
Một câu chuyện thật dí dỏm. Câu chuyện phần nào đã gợi nhớ đến một quảng đời thơ ấu thật êm đềm, hoa bướm ở vùng quê . Phải chi không có biến cố tháng tư 75, cuộc sống của những người dân miền nam hiền hòa chắc chắn là mãi mãi thanh bình, thịnh vượng, và an lành như tác giả "Lấy vợ miền quê" đã mô tả rất chân thật trong câu chuyện
Bây giờ, nhìn chú Ba nằm đó, tôi lại nhớ câu nói cuối cùng của chú: “Cứ để lá cờ ở đó, trong đầu óc của chú sẽ nhớ mãi hình ảnh lá cờ VNCH tung bay trong gió. Sau này, lá cờ sẽ ra sao? Để tương lai trả lời.”
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa...
Kính nguyện cầu Đấng Thiên Thựợng Đế tối cao và Hồn thiêng sông núi phù hộ cho toàn dân Việt sớm có ngày "đắc lộ thanh vân", đưa nước Việt lên đỉnh đài vinh quang thịnh trị ngàn đời.
Chúng ta thường đi tìm một cái gì bên ngoài để mang lại cho mình hạnh phúc như vật chất, nhà cửa, xe hơi, máy móc, tiện nghi, … hoặc tình cảm gia đình, thân quyến, bạn bè, người yêu, … hoặc danh vọng, địa vị, lý tưởng. Ta khát khao tìm kiếm vì tưởng mình nghèo nàn, thiếu thốn, tâm luôn phóng ra ngoài chạy theo trần cảnh. Trong kinh Pháp Hoa kể thí dụ đứa cùng tử suốt đời đi ăn xin vì không biết trong túi mình có viên ngọc quý, đến khi được người bạn nhắc tỉnh ngộ lấy ngọc ra xài liền hết đói khổ.
Tháng 8-1999, tôi dọn nhà đến một căn phòng mới mướn. Trên ngăn kệ cao của closet, người mướn trước để sót lại một xấp “hồi ký” dầy 27 trang viết tay. Đêm đầu tiên ở phòng trọ mới, tôi đọc đoạn “hồi ký” bi hùng đó với nỗi niềm thương cảm không tả xiết: Thương cảm cho một danh tướng trong bước đường cùng của vận nước đen tối; thương cảm cho phu nhân và 2 người con của Tướng tuẫn tiết và thương cảm vị sĩ quan trẻ, có lẽ là Chánh Văn Phòng của vị tướng anh hùng, tức tác giả của đoạn “hồi ký” nầy.
Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ!!
Cổ nhân cũng đã có câu “ngu si hưởng thái bình”, hay là ta cứ an phận thủ thường, con gái thì mong trời sinh ra đừng quá đẹp, con trai thì đừng có quá tài ba. Còn giàu có bạc muôn không ham, chỉ mong đừng chạy gạo từng ngày. Cứ làng nhàng là xong, không ai thèm muốn, đố kỵ, ganh ghét, nghĩ chuyện đời: “Giàu như người ta cơm ngày ba bữa, đói như mình đây cũng đỏ lửa ba lần.”
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.