- Dạ, con mới thăm bà hôm Chủ nhật tuần trước mà !
- Dzậy hả ! mới có một tuần thôi hả ? Dzậy mà tui tưởng là lâu lắm chứ ! Tui mù lòa có biết gì đâu, buồn lắm cậu ơi ! Có cậu dzô đây tui mừng lắm, thỉnh thoảng nhớ ghé thăm tui nghen cậu !...
Muốn cho bà vui, tôi đùa :
- Dạ, bây giờ thì thỉnh thoảng chứ ít bữa nữa con cũng già, rồi con vô đây ở chung với bà luôn cho vui nghen !
Thoáng mỉm cười hiện lên trên khuôn mặt nhăn nheo của bà, nhưng sau đó là tiếng thở dài não ruột :
- Thôi đi cậu ơi ! Cậu còn trẻ mà đã biết lo mần dziệc phước đức, thì cầu Trời Phật độ trì cho cậu, để cậu khỏi phải lâm vào cảnh như tui…
Rồi bà tiếp với cái giọng đều đều nhưng sao nghe nghèn nghẹn và đầy bi phẫn :
- Sao
trên đời này lại có những kẻ bất nhân như thế chứ ! Khi chúng nó còn nhỏ, mồ côi bố mẹ, tui đem dzề nuôi, lo lắng chăm sóc cho tụi nó đầy đủ,
tui có tiếc gì cho tụi nó đâu. Dzậy mà khi tui già, tui mù mần hổng ra tiền nữa thì bị tụi nó hắt hủi… Cậu biết không, nó đem chén cơm dằn xuống bàn trước mặt tui “Nè, ăn đi bà già mù. Đồ cái thứ báo đời !”. Bao
nhiêu năm được tui nuôi dưỡng, cuối cùng tụi nó trả ơn bằng cách kêu xe
xích lô tới chở tui đem đổ xuống trước cổng chùa này, như người ta trút
một cái bọc rác dzậy !...
Tôi biết kí ức đang sống lại trong bà, miền kí ức đau thương và cay đắng không thể nào phai dù đã hơn hai năm trôi qua. Bà đã đi sắp hết cuộc đời
làm người. Dấu ấn thời gian lưu lại trên khuôn mặt bà những nét nhăn nheo khắc khổ. Còn dấu ấn cuộc đời, lại nghiệt ngã hơn, hằn sâu trong lòng bà những vết thương không thể nào chữa lành được. Từ hai hốc mắt sâu hoắm không còn chút tinh anh của bà, đôi dòng lệ cuộn tròn, trào ra rồi chảy thành dòng qua những nếp nhăn nheo của đôi gò má xương xẩu. Vài
tia nắng hắt từ khung cửa sổ, đậu lại trên khuôn mặt bà làm ánh lên hai
hàng nước mắt long lanh. Mỗi lần kể chuyện cho tôi nghe bà đều
ngồi yên bất động, chỉ có đôi môi mấp máy và cặp mắt nheo nheo như đang
hướng về một vùng trời vô định.
Ngoài
xa kia, dòng sông Sài Gòn vẫn bình yên trôi lờ lững, lác đác vài bụi lục bình đang dập dềnh trôi trên sóng nước. Cánh lục bình làm tôi liên tưởng đến một kiếp người. Người ta không biết lục bình trôi từ đâu đến, và cũng chẳng ai biết rồi cánh hoa kia sẽ dạt về đâu giữa biển trời mênh
mông!
Có một thời gian tôi ở trong tình trạng lao đao, khi muốn đi tìm cho tương lai của mình một lối đi. Chiều chiều, tôi hay ra đứng bên dòng sông Đồng
Nai, ngắm những cánh hoa trôi nổi bồng bềnh. Đem so sánh tương lai đời mình với cánh hoa lục bình, tôi thấy có cái gì đó na ná: mong manh phiêu
bạt, rồi sẽ chẳng biết về đâu? Nhưng rồi cũng đến giai đoạn tôi quyết định hướng đi cho tương lai đời mình. Cánh lục bình cho tôi một bài học quý giá: cuộc đời mong manh và vắn vỏi là thế, nên tôi cần tìm cho mình một Bến Đỗ an toàn và bền vững hơn. Tìm về với Đấng là Cội Nguồn và Cùng
Đích của đời tôi. Đó là căn nguyên đức tin của
tôi.
Giờ đây, ngồi đối diện với bà – cánh lục bình già cỗi – tôi bỗng nhận ra Đức
Tin của mình quý giá biết bao. Vâng, tôi là cánh lục bình giữa cuộc đời
mênh mông, bé nhỏ và long đong nhưng không chập chờn vô định. Tôi biết được ý nghĩa cuộc đời mình. Tôi biết mình từ đâu tới và sẽ về đâu. Lúc này đây, tôi thấy lòng mình bừng lên ước ao muốn được chia sẻ cho bà niềm tin của tôi về Đấng Tuyệt Đối là cội nguồn và cùng đích của mọi loài. Tôi muốn dùng Lời Ngài để tâm sự với bà rằng :
“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc,
Vì anh em sẽ được vui cười”.
Tôi muốn nói cùng bà về sự sống đời sau, về lòng thương xót của Đấng là Tình
Yêu… nhưng buồn làm sao, những điều ấy chỉ có thể là ý tưởng! Bà đang ở
trong chùa, là tín đồ của Phật giáo! Cái ranh giới Phật giáo – Công giáo tuy mong manh nhưng vẫn là cái ranh giới! Hơn nữa, nhiệm vụ của tôi
lúc này, nơi này là làm chứng tá bằng chính hành động chứ không phải là
bằng lời nói hay thuyết giảng… Chợt nhớ tới lời của Mẹ Têrêxa Calculta:
“Truyền giáo là giúp cho người ta sống tốt với đạo của mình”, tôi buột miệng tính hỏi xem bà có tin vào Phật không, nhưng nhận ra cái vô duyên trong câu hỏi ấy, tôi kịp hỏi trớ đi
:
- Bà ơi, ở đây bà có hay cầu kinh khấn Phật không ?
- Có chứ, tôi ăn chay niệm Phật suốt cả đời mà. Ở trong này mỗi ngày tôi còn được nghe thuyết pháp và giảng giải kinh Phật nữa.
- Vậy sao bà không dâng hết mọi chuyện vui buồn lên cho Đức Phật ?...
- Ừ thì tui buồn tui tâm sự với cậu vậy chứ, không dâng hết cho Phật thì dâng cho ai bây giờ ? Có như vậy thì cái tâm mình mới tĩnh được để mà cầu kinh chứ! À, mà cậu có hay cầu kinh không ?
- Dạ, con … không biết, bà chỉ cho con đi !
- Cậu
cầu như thế này nè : “Nam mô a di đà Phật, Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát, Nam mô Thích Ca Mâu Ni đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn… A di đà Phật”
- Bà ơi, vậy thì thỉnh thoảng bà nhớ cầu Phật cho con với nghen!
- Ừ, .. Nam
mô a di đà Phật, cầu cho cậu An được bình an may mắn tai qua nạn khỏi, cầu cho cậu có được người vợ đẹp, sinh cho cậu bảy tám thằng con trai để
sau này có chỗ cậy nhờ… a di đà Phật!
Bỗng dưng lúc này tôi cảm thấy mình bé nhỏ vô cùng. Tôi, bà, và mọi người… tất cả đều là những sinh linh bé nhỏ tội nghiệp, ai cũng cần được Ơn Trên độ trì cứu vớt. Bà cầu Phật cho tôi, còn tôi, tôi sẽ cầu nguyện cùng Chúa cho bà. Đạo là đường. Chúng tôi đi theo hai con đường khác nhau, nhưng dường như đang nhắm về cùng một đích.
* * *
Từ hồi còn nhỏ tôi vốn đã không thích chùa lắm. Ở quê tôi, người ta luôn phân định rạch ròi ranh giới giữa Công giáo và Phật giáo, luôn có những cái ranh giới bất khả xâm phạm giữa xóm đạo và xóm chùa, giữa nghĩa trang của Phật giáo và nghĩa trang Công giáo. Trong tâm tưởng của tôi thời thơ ấu, các ngôi chùa với những hàng cột đen bóng, những hình bát quái với mùi nhang khói nghi ngút… dường như luôn mang cái vẻ ảm đạm và u
ám. Bây giờ thì tôi mới biết cái u ám đó nằm ngay trong chính cái thành
kiến của tôi.
Tôi đến thăm ngôi chùa này chỉ được vài lần. Thời gian tuy ngắn ngủi nhưng cũng đủ để chúng tôi làm quen và được nhiều người quý mến. Cửa chùa thì luôn rộng mở đối với mọi người! Từ sự rộng mở ấy, tôi có cái nhìn đẹp hơn về một tôn giáo bạn.
Ngôi chùa tọa lạc ngay bên cạnh bờ sông, êm đềm và tĩnh lặng. Ấn tượng đầu tiên đập vào mắt chúng tôi là pho tương phật bà Quan Âm uy nghi đứng giữa sân, pho tượng quay mặt nhìn về phía dòng sông đang hiền hòa gợn sóng. Chạy song song với bờ sông là con đường nhỏ phủ đầy bóng trúc được
lát gạch tàu phẳng phiu dẫn vào ngôi chánh điện. Vòng sang phía sau ngôi điện thờ là hai dãy nhà nhỏ đơn sơ, đó là nhà dưỡng lão của chùa, là mái ấm dành cho những người già cả cô đơn không nơi nương tựa.
Nơi đây, tôi đã học được nhiều điều và đọc thấy nhiều giá trị Tin Mừng. Đó là tấm lòng quảng đại từ bi của nhà chùa và các Phật tử hảo tâm, họ sẵn lòng mở rộng vòng tay để tiếp nhận những người già nua cô độc. Đó là gương phục vụ vô vị lợi của các cô, các dì ở chùa đối với những người già. Họ phục vụ tận tâm từ những người bại liệt, mù loà đến những người già khó tính hay giận hay hờn…
Đặc biệt hơn, nơi những người già bị bỏ rơi, tôi tìm thấy hình ảnh của Đức Kitô nghèo hèn và cô độc, nhưng vẫn đẹp đẽ lạ thường. Họ dẫn tôi đi vào trong một thế giới khác hẳn thế giới mà tôi đang sống. Thế giới của người già chẳng chút ồn ào, phức tạp nhưng giản đơn và chân tình. Mỗi khi hết buổi làm việc, chúng tôi chào tạm biệt các bà để ra về. Tình cảm
quý mến của các bà được thể hiện bằng cách giấm giúi gởi cho chúng tôi những gói quà nho nhỏ, những bọc kẹo, vài trái chuối... Mỗi khi từ chối,
dù có khéo léo cách nào đi nữa, tôi vẫn nhìn thấy dường như có nỗi buồn
đang phảng phất trong mắt các bà. Một lần,
khi tôi dắt xe ra đến cổng chùa thì có một bà chạy theo, trên tay bà là
vài gói mì tôm và một nải chuối. Bỗng nhiên lúc này tôi phát hiện ra một điều thật tế nhị: Ở đây, các bà là những người cô đơn và thiếu tình
cảm. Các bà không chỉ cần được yêu thương, mà còn cần có người để yêu thương nữa. Đó là điều hết sức tự nhiên của một người làm bà, làm mẹ. Thật nhẫn tâm nếu tôi lại từ chối tấm lòng của các bà!
Cũng nơi những người già này, tôi học được cái nhìn về cuộc đời đầy kinh nghiệm và đầy triết lý nhân sinh. Một lần nọ, khi đang lom khom cắt móng
chân cho một bà cụ thì bà hỏi tôi “Con đạo Phật hay đạo Công giáo?”. Tôi ngước lên nhìn bà và chỉ mỉm cười. Như hiểu ý tôi, bà tiếp : “Ừ,
thì bà hỏi thế thôi! đạo nào cũng tốt hết con à! Đạo nào cũng dạy mình lo làm việc lành để tích đức cho kiếp sau. Ham hố gì đâu trong cái cuộc đời phù sinh này chứ !”…Rồi bà cho tôi xem mấy tấm hình của bà chụp hồi còn trẻ “Con thấy không, hồi đó là cô thiếu nữ, bây giờ là bà già xương bọc da. Cứ tưởng như mới ngày
hôm qua, vậy mà… đúng là kiếp phù sinh”. Rồi bà lên giọng ngâm nga:
Kiếp phù sinh như hình như ảnh;
Có chữ rằng vạn cảnh giai không.
Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Vâng,
nơi đây tôi nhìn thấy cái mong manh, phù sinh của cuộc đời. Tâm sự với nhiều người, tôi thấy các bà ai cũng đã có một quá khứ với nhiều ước vọng cao xa, từng vật lộn với cuộc sống, từng muốn thu gom tích góp cho mình… nhưng rồi cũng đến thời gối mỏi lưng còng, đành buông xuôi tất cả,
trả lại cho cuộc đời tất cả.
Họ lấy Phật làm lòng, tu thân tích đức để mong thoát khỏi luân hồi số kiếp.
Còn tôi, tôi có Chúa là Nguồn Ơn Cứu Thoát. Thái độ cung kính và thành tâm của họ dành cho Đức Phật khiến tôi phải chạnh lòng khi đặt lại tương
quan giữa mình và Chúa. Chúa của tôi đáng yêu và gần gũi biết bao! Chúa
biết rõ những yếu đuối của kiếp người, biết tôi không thể tự mình vươn lên để thoát khỏi vòng tục luỵ. Chúa không để tôi phải một mình đối chọi
với cuộc đời, cũng không tính sổ với tôi sòng phẳng theo kiểu trả công cho tôi dựa vào những “công đức” tôi làm được. Mọi sự có là gì đâu trước
mặt Chúa! Chúa cúi xuống nâng tôi lên.
Tất cả là hồng ân. Tất cả là ơn nhưng không của Chúa… Vậy mà đã bao lần
tôi thờ ơ lãnh đạm. Tôi thả hồn theo những mơ mộng phù du của cuộc đời.
Thậm chí, tôi còn muốn dựa vào sức mình để bơi lái chèo chống nữa.
Cám ơn nhà chùa đã rộng tay đón tiếp chúng tôi. Cám ơn các bà đã tin tưởng và yêu mến chúng tôi. Cám ơn Chúa đã cho con một môi trường tông đồ tuyệt vời để nhìn ra Chúa nơi mọi sự, mọi người.
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa...
Mọi người đều đến cõi đời nầy với hai bàn tay trắng, thì lúc ra đi cũng chỉ với hai bàn tay trắng mà thôi. Ai ai cũng đều biết như vậy, nhưng hễ sao mỗi khi nghĩ đến chết thì thấy rờn rợn và hơi lo một chút... Sống sao cho đáng sống mới là việc khó. Đời là vô thường!
Kính nguyện cầu Đấng Thiên Thựợng Đế tối cao và Hồn thiêng sông núi phù hộ cho toàn dân Việt sớm có ngày "đắc lộ thanh vân", đưa nước Việt lên đỉnh đài vinh quang thịnh trị ngàn đời.
Chúng ta thường đi tìm một cái gì bên ngoài để mang lại cho mình hạnh phúc như vật chất, nhà cửa, xe hơi, máy móc, tiện nghi, … hoặc tình cảm gia đình, thân quyến, bạn bè, người yêu, … hoặc danh vọng, địa vị, lý tưởng. Ta khát khao tìm kiếm vì tưởng mình nghèo nàn, thiếu thốn, tâm luôn phóng ra ngoài chạy theo trần cảnh. Trong kinh Pháp Hoa kể thí dụ đứa cùng tử suốt đời đi ăn xin vì không biết trong túi mình có viên ngọc quý, đến khi được người bạn nhắc tỉnh ngộ lấy ngọc ra xài liền hết đói khổ.
Tháng 8-1999, tôi dọn nhà đến một căn phòng mới mướn. Trên ngăn kệ cao của closet, người mướn trước để sót lại một xấp “hồi ký” dầy 27 trang viết tay. Đêm đầu tiên ở phòng trọ mới, tôi đọc đoạn “hồi ký” bi hùng đó với nỗi niềm thương cảm không tả xiết: Thương cảm cho một danh tướng trong bước đường cùng của vận nước đen tối; thương cảm cho phu nhân và 2 người con của Tướng tuẫn tiết và thương cảm vị sĩ quan trẻ, có lẽ là Chánh Văn Phòng của vị tướng anh hùng, tức tác giả của đoạn “hồi ký” nầy.
Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ!!
Cổ nhân cũng đã có câu “ngu si hưởng thái bình”, hay là ta cứ an phận thủ thường, con gái thì mong trời sinh ra đừng quá đẹp, con trai thì đừng có quá tài ba. Còn giàu có bạc muôn không ham, chỉ mong đừng chạy gạo từng ngày. Cứ làng nhàng là xong, không ai thèm muốn, đố kỵ, ganh ghét, nghĩ chuyện đời: “Giàu như người ta cơm ngày ba bữa, đói như mình đây cũng đỏ lửa ba lần.”
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.