10:07 SA
Thứ Ba
23
Tháng Tư
2024

Mười ba năm khổ sai

28 Tháng Tám 201212:00 SA(Xem: 19873)

Mười ba năm khổ sai, chuyện thiếu tá Thiên Nga Nguyễn Thanh Thuỷ

blank
Thiếu tá Thiên Nga Nguyễn Thanh Thủy Trước 30.4.1975 và sau 13 năm tù. (Hình Văn Khố: Olivier Glassey Trầnguyen)

Những ngày sau 30 tháng Tư, 1975 chắc chắn là những ngày kinh hoàng nhất cho rất nhiều gia đình tại miền Nam Việt Nam. Nhưng đối với một số người, những ngày ấy kéo dài tưởng như vô tận, đến mười mấy năm, mà mỗi ngày là một thế kỷ của nhọc nhằn và mỗi đêm là một trường canh của kinh sợ.
Cái giai đoạn lịch sử ấy – tuy man rợ và đầy tang thương – nhưng vẫn là một di sản được những người trong cuộc ôm ấp và gìn giữ.
Bởi vì, cái lịch sử ấy chính là một dấu chứng cho niềm tin vào điều thiện và sự vượt qua của những ai còn sống sót sau kinh nghiệm hỏa lò. Đó có lẽ là lý do mà khi đến Mỹ, Cựu thiếu tá Thiên Nga Nguyễn Thanh Thủy đã mang theo 3 vật rất quan trọng đối với mình. Một đôi găng tay may từ vải vụn, bà đã dùng trong thời gian 13 năm tù cải tạo. Hai chiếc áo tù – một bằng vải thô, và một bằng len, do chính bà đan lại từ hai chiếc áo lạnh cũ đã chật của hai con gái, do mẹ bà gửi vào. Và một cơ thể đã bị phá hủy, thương tật.
Nhưng bà cũng mang theo một gia tài quan trọng hơn cả những vật chứng này – một gia tài không ai có thể tịch thu, đấu tố, hay phá hủy: một ý chí để sống, một nghị lực phục vụ gia đình và xã hội, và một niềm tin mãnh liệt vào Chúa. Chính gia tài này đã là cứu cánh cho bà trong suốt 13 năm tù, và quãng đời sau đó.
Trên hai chiếc áo tù đó, số tù – cũng là 'nhân diện' của bà trong mười ba năm khổ sai – đã bắt đầu phai nhạt theo năm tháng. Nhưng những đau đớn về tinh thần lẫn thể xác vẫn còn hằn sâu. Có lẽ những thế hệ một và một rưỡi còn nhớ và biết cái bi kịch hỏa lò tại Việt Nam, nhưng thế giới và những thế hệ Việt ngoại biên vẫn cần một văn khố chính thức về bi kịch này.
Điều quan trọng là chúng ta không để cho những sự thật về bi kịch này phai nhạt – như những số tù trên áo những người tù khổ sai năm nào. Chúng ta cần ghi lại những đau thương – không vì hận thù – nhưng vì để đấu tranh cho Công lý, Hòa bình, Tự do, Bác ái. Đến bao giờ, người Việt hải ngoại mới có một tác phẩm như Quần Đảo Ngục Tù của Aleksandr Solzhenitsyn, người đoạt giải Nobel Văn Chương 1970 với những tác phẩm vạch trần cái hỏa lò của Cộng Sản Xô Viết? Những quần đảo ngục tù vẫn còn hoành hành trên cơ thể của nhiều con dân Việt và ngay trên đất Việt qua những hậu quả khốc liệt của nó. Đến bao giờ chúng ta mới có một Solzhenitzyn của Việt Nam? Vì nếu những đau thương này đã đến từ bất công, thì chúng cũng là một mối đe dọa cho con người ở tất cả mọi nơi – như nhà tranh đấu dân quyền Martin Luther King đã nói, "Bất công ở bất cứ nơi nào là bất công ở khắp mọi nơi." Xã hội con người không tách rời nhau bởi biên giới hay ngôn ngữ, mà cộng thông trong lý tưởng công bằng, bác ái, và dân chủ.
Chiếc áo tù ngày nào, tuy nay không còn ấm lạnh trên người Nguyễn Thanh Thủy nữa, nhưng kinh nghiệm mười ba năm tù khổ sai là một chiếc áo đầy gai, vẫn châm chích và làm đau đớn tâm hồn và thể xác bà. Hai mươi bốn năm sau khi ra khỏi trại tù, bà vẫn còn oằn oại trong những bệnh tật do giai đoạn oan nghiệt này tạo ra, và những kinh hoàng của bốn tháng biệt giam vẫn bám riết tâm trí bà. Chúng ta thử cùng bà ngồi trước màn ảnh của quá khứ, chứng kiến lại những điều mà trước nay bà chưa nói được với ai, vì nó quá kinh hoàng và khó khăn để thuật lại.

Nguyễn Thanh Thủy nhớ lại, “Vài hôm sau ngày 30 tháng Tư, 1975, tôi bị gọi đến nơi làm việc của Ủy Ban Quân Quản của chế độ Cách Mạng (tức Văn Phòng Khối Đặc Biệt, đường Cộng Hòa cũ) để hỏi cung từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều. Cán Bộ Cộng Sản cho biết, lẽ ra giam cầm tôi luôn, nhưng vì các con tôi còn quá nhỏ, nên mỗi ngày tôi đến đây làm việc rồi về. Họ cho tôi xấp giấy, cây viết, và muốn tôi viết lại quá trình hoạt động. Mỗi ngày tôi chỉ viết lý lịch của mình, rồi tôi nộp, nhưng họ không bằng lòng. Tôi có cho họ biết là tôi không nhớ gì cả, và yêu cầu họ cho tôi thời gian để tập trung trí nhớ. Sau đó, họ giúp tôi bằng cách dẫn tôi đi vòng quanh khối Đặc Biệt, vào những phòng làm việc của Khối để nhìn từng nơi xem thấy cái gì còn, cái gì mất. Tôi chú ý đến Văn phòng của Trưởng Cơ Quan E4, nơi còn những bản sơ đồ vẽ hệ thống hoạt động, những bản thuyết trình có ám danh công tác, bí số nhân viên, nhưng không có tên tuổi thật. Tôi nghĩ trong đầu một kế hoạch để đối phó với Cộng Sản khi bị hỏi cung.”
blank
Cô dâu Nguyễn Thanh Thủy và chú rể Lê Thành Long
Nguyễn Thanh Thủy không chỉ là một người tù cải tạo. Bà còn là vợ một người tù cải tạo. Chồng bà, Cựu Đại Tá Võ Bị Lê Thành Long, cũng vào tù sau ngày 30 tháng Tư 1975. Ba người con nhỏ của ông bà được gửi gắm lại cho ông bà Ngoại tại Mỹ Tho. Tuy nhiên, những cố gắng để kéo dài thời gian hỏi cung của bà cũng không giúp bà được ở gần gia đình mãi. Đến 15 tháng Sáu, 1975 thì bà bị tập trung vào tù cải tạo. Theo lời bà, thì “Tôi ở chung trại với tù cải tạo nam, học tập chính trị ở hội trường, học quốc ca của Cộng Sản và những bài hát đấu tranh chống Mỹ Ngụy, làm những bài thu hoạch, phê và tự phê, kiểm điểm, nộp cho họ. Tất cả mọi người phục vụ cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa đều có tội nhiều hoặc ít. Đó là cách luận tội của Cộng Sản. Tôi vào trại tù cải tạo Long Thành, với một túi xách đeo vai, một chiếc chiếu nhỏ cho một người nằm. Thiếu đủ mọi thứ. Tôi phải xuống hố rác cạnh dãy nhà chúng tôi ở, để tìm chai, lọ, mấy tấm tôn để đựng nước, đựng cơm, thức ăn… Nước chỉ đủ uống, không đủ tắm. Trời tháng sáu mưa dầm dề. Chờ trời mưa, tôi gội đầu tắm giặt nhờ những dòng nước mưa chảy theo mái nhà.”
Trong suốt thời gian bị giam một mình, bà đã canh cánh sợ bị bọn võ trang muốn làm hỗn nên không bao giờ dám chợp mắt, đã nơm nớp khiếp sợ mỗi đêm khi cai ngục lẻng kẻng xâu chìa khóa đâu đó giữa rợn rùng thăm thẳm tối. “Vì đêm trước có ai bị đưa đi, thì sáng hôm sau coi như mất tích,” bà nói. Hơn nữa, phương tiện vệ sinh căn bản nhất cũng không có. Bà hồi tưởng, “Nói đến nơi tiểu tiện bằng những cầu dã chiến ngoài trời, mưa dầm là nó lầy lội, và những con vòi trắng lềnh bềnh mà nữ thì làm sao dám ngồi để tiểu tiện, nên tôi đành nín, nhịn khát, đợi tối mới ra cái nhà tắm che bằng bốn vách lá, đi xong cho vào hố rác. Nhớ tới cảnh này, tôi luôn rùng mình, sao tôi chịu nổi dơ bẩn như thế.”
Bà nói tiếp, “Đầu tháng 10 năm 1975, tôi bị chuyển về trại giam Thủ Đức (tức 16NV). Chỉ có một người nữ bị chuyển là tôi. Tôi ở một mình trong phòng giam và bắt đầu các cán bộ thẩm vấn, điều tra từ trung ương đến. Tôi bị kêu lên đêm có, ngày có, bị hỏi liên tục, hỏi xong rồi bắt viết, thu bài. Những tháng ngày này, đầu óc tôi quá căng thẳng. Cả đêm không buồn ngủ, tựa lưng vào vách tường, kê túi quần áo và gối nằm để làm điểm tựa viết bài họ điều tra.”

Bà nhớ lại, “Tôi phải cải tạo khổ sai ở đây nhiều năm, không đủ vệ sinh và thiếu thốn. Ăn thì độn khoai mì có vỏ đỏ quấy, gọi bột ngàng phệt, hột bo bo, mì sợi luộc có cả con chuột chết vớt ra bỏ đi, lại tiếp tục chia mì sợi cho người một phần để ăn, không thì đói. Cả ngày cuốc xới mỏi mệt, tối đến vào phòng ngủ gần người lao phổi (xuất huyết phổi tới thời kỳ chót), bệnh giang mai thời kỳ thứ ba, phổ có nước thời kỳ chót. Tôi phải sống chung với họ cho tới khi họ được tha, và không bao lâu thì họ chết. Tôi phải may những nệm ngồi bằng vải vụn riêng để tránh lây nhiễm. Lúc ngủ, các bạn khỏe xếp gần nhau, chừa một chiếu cách người bệnh, xây đầu khác hướng với người bệnh và xây lưng về phía người bệnh để tránh lây nhiễm.”

Vì Nguyễn Thanh Thủy đã giữ một vai trò khá quan trọng khi phục vụ dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, bà đặc biệt bị quản lý nghiêm ngặt và tra khảo liên tục, làm bà chóng mặt, căng thẳng đến ngã bệnh. Cán bộ không bao giờ rời mắt khỏi bà, ngay cả về đêm. Bà kể, “Tôi là người tù bị chỉ định nằm ngay cửa ra vào hoặc ngay cửa sổ phòng tù để họ dễ kiểm soát hành vi về đêm của tôi. Cửa sổ tù không bao giờ có cửa để đóng lại, nên rất lạnh. Đêm đêm đói bụng quá, các bạn tù kể món ăn này, món ăn kia cho đỡ thèm đỡ đói. Nhớ chồng con kể chuyện hạnh phúc ngày nào thì có bà lên tiếng, kêu đừng kể nữa, vì rờ hai bên toàn chiếu không. Tới ngày thăm nuôi được gặp thân nhân gia đình, là lúc lấy dạ dày an ủi trái tim.”

Trong hoàn cảnh lao tù khổ sai, người nữ tù chịu nhiều khó khăn và khổ sở hơn người tù nam, nhất là về phần vệ sinh hằng tháng, và sự an toàn bản thân. Không chỉ những nữ tù cải tạo mới bị dòm ngó và hãm hiếp, mà những phụ nữ bị bắt vì vượt biên cũng bị lính gác bạo hành về tình dục. Sự căng thẳng của người tù nữ, vì vậy, cao gấp nhiều lần so với bạn tù nam. Bà lại kể, “Trại giam có nước máy, nên vệ sinh cá nhân cũng đỡ, nhưng vấn đề phụ nữ hằng tháng, không có băng giấy, tôi phải dùng quần áo cũ xé ra để lót, rồi giặt không xà phòng (vì không được thăm nuôi). Ăn uống, mỗi buổi sáng được một ly nước nóng, trưa một phần khoai độn, buổi chiều nửa chén cơm, một chút rau muống luộc với nước muối. Lễ lớn có một miếng thịt bằng ngón tay. Hơn một năm, một số tù cải tạo chuyển đi Bắc, một số tù cải tạo ở nơi khác chuyển tới, lúc đó mới có một số chị em phụ nữ ở trại Long Giao, trại giam Chí Hòa, Phan Đăng Lưu tới. Đa số là tù phản động. Tôi mới thoát cảnh ở một mình mà sống tập thể với bạn tù cũ, bạn tù mới. Tôi bắt đầu đi lao động, làm cỏ chung quanh trại giam, và trồng rau muống.”

Cảnh lao động vất vả của trại tù, dù sao, cũng cho người tù cơ hội được thấy ánh sáng mặt trời, mà không bị vây hãm gò bó giữa bốn bức tường bức bối. Nhưng trồng rau bằng phân người và nước tiểu người là những cực hình mà người tù phải gánh chịu, và ăn rau do chính mình trồng nhưng không được rửa sạch làm cho người tù bị tiêu chải kinh niên. Nhu cầu nha chu hay y tế căn bản cũng không được đáp ứng, nên bạn tù phải mượn kềm của tù nam hình sự, khi họ về ăn cơm trưa trong một tiếng, để nhổ răng cho nhau, khi răng đã hư quá nặng và không thể giữ được. Họ phải cầm máu bằng nước muối, vừa rát, vừa đau.

Bà kể tiếp, “Hai năm sau, tức tới tháng Bảy, 1977, chúng tôi chuyển lên trại tù cải tạo Căn Cứ 5 Rừng Lá, tức trại Z30D Hàm Tân, Thuận Hải. Đã di chuyển xa, nên việc phải gặp chấp pháp ít hơn, vài ba tháng một lần. Mà chủ yếu là lao động, cả đội mấy chục cô cầm cuốc, cầm xẻng, thùng tưới nước, chia nhau công tác để làm. Mới đầu chẳng biết cuốc, cả ngày trời cuốc một khoảng cỏ trước sân cơ quan mà thấy vẫn y nguyên. Lần lần gánh tranh, trồng rau muống, khoai lang, củ cải. Rau tưới bằng một lon nước tiểu pha một thùng nước suối, phân người bỏ dưới rãnh, lấp đất, trồng rau lên.

Tôi yếu sức nên đứng múc nước tiểu, pha cho người khỏe trẻ tưới. Cả ngày làm lao động mệt, chiều hết giờ chạy về bờ suối tắm 20 phút, vừa giặt giũ vừa tắm, không có quản giáo nữ canh gác. Cán bộ nam và võ trang canh gác khi đội nữ tắm. Bọn cai tù nói, “Các chị cứ coi chúng tôi như các chị, cứ thế mà tắm.” Thật là trơ trẽn. Chúng tôi cứ nhúng cả người xuống nước rồi lên giống như vịt rỉa lông. Những ngày mưa, nước suối đục ngầu, vẫn phải tắm, vì nước tiểu và phân dính cả người. Tới mùa nước suối cạn, bọn Cộng Sản chuyển đội nữ về lại trại cải tạo Long Thành. Nơi đây là trại hình sự, máy nước bị hư, không tiền sửa chữa. Mỗi ngày phát một gô nước uống, một tuần lễ mới ra suối cạn tắm một lần, giặt giũ rồi xách nước về. Về tới trại rửa cát bụi đi đường là thấy hết sô nước. Trại này trồng táo Thái Lan, dền, rau muống, cũng dùng nước tiểu, phân người làm phân bón. Chỉ trồng táo mới tưới bằng phân urê.”

Nhưng sau đó, bà bị chuyển trại, và bị đưa vào biệt giam hơn một năm để hỏi cung. Đây là gian đoạn gian nan nhất trong thời gian mười ba năm khổ sai của bà. Tuy nhiên, bà vẫn luôn giữ trong đầu một điểm đến: cố sống sót, đối diện với nghịch cảnh, để có ngày đoàn tụ với con. Bà ôn lại, “Ăn thiếu thốn, đói khát, bị vây quanh mấy tên cán bộ chấp pháp, tôi muôn điên lên vì thần kinh quá căng thẳng. Tôi sẽ gặp đau thương khi đối đầu với địch nên trước ngày cuối, để bảo mật, tôi đã hủy hồ sơ của Biệt đội Thiên Nga. Tôi cũng được bọn Cộng Sản đưa đi xem các văn phòng có liên hệ. Nhưng tôi vẫn lo lắng cho các nhân viên.
blank
Bà mẹ Thanh Thủy và ba con thơ tại Mỹ Tho
Tôi muốn bảo toàn cho các bạn nữ đồng khóa, các nhân viên, và cộng tác viên. Tôi tâm niệm trong lòng mỗi lần phải gặp mặt cán bộ, tôi đều thầm nhủ đây là địch, đây là Việt Cộng, làm cho tôi thêm nghị lực, bình tĩnh hơn, mạnh dạn hơn để trả lời. Tôi ở biệt giam một mình hơn một năm, vì phải làm việc bằng đầu óc, trại giam gọi là động não quá nhiều, ăn uống thiếu thốn, ngủ nền xi-măng, tôi bị liệt một chân, phải lần vách. Tôi mới xin lau chùi quét dọn hành lang và xin phơi nắng nửa giờ mỗi ngày trừ thứ Bảy và Chủ Nhật. Tôi tập giật chân kinh và tự xoa nắn lấy chân bị liệt teo cơ do suy dinh dưỡng gây ra. Tôi tự nhắn nhủ, không nhớ con nhiều nữa, phải rán chịu đựng mọi khó khăn để có sức khỏe trở về với con.”

Thời gian biệt giam này đã dài như thế nào? Những chi tiết về gian đoạn này sẽ khiến nhiều người không thể tưởng tượng ra được, bà Nguyễn Thanh Thủy đã làm thế nào để sống sót. Bà nói, “Tháng 4 năm 1981, tôi bị đưa từ trại tù cải tạo Long Thành về trại tù biệt giam X4 (Bộ Công An Cộng Sản đường Võ Tánh, Sàigòn). Tôi ở xà lim, chung quanh tối om, ngoài một bóng đèn điện cho cả dãy xà lim, mỗi xà lim có một khoảng trống bằng một cục gạch trên sát trần nhà để thở. Trời tháng Tư ở Việt Nam, nóng bức, mồ hôi chảy như tắm, quần áo vo cao cho bớt nóng. Tuần lễ đầu tiên tôi bị xỉu, thiếu dinh dưỡng, thời tiết quá nóng. Cán bộ trại giam phát hiện do người ở cạnh xà lim đập tường hỏi thăm sức khỏe, không thấy tôi trả lời, họ đập tường gọi cán bộ cấp cứu. Sau lần cứu tôi tỉnh dậy, trại giam đưa một lọ thuốc tim nhỏ giọt để khi mệt nhỏ vào miệng và gọi cấp cứu.

Về ăn uống, sáng để gô ra, họ cho một gô nước nóng. Trưa và chiều để ít cơm trong cái thau và một chén canh ngoài song sắt xà lim, rồi tự mình mang cơm canh qua song sắt để ăn. Phải kiếm thế nghiêng thật nhanh, mang tất cả cơm canh vào. Vì không có muỗng, nên phải ăn bốc bằng tay.
Lúc mới tới, Cán Bộ chấp pháp cho biết tôi sẽ được ăn tiêu chuẩn quốc tế, dành cho người về làm việc, ngày 3 lần: sáng, trưa, chiều. Nhưng tôi chưa bao giờ nhận được buổi ăn nào như thế. Các tù nhân đi với Cán Bộ trại giam giao phần ăn không được mặc áo, phải ở trần và bận quần xà lỏn (quần đùi), họ không được nói bất cứ lời nào. Muốn hỏi gì, họ chỉ tay về phía Cán Bộ, người Cán Bộ mới có quyền nói chuyện với tù nhân.

Về phần vệ sinh cá nhân, mỗi ngày được tắm một lần, 20 phút. Tù không bao giờ gặp mặt nhau, cứ người này tắm xong, mới mở cửa phòng khác cho tù ra tắm. Tiểu tiện đi vào thùng sắt đựng đạn của Mỹ, cứ đi tắm mang ra đổ, rửa sạch dùng lại.

Đưa tôi về nơi này, bọn Cán Bộ chấp pháp làm áp lực để tôi viết cam kết, với chồng hồ sơ thu thập được của nhân viên Thiên nga, cấp chỉ huy, bạn bè để trước mặt, cho thời hạn suy nghĩ là 3 ngày. Trên đường trở về xà lim, tôi nhờ chấp pháp trình lại với lãnh đạo của họ, 6 năm tù cải tạo đủ để suy nghĩ, không cần thêm 3 ngày. Tôi trả lời: Không, không bao giờ.

Thế là tiêu chuẩn ăn hàng ngày bị giảm đến mức tối thiểu, chỉ còn một chút cơm với vài hột muối hột. Thời gian này, bệnh nặng không được chữa, có lần ói từ nửa đêm đến sáng. Khi họ kiểm tra thấy nằm ói toàn mật xanh, Bs y tá tới, cho thuốc uống liền tại chỗ. Người y tá đưa thuốcd nói thật nhanh, thật khẽ, “Đừng uống.” Tôi vội nắm chặt thuốc trong lòng bàn tay, đưa tay giống như bỏ thuốc vào miệng và vội vàng uống nước. Sau này, tôi gặp người y tá đó khi khám sức khỏe đi Mỹ tại Bv Cảnh Sát. Người ấy mới kể, trước là y tá Bv Cảnh Sát Quốc Gia VNCH, có thân nhân liệt sĩ, nên được giữ làm lại, biết tôi và tránh cho tôi bị thuốc.

Họ giữ tôi tại cơ quan X4 bốn tháng nhưng không khai thác được gì. Bọn chấp pháp đem cán bộ nữ ra dụ dỗ vì thương con tôi, mới khuyên tôi cam kết để tha về. Tôi khẳng định tôi về khi nào có chính sách của lãnh đạo nước, chứ về riêng lẻ không bao giờ có. Thấy tôi kiên quyết không khai, bọn chấp pháp biểu tôi đứng xa họ ba thước, nghe đọc lệnh án. Lệnh án có nội dung như sau: Do quyết định ngày… tháng… năm, Tên Nguyễn Thanh Thủy có thái độ ngoan cố không chấp hành cải tạo lao động nên tuyên án tập trung cải tạo tiếp 3 năm và quyết định có hiệu lực vô thời hạn.

Hai chân tôi bị nhốt ở xà lim, nên bị liệt không đi nổi. Trở lại xà lim, lấy quần áo chiếu mền theo họ chở về trại tù cải tạo Long Thành. Trước khi lên xe, họ đưa cái giỏ nhỏ nói là quà gia đình gửi. Sau này gặp chồng tôi, anh kể mấy ngày trước khi tôi trở lại trại cải tạo Long Thành, họ đưa một miếng giấy có chữ viết của tôi, vỏn vẹn, “Thăm anh và các con. Em vẫn khỏe mạnh.” Xong họ dặn chồng tôi mua cho tôi ít quà khô. Họ biểu đem đến cổng. Anh không biết chỗ, hỏi thăm gác cổng, họ bắt anh nhốt cho tới tối mới thả anh ra.

Sáng hôm sau là tôi chuyển trại. Họ phải xách tất cả một xách quần áo, sô đựng vài thứ linh tinh, một giỏ thức ăn. Vì tôi đi không nổi, mặt mày xanh xao, không ánh nắng mặt trời bốn tháng, màu da vàng của người VN rất đúng không sai tí nào. Nói đến hình phạt kỹ luật cho nữ, cái nhà kỹ luật là nhà có 2 lớp, giống như cái hộp có hai lớp, một lớp là phòng giam nóc bằng, cách khoảng chừng 1 thước, lớp ngoài cũng xi măng cốt sắt.

Mỗi phòng giam kỷ luật có một cái bệ. Cuối bệ có cây sắt thông ra ngoài để khóa bằng ống khóa sắt. Trên cây sắt có những cái cùm. Cái bệ xi măng có một cái lỗ để thùng đạn của Mỹ. Thùng trống không, làm chỗ tiểu tiện. Đặc biệt là kể từ ngày vào phòng giam kỹ luật cho đến ngày ra không được tắm. Khôn được tắm từ 1 tuần cho tới 3 tháng, 6 tháng, hay cả năm, chỉ những ngày kinh nguyệt phụ nữ mới được 40 phút thay quần áo.

Tùy theo hình thức phạt, đa số hai chân đều phải cùm lại, hỏng trên cái bệ, nên rất đau đớn vì tê chân và sét ăn vào cườm chân. Muỗi đốt suốt ngày đêm, bóng tối cả ngày đêm… Những hình thức này tôi đều trải qua, hằn sâu trong da thịt tôi.”
Chính thời gian biệt giam này đã gây ra nhiều tổn thương trên thân thể bà nhất, từ việc bị bại liệt một bên người, phong thấp, các chứng bệnh đường ruột và tiêu hóa, cho đến sự căng thẳng đầu óc đến cao độ. Từ việc bị giam trong phòng tối cả ngày lẫn đêm, cho đến việc bị điều tra hỏi cung 24/24, cho đến việc bà bị trừng phạt không cho ăn uống, chỉ có chút nước và ít muối hột, hay bị phạt không được tắm, những ngày có kinh nguyệt bà cũng chỉ được 40 phút thay quần áo rồi bị cùm lại – tất cả đã khiến bà rụng gần hết răng và cơ thể bà hoàn toàn kiệt sức, không đứng được.
blank
Tại Mỹ với vật chứng nhà tù mang theo. (hình phóng sự: Benjamin Vũ)
Tôi thắc mắc, sau những đằng đẵng đói lạnh và lao động quá sức, không biết trong những lúc quá cùng cực và bị bệnh thập tử nhất sinh, Nguyễn Thanh Thủy có bao giờ cảm thấy tuyệt vọng không? Mười ba năm khổ sai đã cho bà nhiều kinh nghiệm đắt đỏ và một cái nhìn thấu đáo về chế độ chính trị đang nắm quyền trên quê hương bà. Và khi bà rời nhà tù nhỏ của trại Hàm Tân Z30, bà tiếp tục bị dồn bức cho đến giây phút gia đình bà đứt ruột rời bỏ người thân và quê hương để đi Mỹ qua diện H.O.
Bà kiên trì, giữ vững tôn nghiêm của người lính, giữ tinh thần lạc quan. Cho nên “Cả 13 năm tù, tôi không muốn kẻ địch thấy giọt nước mắt của tôi. Nên khó tìm thấy nét buồn, cho tới ngày em tôi lên trại, báo tin Ba tôi mất, tôi xỉu ngay tại phòng thăm nuôi và tôi rơi nước mắt.”
Nhưng dù không biết tương lai mình ra sao, Nguyễn Thanh Thủy vẫn luôn nghĩ đến người khác, những người bạn tù của bà. Chính vì nghĩ đến người khác, nên ngay từ đầu, bà đã không khai những bí mật Thiên Nga khi bị hỏi cung, mà mới bị trừng phạt nặng nề và chịu nhiều tổn hại về sức khỏe. Đến những ngày cuối cùng, bà vẫn giúp các bạn tù, “Mấy năm trước ngày ra trại, tôi làm đội trưởng kỹ thuật may, chỉ cho các em hình sự án cao biết may gia công để đỡ cuốc đất trồng rau cực khổ trong thời gian thụ án, sau có tay nghề may.”
Là người nữ tù cuối cùng rời trại cải tạo vì bị cho là ngoan cố, Nguyễn Thanh Thủy rời tù nhỏ, về tù lớn của xã hội Việt Nam hậu 1975, với hai hàm răng đã rụng, nên các con không dám tới gần bà. Con gái bà bảo, “Kỳ quá, Mẹ không có răng!”
Tôi tự hỏi, đối với bà, đâu là nỗi đau lớn nhất trong 13 năm này: những đau khổ về thân xác trong trại cải tạo, hay nỗi đau tình cảm phải chia lìa với gia đình và con dại? Thời gian có xoa dịu được những nỗi đau này không? Hay mất mát sẽ vĩnh viễn là mất mát?
Nguồn: Trang Đài Glassey – Trần Nguyễn/ hennhausaigon2015
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Năm 2011(Xem: 18522)
Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
27 Tháng Tư 2011(Xem: 19669)
Tôi không nói được gì hết, chỉ gục đầu vào vai vợ tôi rồi bật khóc . Vợ tôi chưa biết những gì đã xãy ra nhưng chắc nàng đoán được rằng tôi phải đau khổ lắm mới phát khóc như vậy. Cho nên nàng vừa đưa tay vuốt vuốt lưng tôi vừa nói, giọng đầy cảm xúc :« Ờ…Khóc đi anh ! Khóc đi ! »
23 Tháng Tư 2011(Xem: 18138)
Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước Việt Nam Cộng Hòa thân yêu của tôi. Tôi để hình tôi trên bàn thờ là coi như mình đã chết theo với nước Việt Nam Cộng Hòa của tôi. Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹ, vợ con
03 Tháng Tư 2011(Xem: 19790)
Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc... đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.... *
23 Tháng Ba 2011(Xem: 20241)
tưởng đã được giải quyết, phân tán người Việt Nam tỵ nạn trên nước Mỹ, nhưng không ngờ Xe đò Hoàng đơn thân độc mã mỗi ngày một chuyến kéo hai thành phố đông dân cư Việt Nam lại càng gần với nhau hơn nữa.
21 Tháng Hai 2011(Xem: 19925)
Già thì già, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc – hạnh phúc hơn một tỷ người khác – cho dù hạnh phúc đó vẫn được họ đếm từng ngày sau mỗi buổi sớm mai thức dậy…
10 Tháng Hai 2011(Xem: 18594)
Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ' Bầu bí một giàn'
04 Tháng Hai 2011(Xem: 19536)
Thế đó, họ bán, họ mua vừa như thật, vừa như “chơi” nhưng ai cũng hăm hở, náo nức. Dường như mỗi người đi chợ đang “bán”, đang “mua” cho mình một nỗi nhớ quê nhà vời vợi.
02 Tháng Hai 2011(Xem: 21458)
Hương thơm của gạo, vị ngọt của cơm lẩn với cát sạn tựa như cuộc đời của những quân nhân QLVNCH nói chung, SVSQTĐ nói riêng đã tự hào vào ngày mãn khóa sau mấy tháng quân trường mồ hôi thử thách đó là hương thơm của gạo. Để rồi chuẩn bị dấn thân vào cuộc đời đầy gian khổ hiểm nguy sống chết khó lường
28 Tháng Giêng 2011(Xem: 21073)
Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt.
21 Tháng Giêng 2011(Xem: 19842)
Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng lòng lắm với những gì mình đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.
16 Tháng Giêng 2011(Xem: 20270)
Thành phố lên đèn, tôi vật vờ vô định thoáng nghe bên tai tiếng dương cầm giai điệu bản "Giao hưởng số chin, cung rê thứ" của L.V. Beethoven mà tôi học ngày nào. Hiện tại, tôi chơi nhạc đám ma. Cái chết - quy luật tất yếu giúp tôi sinh tồn, các giá trị nghệ thuật cao quý chỉ còn là hoài niệm!
02 Tháng Giêng 2011(Xem: 21970)
Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du ...
07 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20773)
Trong cuộc chiến Việt Nam, những chàng pilot nổi tiếng hào hoa ở thành phố. Là thần tượng của các cô con gái đẹp. Nhưng có lẽ ít ai biết rằng, những chàng trai trẻ ấy lại là những chiến sĩ rất hào hùng trên khắp các chiến trường. Bao phen xem cái chết tựa lông hồng.
05 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 21788)
Lâu nay, khá đông người cho rằng thi sĩ Hàn Mạc Tử và nhà giáo kiêm cư sĩ Hoàng Thị Kim Cúc từng có một tình yêu đôi lứa. Lắm sách báo ghi nhận như vậy. Ngay cả lối sống khá đặc biệt của Kim Cúc – suốt đời độc thân, làm thơ tặng Hàn, chẳng chuyện trò điều này với người trong nhà… – càng khiến dư luận nghĩ vậy.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20237)
Hầu hết bạn bè tôi, nếu còn sống sót sau cuộc chiến tang thương đó, kẻ đã phải ra đi trong loạn lạc, ly tan, người thì được ông bạn đồng minh phản bội năm xưa, can thiệp với kẻ cựu thù cho "ra đi trong vòng trật tự" sau nhiều năm bị đày đọa ngục tù, vợ con nheo nhóc, để giờ này mỗi người trôi dạt một phương, mang theo những vết thương không lành được ở trong lòng. Biết đến khi nào chúng tôi mới đuợc như những con chim trane đang tụ tập ca hót líu lo ngoài kia, trươc giờ bay xuống phương nam?
17 Tháng Mười Một 2010(Xem: 21043)
Một câu chuyện thật dí dỏm. Câu chuyện phần nào đã gợi nhớ đến một quảng đời thơ ấu thật êm đềm, hoa bướm ở vùng quê . Phải chi không có biến cố tháng tư 75, cuộc sống của những người dân miền nam hiền hòa chắc chắn là mãi mãi thanh bình, thịnh vượng, và an lành như tác giả "Lấy vợ miền quê" đã mô tả rất chân thật trong câu chuyện
11 Tháng Mười 2010(Xem: 19380)
Bây giờ, nhìn chú Ba nằm đó, tôi lại nhớ câu nói cuối cùng của chú: “Cứ để lá cờ ở đó, trong đầu óc của chú sẽ nhớ mãi hình ảnh lá cờ VNCH tung bay trong gió. Sau này, lá cờ sẽ ra sao? Để tương lai trả lời.”
08 Tháng Mười 2010(Xem: 20228)
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa...
08 Tháng Mười 2010(Xem: 21983)
Mọi người đều đến cõi đời nầy với hai bàn tay trắng, thì lúc ra đi cũng chỉ với hai bàn tay trắng mà thôi. Ai ai cũng đều biết như vậy, nhưng hễ sao mỗi khi nghĩ đến chết thì thấy rờn rợn và hơi lo một chút... Sống sao cho đáng sống mới là việc khó. Đời là vô thường!
07 Tháng Mười 2010(Xem: 27940)
Kính nguyện cầu Đấng Thiên Thựợng Đế tối cao và Hồn thiêng sông núi phù hộ cho toàn dân Việt sớm có ngày "đắc lộ thanh vân", đưa nước Việt lên đỉnh đài vinh quang thịnh trị ngàn đời.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 22673)
Chúng ta thường đi tìm một cái gì bên ngoài để mang lại cho mình hạnh phúc như vật chất, nhà cửa, xe hơi, máy móc, tiện nghi, … hoặc tình cảm gia đình, thân quyến, bạn bè, người yêu, … hoặc danh vọng, địa vị, lý tưởng. Ta khát khao tìm kiếm vì tưởng mình nghèo nàn, thiếu thốn, tâm luôn phóng ra ngoài chạy theo trần cảnh. Trong kinh Pháp Hoa kể thí dụ đứa cùng tử suốt đời đi ăn xin vì không biết trong túi mình có viên ngọc quý, đến khi được người bạn nhắc tỉnh ngộ lấy ngọc ra xài liền hết đói khổ.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 18869)
Tháng 8-1999, tôi dọn nhà đến một căn phòng mới mướn. Trên ngăn kệ cao của closet, người mướn trước để sót lại một xấp “hồi ký” dầy 27 trang viết tay. Đêm đầu tiên ở phòng trọ mới, tôi đọc đoạn “hồi ký” bi hùng đó với nỗi niềm thương cảm không tả xiết: Thương cảm cho một danh tướng trong bước đường cùng của vận nước đen tối; thương cảm cho phu nhân và 2 người con của Tướng tuẫn tiết và thương cảm vị sĩ quan trẻ, có lẽ là Chánh Văn Phòng của vị tướng anh hùng, tức tác giả của đoạn “hồi ký” nầy.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19702)
Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận Việt Nam. Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, thì tấm lòng hoài.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 23246)
Người chết lâu rồi , người còn ở lại Từ cuối chân mây đêm bấc lạnh lùng Ngày hiển thánh cả giống nòi mong mỏi Của những linh hồn hữu thủy hữu chung
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19779)
Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ!!
06 Tháng Mười 2010(Xem: 21656)
Cổ nhân cũng đã có câu “ngu si hưởng thái bình”, hay là ta cứ an phận thủ thường, con gái thì mong trời sinh ra đừng quá đẹp, con trai thì đừng có quá tài ba. Còn giàu có bạc muôn không ham, chỉ mong đừng chạy gạo từng ngày. Cứ làng nhàng là xong, không ai thèm muốn, đố kỵ, ganh ghét, nghĩ chuyện đời: “Giàu như người ta cơm ngày ba bữa, đói như mình đây cũng đỏ lửa ba lần.”
05 Tháng Mười 2010(Xem: 19562)
hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được thắp nén hương trang trọng cho chị, thưa chị Nở.