2:30 CH
Thứ Năm
28
Tháng Ba
2024

THẦY CÒN NHỚ TÔI KHÔNG ? - TOÀN PHONG NGUYỄN XUÂN VINH

22 Tháng Mười 201212:00 SA(Xem: 18512)

Hồi Ký của GS Nguyễn Xuân Vinh

 

blank
Thầy Còn Nhớ Tôi Không?
GS Nguyễn Xuân Vinh


 Mới đây khi đọc một tờ báo xuất bản ở miền Tây Bắc Hoa Kỳ, một bài viết về “Trường Cũ”, tôi thấy được tác giả nhắc tới rằng khi xưa tôi là một học sinh hiền lành. Cho đến bây giờ tôi vẫn được bạn bè cho là một người hiền. Chỉ có nhà tôi, mỗi lần thấy ai khen tôi như vậy thì lại nói: “Anh mà là người hiền!?”

 Một điều cố hữu với tôi là đối với các vị lớn tuổi hơn, với các thầy và cô giáo, cũng như các vị tu hành, tôi thưa gửi rất lễ phép. Những điều này tôi làm rất tự nhiên, từ hồi còn nhỏ đến giờ, không bao giờ thay đổi. Khi còn ở bậc tiểu học, tôi được học trong cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư, chuyện ông Sadi Carnot (1837-1894), là Tổng Thống Cộng Hoà Pháp vào năm 1887 khi trở về làng tới thăm thầy học cũ và nói rằng: “Tôi là Carnot đây, thầy còn nhớ tôi không?”. Tôi không còn nhớ là thầy dậy tôi lúc bấy giờ bình luận chuyện này ra sao, nhưng đối với tôi, thực tình tôi cho chuyện này không có gì đặc biệt, giá trị luân lý so với những chuyện khác của người Việt Nam chúng ta như sự tích Lưu Bình-Dương Lễ (kể thêm cả Châu Long) thật là kém xa.

 Từ ngày sống nơi khách địa, tôi mới nhận thức được lý do chuyện ông Carnot được kể ra như một gương sáng đáng noi theo cho người Tây phương. Tôi đã nhìn thấy những người học trò, sau này tiến bộ hơn ông thầy, không những quên những ngày được dậy dỗ mà có khi còn lên tiếng chê bai thầy kém cỏi. Ở trong bất kỳ một công hay tư sở, trong kỹ nghệ, trường học, hay ở trong hệ thống chính quyền trên đất nước này, thế nào cũng có những người trẻ ở cấp bậc điều khiển, những người này tất nhiên đã có lần vượt lên trên những người trước kia quản lý hay chỉ dẫn cho mình. Tôi không biết họ còn nói được những câu ân tình với những người đã huấn luyện cho mình hay không.


 Riêng tôi thì được may mắn trong tình bè bạn, có lẽ vì sự giao du thân mật của tôi chỉ giới hạn với những người tôi cho là hiền lành. Tôi ở trong quân đội mười bốn năm, sau này dậy học khoảng ba mươi năm, gặp những bạn bè và học trò cũ bao giờ tôi cũng thấy thoải mái. Nghĩa tình đối với những cựu chiến hữu xưa kia cùng chiến đấu dưới một bóng cờ, tôi đã nói đến nhiều trên sách báo. Giờ đây tôi viết về kỷ niệm với học trò cũ và về những người đặc biệt mà tôi đã có may mắn được gặp trên đường đời.

 Một lần tôi ghé qua San Jose, một tỉnh ở miền Bắc Cali, bạn bè mời tôi tới dự một dạ hội. Một vị khách tới chào và nói: “Em là Hải quân Đại tá Trần Thanh Điền, trước kia học toán với giáo sư ở Petrus Ký”. Đại tá Điền trước đây là giới chức cao cấp ở phủ Tổng Thống thì ai cũng biết. Còn tôi trước kia có dậy một năm học ở Trường Trung Học Petrus Ký, thì thật ít người biết. Tôi thật không ngờ trong những học sinh trẻ thời ấy có những người sau này nổi tiếng trong võ nghiệp. Ở miền Bắc Cali có tuần báo Việt Mercury là một tờ báo được nhiều người đón đọc. Khi nhận được bài viết đầu tiên tôi gửi tới, ông Tổng thư ký đã điện thoại ngay và nói: “Em là Nguyễn Xuân Hoàng, trước học Petrus Ký. Em rất mừng nhận được bài của thầy”. Ông Hoàng lúc đó cũng là giáo sư thỉnh giảng ở Đại Học California, Berkeley. Vậy là tôi tốt số, có môn sinh thành đạt ở cả hai ngành văn và võ.
 Cũng về văn, cựu học sinh trường Võ Tánh ở Nha Trang là nơi tôi đã từng dậy mỗi tuần vài giờ theo lời yêu cầu của Bộ Quốc Gia Giáo Dục và sự chuẩn y của Bộ Quốc Phòng khi tôi mới ở Pháp về và nước nhà còn thiếu nhiều giáo sư Toán có bằng cấp đại học, những học sinh đã theo học lớp tôi dậy có anh Trần Huỳnh Châu sau này là công chức cao cấp trong chính phủ. Học trò cũ ở Võ Tánh còn có anh Lư Văn Thành, cũng là cầu thủ bóng tròn xuất sắc ở trường, sau này trong quân đội là sĩ quan liên lạc Việt Mỹ. Sang Hoa Kỳ sau khi bị Việt cộng đưa đi tủ và được trở về, anh viết hồi ký bằng tiếng Anh. Khi đã đăng vài chương trên phụ trương Anh ngữ của báo Người Việt, anh được mấy nhà xuất bản Mỹ chú ý tới và mời anh ký giao kèo để họ xuất bản thành sách. Sách của anh Thành có lời đề tựa của một Trung Tướng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, và tôi cũng viết mấy lời giới thiệu. Tôi đã viết anh là người đôn hậu và tính tình chung thủy. Khi xưa, trên sân cỏ, khi đã đưa banh qua hàng hậu vệ, anh đá thẳng như sấm sét vào khung gỗ. Giờ đây viết sách kể lại chuyện vinh quang trong quân ngũ và buồn tủi trong ngục tù, chuyện xẩy ra sao, anh kể lại một cách trung thực, đi thẳng và mạnh vào tâm hồn người đọc, như đường banh khi xưa của anh đi thẳng vào lưới. Tuy tôi cũng chỉ dậy có một niên học ỏ Võ Tánh nhưng lại có nhiều tình thầy trò xâu đậm với trường. Thỉnh thoảng tôi lại được đọc trên báo hay những đặc san những bài nói về Nha Trang và trường cũ của những cựu học sinh và đôi khi thấy tên mình được nhắc tới.

 Miền thùy dương cát trắng cũng là nơi đã cung cấp nhiều nhân tài cho nền văn học Việt Nam ở quốc nội cũng như ở hải ngoại. Trong bộ môn thơ, một người đã đưa thi phẩm của mình ra giới thiệu ở diễn đàn thơ quốc tế là Hải Bằng Hoàng Dân Bình. Là hội viên của Hội Thi Sĩ Quốc Tế, năm 1998 anh đã trình đọc bài thơ “Render unto Me That Which Is Mine” (Hãy Trả Lại Cho Ta) tại Đại hội thường niên quy tụ khoảng một ngàn hội viên đến từ các nơi trên thế giới. Tôi nhận được tập thơ “Hương Yêu” của anh, xuất bản năm đầu thiên niên kỷ mới với lời ký tặng nhớ lại tình thầy trò xa xưa. Trong tập thơ, chứa đựng nhiều bài hay đẹp tuyệt vời, và đã được học giả tiến sĩ Thái Văn Kiểm giới thiệu và khen tặng nhiệt liệt, Hải Bằng đã trải rộng tâm tình trên quê hương, với thân hữu và gia đình, bằng những vần thơ thắm đặm tình người. Qua những lời giới thiệu trong cuốn sách, tôi chỉ biết là sau khi học ở Võ Tánh, Hoàng Dân Bình, cậu học sinh mà tôi nhớ khi xưa trông hiền lành, sau này về Sàigòn theo học Luật Khoa và sau khi tốt nghiệp đã dậy học nhiều năm trước khi được động viên và trở thành sĩ quan như bao nhiêu chàng trai trẻ khác thời tao loạn. Có lần tôi được mời tới Wilmington thuộc tiểu bang Delaware để làm diễn giả danh dự tại Đại Hội Lưỡng Niên các chuyên gia gốc Á châu của hãng Dupont, nơi đó gần thành phố Philadelphia là nơi anh cư ngụ, Hải Bằng đã tổ chức một buổi hội ngộ để tôi gặp anh và gia đình cùng một số thân hữu. Qua bữa ăn trưa tại một nhà hàng ở khu phố người Việt, gặp mấy vị lãnh đạo cộng đồng ở địa phương và những vùng lân cận, và ký giả Thomas Toan Le của Asian News, tôi được biết thêm là từ khi tới Hoa Kỳ theo diện H.O. năm 1992, anh đã tích cực đóng góp vào sự xây dựng cộng đồng cho thêm tươi sáng. Các con trong gia đình anh chị đều thành đạt và noi gương cha mẹ có lòng hiếu kính với các bậc tôn trưởng.

 Bạn đọc chắc không mấy người biết là nhà thơ tên tuổi Du Tử Lê trước kia cũng là học sinh Chu Văn An khi tôi đang dậy ở đó. Vì vậy anh vẫn quen lệ gọi tôi là thầy mỗi khi gặp nhau ở những sinh hoạt văn nghệ. Thơ của Du Tử Lê không những có nhiều bài được phổ nhạc mà lại có nhiều bài được dịch sang Anh ngữ. Tôi luôn luôn mong mỏi nhân tài của mình ở mọi ngành khoa học, kỹ nghệ và nhân văn được các sắc dân khác trên nước này chú ý đến. Nếu chúng ta chỉ quần tụ với nhau trong một khung khép kín, kể cả sự luân lưu kinh tế, thì thật không thể tạo nên một sức mạnh nào có ảnh hưởng tới tương lai của đất nước.

 Tôi lấy một thí dụ dễ hiểu về ảnh hưởng của cộng đồng kiều dân vào quốc gia cư ngụ. Hồi tháng 5 năm 1996 tôi được mời tới Hoa Thịnh Đốn để nhận giải Excellence 2000 Award của United States Pan Asian American Chamber of Commerce. Trong những người được vinh danh có nữ tài tử Joan Chen, người đóng vai chính trong phim “The Last Emperor”, ông Harry Wu là một người Trung Hoa tranh đấu cho nhân quyền nổi tiếng quốc tế, và ông Matthew Fong hiện là bộ trưởng Tài chánh của tiểu bang California. Ở buổi Lễ Vinh Danh có cựu Bộ Trưởng Gia Cư và Ứng cử viên Phó Tổng Thống của đảng Cộng Hoà Jack Kemp là diễn giả danh dự. Ông Harry Wu bị nhà cầm quyền Trung cộng giam giữ 19 năm, từ 1960 tới 1979. Năm 1985 ông được đại học California ở Berkeley mời sang làm giáo sư thỉnh giảng về môn địa chất học. Những sách ông viết trong thời gian ở Hoa Kỳ như “Laogai – The Chinese Gulag” và “Bitter Winds” đã nói lên sự đàn áp nhân quyền một cách tàn bạo ở Trung hoa lục địa. Năm 1995 ông trở về nước và bị cộng sản bắt ngay, đưa ra toà, xử 15 năm tù giam. Sau đó, vì áp lực của nhiều chính phủ và đoàn thể trên thế giới mà Trung cộng phải trả tự do cho ông, để ông trở sang Hoa Kỳ, bây giờ là một nghiên cứu gia ở Viện Hoover thuộc Đại học Stanford. Ông Harry Wu đã được trả tự do, thường xuyên được phỏng vấn trên đài truyền hình mỗi khi có việc đáng quan ngại, xẩy ra ở lục địa Trung quốc; một phần là ông có quá trình tranh đấu cho nhân quyền, đã diễn thuyết ở nhiều nơi và viết sách được nhiều người đọc, nhưng phần chính là cộng đổng người Hoa chống cộng của họ có ảnh hưởng mạnh ở các quốc gia họ cư ngụ.

blank
Ứng cử viên Phó tổng Thống Jack Kemp và Bộ Trưởng Tài Chánh Matt Fong


 Trở lại với Du Tử Lê, thơ dịch của anh đã được đăng trên Los Angeles Times và New York Times. Chúng ta cần có rất nhiều người như anh, ở đủ mọi ngành, văn học, kinh doanh, kỹ thuật, giáo dục, …, hòa nhập vào cuộc sống hàng ngày trong những xã hội mình sinh sống. Mỗi lần được tin người Việt bay Boeing 727 cho hàng không dân sự, bay F-16 cho quân đội, hay một phụ nữ làm quản lý cho một công ty lớn, một chuyên gia giải phẫu người Việt đã chỉnh nghiệm được một phương pháp tân kỳ là tôi thấy có niềm vui trong lòng. Tôi mong có ngày nhìn thấy thường xuyên nữ xướng ngôn viên người Việt trên những đài truyền hình và những tên họ Nguyễn, họ Trần ký dưới những bài bình luận đăng trên những tuần báo Time và Newsweek. Du Tử lê gửi cho tôi mấy cuốn sách mới của anh, kèm theo một lá thư anh viết, đề ngày mồng Một Tết năm Đinh Sửu. Tuy chỉ kém tuổi tôi một giáp, nhưng anh vẫn xưng mình là “con”, như tôi vẫn thường xưng như thế khi hàng năm viết thư thăm hỏi các thầy cô khi xưa dậy mình ở những lớp trung và tiểu học.

 Học trò ngoại quốc của tôi cũng khá nhiều, và có nhiều người có chức vụ quan trọng. Có một lần tôi đi cùng với một ông mục sư Mỹ tới nhà một bà bác sĩ để nhận một ít đồ đạc trợ giúp cho gia đình một chiến hữu mới tới định cư ở tỉnh tôi. Bà bác sĩ này dọn đi tỉnh khác nên định cho bớt đi một ít vật dụng trước khi xe chuyên chở tới dọn nhà. Sau khi trao đổi ít lời, bà cho chúng tôi gần hết những đồ đạc ở appartment của bà và nói rằng:
 “Tôi độc thân nên cũng không cần nhiều đồ bằng gia đình này”. Ông mục sư nói riêng với tôi:
 “Những đồ này sang quá! Khi nào nhà có khách, tôi tới mượn lại dùng ít ngày”.
 Khi nghe bà mạnh thường quân này nói là có một đứa cháu cưng vừa được nhận vào học tại trường Đại học nổi tiếng Purdue University, tôi nẩy ra một ý kiến. Tôi xin bà bác sĩ một mảnh giấy với cái phong bì, viết mấy chữ đưa cho bà và nói rằng:
 “Thư này để gửi cho một học trò cũ của tôi là giáo sư Đại Học Purdue. Nếu cần gì, cháu bà cứ mang thư này tới, người bạn tôi sẽ hết sức săn sóc cho cậu cháu.”
 Tôi chắc bà không tin tưởng cho lắm ở bức cẩm nang tôi đưa cho bà, và nếu bà bác sĩ có mở thư ra đọc thì trên đó tôi chỉ viết hàng chữ ngắn gọn:
 “Jim thân mến. Đẵ có một lần gia đinh cậu sinh viên này giúp tôi môt việc. Tôi mong rằng anh và Holly săn sóc cậu ta trong thời kỳ học ở West Lafayette”.
 Riêng tôi thì tôi tin chắc là nguời học trò cũ của tôi và bà vợ anh ta sẽ hết sức giúp cho cậu sinh viên Mỹ nếu được nhờ tới. Anh là người bạn hiền và chung thủy với tôi. Nếu không thì xưa kia tôi đã không nhận anh làm môn đệ.

 Ngày 24 tháng 4 năm 2009, tôi được Đại học Colorado, là nơi ngày xưa tôi tốt nghiệp và ở lại một thời gian trong ban giảng huấn, mời về và vinh danh như là cựu sinh viên đã đạt được những thành tích xuất sắc và làm vẻ vang cho Trường. Ở bữa tiệc vinh danh, tôi thật cảm động khi thấy những cựu sinh viên khi xưa đã học tôi và nay họ đều là những khoa học gia tên tuổi tới ngỏ lời chúc mừng. Tôi gặp lại một sinh viên cũ là tiến sĩ Daniel J. Scheeres, ông viết luận án với tôi ở Đại học Michigan, nay thụ ủy ghế giáo sư A. Richard Seebass, Đại học Colorado đặt ra để tưởng niệm cố Khoa trưởng Seebass, và một cựu sinh viên khác là giáo sư Robert D. Culp, cựu Trưởng Phân khoa Hàng Không và Không gian, và cũng là người khi xưa tôi đã hướng dẫn làm khảo cứu về phương pháp chuyển quỹ đạo khi tôi còn dậy học ở Colorado. Cả hai ông bà cùng đến thăm hỏi và nhắc lại kỷ niệm khi xưa. Đại học có gửi cho tôi ít hình ảnh để giữ làm kỷ niệm và, khi nhìn những tấm hình này, tôi cảm thấy rằng sau bao nhiêu năm cách biệt, lời nói của tôi vẫn được họ chăm chú nghe và tình thầy trò giữa tôi với họ và gia đình vẫn thân mật quyến luyến như xưa.


blank

Giáo sư Daniel Scheeres và giáo sư Robert Culp


 Một lần tôi nhận được điện thoại từ văn phòng ông khoa trưởng Trường Kỹ thuật của Đại học Michigan khẩn khoản nhờ tôi giúp cho một việc. Một công ty lớn ở tiểu bang vừa nhận được một công việc có tầm vóc ở Đài Loan và họ đang chuẩn bị đón tiếp một vị chủ tịch công trình này sang để duyệt xét trước khi ký giao kèo. Ông này là tiến sĩ Trần Bang Đạt, trước kia tốt nghiệp ở Đại học Michigan là trường tôi đang dậy, và có theo học tôi nhiều lớp. Ông đánh điện sang và ngỏ ý muốn trở lại thăm trường và gặp lại tôi. Ông chủ tịch công ty liên lạc với ông khoa trưởng vì họ là bạn bè với nhau. Ông khoa trưởng giao lại công việc cho tiểu ban ngoại vụ và họ nhờ lại tôi tiếp đón người học trò cũ và mời ăn trưa thịnh soạn, họ sẽ thanh toán mọi phí tổn. Tôi nhận lời, và vì bà Jean Trần (Cheng) là vợ của người học trò cũ của tôi cũng đi theo chồng sang lần này, nhân tiện thăm mấy con trai của họ đang học ở Hoa Kỳ, tôi nhờ nhà tôi đặt một bữa ăn ở một phòng riêng tại một khách sạn của đại học. Tôi cũng mời vào khoảng 20 sinh viên cao học người Đài Loan tới dự để gặp giới chức cao cấp của họ. Tới giờ hẹn ông bà Bang Đạt tới thăm chúng tôi ở nhà riêng. Công ty Mỹ đã thuê một chiếc limousine thật dài để đưa đón họ. Khi chúng tôi tới phòng ăn, người khách phương xa nhất định mời tôi ngồi vào ghế thủ tịch, hướng ra ngoài. Tuy chuyện trò thân mật, nhưng anh vẫn một niềm lễ phép theo lề lối Á Đông dầu rằng hiện nay anh quản lý một chương trình hàng mấy trăm triệu Mỹ kim mỗi năm. Sau này, tiến sĩ Trần Bang Đạt được thăng cấp Trung Tướng Không Quân Trung Hoa Quốc Gia và được giao cho phụ trách một chương trình chế tạo phi cơ tương đương với loại phi cơ F-16 của Không Quân Hoa Kỳ. Trong thời gian chế tạo, những phi cơ phản lực khu trục này được đặt tên là Indigenous Defense Fighter (IDF) có nghĩa là dùng để phòng vệ địa phương. Khi bốn phi cơ kiểu mẫu đầu tiên đã hoàn bị những chuyến bay thử nghiệm, Trung Tâm Khảo Cứu Hàng Không của ông ở Taichung, Taiwan có một buổi lễ để giới thiệu ra ngoài cho các cơ quan truyền thông. Tôi cũng được mời tham dự và được tặng một tấm bảng ghi công đóng góp vào chương trình này.


blank

 Cách đây đã lâu, vào năm 1989, nhân dịp đi họp ở Viện Hàn Lâm Hàng Không và Không Gian của Pháp, toạ lạc ở Toulouse, một người bạn học cũ ở trường Sĩ Quan Không Quân Pháp là bác sĩ Đặng Vũ Hùng khi nghe tin tôi qua Ba Lê, đã cho mấy người bạn Pháp cùng khoá biết. Một người bạn đồng khoá khác là Đại tướng Guéguen, lúc đó là Tư lệnh Phòng không của Pháp, đã mời tôi đến thăm bản doanh của ông và ăn trưa cùng một số sĩ quan trong bộ tham mưu của ông. Một ông Trung tướng, học khoá sau, khi bắt tay tôi, đã hỏi:
 “Chắc ông không còn nhớ tôi?”.
 Ông ta định nói là ngày xưa, khi ở quân trường, tôi cũng đã hành ông rất nhiều. Tôi xin nói lại là tôi là con người rất hiền, xưa nay không hề cậy thế bắt nạt ai bao giờ. Chắc bạn đọc không có thể nghĩ rằng Đại tướng Guéguen, phi công khu trục Mirage, lại là người rất thấp, chỉ cao bằng tôi mà thôi. Vì thế khi xưa, đứng theo hàng ngũ cao thấp của brigrade sinh viên sĩ quan, ông lúc nào cũng đứng cạnh tôi. Trước khi từ biệt ra về, tôi và ông chụp chung một bức hình kỷ niệm, trước chiếc phi cơ đặt gần cổng. Ông đội mụ cát kết, còn là một Đại tướng Không quân hiện dịch, tôi để đầu trần, nay là người dân sự, trông trong bức hình, ông hơi cao hơn tôi một chút.

blank

Hình với Đại tướng Guéguen và sĩ quan tham mưu
Bộ Tư Lệnh Phòng Không Pháp.
[/i]
 Trong thời gian học bay ở Pháp, tôi phải trải qua nhiều thời kỳ huấn luyện. Từ học bay cơ bản ở Marrakech, dưới trời Bắc Phi, rồi sang đến giai đoạn bay chiến đấu ở Salon de Provence miền Nam nước Pháp, rồi tập bay phi cụ ở Avord trên máy bay hai động cơ, quanh năm trời có sương mù, tôi đã có nhiều huấn luyện viên, ông nào đối với tôi cũng đáng bậc thầy, và được tôi là người chuyên cần học hỏi, ông nào cũng dốc túi truyền dậy những gì độc đáo của mình. Một lần tôi được cùng khoá sinh viên sĩ quan phi hành của Trường Võ Bị Không Quân tới thăm Trung Tâm Huấn Luyện Brétigny-sur-Orge là nơi đào tạo những phi công xuất sắc để bay thử nghiệm những phi cơ mới được chế tạo. Lúc đó là vào năm 1954, và vị Chỉ huy trưởng là Thiếu tá André Édouard Turcat, một phi công tài ba, tốt nghiệp từ Trường Polytechnique. Ông là tác giả cuốn “Mécanique du Vol” của nhà xuất bản Dunod, là cuốn sách dậy về lý thuyết bay của các phi cơ, thời ấy được giảng dậy tại các trường kỹ sư quốc gia. Cuốn sách đó tôi mang theo và đã xin ông ký vào trang đầu để làm kỷ niệm. Hơn ba mươi năm sau, tôi lại gặp ông, và cả hai người đều ở những địa vị khác. Ông Turcat giờ là một nhân vật nổi tiếng quốc tế trong ngành Hàng không và Không gian. Trường huấn luyện phi công bay thử nghiệm của Pháp, thành lập năm 1946 ở Brétigny, tới năm 1962 thì được chuyển về căn cứ Istres Le Tube, gần Marseille thuộc miền Nam nước Pháp và có tên là École du Personnel Navigant d’Essais et de Réception (EPNER) và là một trong 4 trường huấn luyện phi công bay thử nghiệm (test pilot school) có uy tín nhất trên thế giới tự do. Ba trường kia là Empire Test Pilot’s School (ETPS), United States Air Force Test Pilot School (USAFTPS) và United Stated Naval Test Pilot School (USNTPS). Trường Empire Test Pilot được thiết lập ở miền Wiltshire, Anh Quốc do hợp đồng giữa Bộ Quốc Phòng Hoàng Gia Anh và một công ty tư nhân. Sự hợp tác này, với các chuyên gia và huấn luyện viên thượng thặng, tuyển mộ từ ngoài quân đội, đã đưa đến chuyện đào tạo những phi công và cơ khí viên chuyên về bay thử nghiệm những phi cơ mới được sáng chế và thành quả tốt đẹp đến nỗi chương trình huấn luyện trở thành mẫu mực cho EPNER của Pháp, trường huấn luyện USAFTPS của Không Quân Hoa Kỳ ở Edwards Air Force Base, California và trường huấn luyện USNTPS của Hải Quân Hoa Kỳ ở Maryland.
 Với vốn học từ École Polytechnique và nói được tiếng Anh lưu loát, Ông André Turcat đã có công rất nhiều trong sự hợp tác để trao đổi kinh nghiệm bay thực nghiệm giữa bốn trường huấn luyện phi công nói trên ở ba cường quốc hàng không là Anh Quốc, Pháp Quốc và Hoa Kỳ. Ông được thế giới hàng không biết tiếng khi ông hoàn tất chương trình bay thử nghiệm của chiếc Nord 1500 Griffon, là một trong những phi cơ đầu tiên dùng động cơ ramjet. Ông được trao cúp Harmon năm 1958 khi đạt được kỷ lục bay Griffon tới tốc độ Mach 2.19. Năm trước đó người được giải Harmon là Thống tướng Curtis E. LeMay, người đã có công xây dựng lên Strategic Air Command, và hiện là đương kim Tư Lệnh Không quân Hoa Kỳ. Sau chương trình Griffon, Thiếu tá Turcat được mời vào hãng Sud Aviation và làm phi công trưởng cho chương trình chế tạo SST Concorde là một chương trình hợp tác giữa Anh và Pháp quốc chế tạo loại phi cơ chở hành khách đạt được hai lần tốc độ âm thanh (Supersonic Transport), nhằm mục đích giúp cho những hành khách cần tiết kiệm thời gian, như những kinh tế và kỹ nghệ gia, thường xuyên đi lại giữa Âu châu và Mỹ châu, rút ngắn thời gian bay qua Đại Tây Dương còn một nửa. Ngày 2 tháng 3 năm 1969, ông Turcat có vinh dự cất cánh chiếc phi cơ Concorde thử nghiệm bay lần đầu tiên. Bẩy tháng sau, vào ngày 1 tháng 10 năm 1969, ông là người đưa phi cơ Concorde vượt tường âm thanh lần đầu tiên, và sau đó tiếp tục nhiệm vụ giám đốc phi vụ thử nghiệm của chiếc phi cơ cho đến lúc hoàn tất, bay đường trường mà đạt được hai lần vận tốc âm thanh. Chương trình Concorde có hai phi cơ mẫu và chiếc thứ hai được chế tạo tại Anh quốc và những chuyến bay thử nghiệm của phi cơ này được giao cho phi công tài ba Brian Trubshaw. Cũng qua những chuyến bay song hành như thế này mà có sự trao đổi chặt chẽ về kỹ thuật bay thử nghiệm phi cơ giữa những Trường huấn luyện nói trên.


blank

Phi Cơ SST Concorde

 Hiệp Hội Phi Hành Gia Thử Nghiệm (Society of Experimental Test Pilots) hàng năm có trao giải mang tên Ivan C. Kincheloe để tưởng niệm thành viên này trước là phi công anh hùng chiến tranh Đại Hàn, nhưng sau bị tử nạn khi bay thử nghiệm phi cơ F-104. Hai ông André Turcat thuộc Aérospatiale của Pháp và Brian Trubshaw thuộc British Aircraft Corporation của Anh đã được giải này năm 1971 về công trình thử nghiệm phi cơ Concorde. Trước đó một năm. giải Ivan C. Kincheloe được trao cho phi hành đoàn không gian của Apollo XI là Neil A. Armstrong, Edwin E. Aldrin và Michael Collins đã bay lên Mặt trăng và trở về an toàn.
 Tôi gặp lại ông Turcat khi ông đã lên tới tuyệt đỉnh danh vọng, được nhiều huy chương và được vinh danh ở nhiều nước. Tuy không được học bay với ông nhưng tôi vẫn coi ông là bậc thầy và đặc biệt kính trọng ông về đức tính khiêm nhường. Ông thật là một người văn võ song toàn vì sau này được quen biết với ông, tôi cũng được biết ông còn có bằng tiến sĩ quốc gia về văn chương của Đại học Aix en Provence với chuyên khoa là kiến trúc thời Trung Cổ. Cuốn sách ông ký tặng cho tôi khi còn là một khoá sinh học bay trên đất Pháp sau này tôi vẫn dùng để soạn bài dậy những lớp kỹ sư ở Đại học Michigan. Sau gần bốn mươi năm, với kỹ thuật hàng không tiến triển vượt bực, nhiều động cơ phản lực cao cấp được xử dụng, và những hiện tượng triệt nâng ở tốc độ siêu thanh được hiểu rõ hơn qua nhiều chương trình khảo cứu về khí động lực học, tôi đã viết lại lý thuyết bay ở tốc độ siêu thanh thành một cuốn sách với đề là “Flight Mechanics of High-Performance Aircraft” và được Cambridge University Press nhận xuất bản.

blank

 Tôi đã nghĩ đến sự hợp tác tuyệt vời giữa Anh và Pháp quốc để chế tạo lên phi cơ SST Concorde, một thời đã lưu lại trang sử đẹp cho ngành Hàng không chuyên chở thế giới. Nếu Đại học Cambridge ở Anh quốc xuất bản cuốn sách này trong loại Aerospace Series của họ mà sách của tôi viết được lời giới thiệu của ông André Turcat thì tôi chắc chắn là cuốn sách học mà tôi đã để nhiều năm viết rất công phu sẽ được các chuyên gia và các nhà giáo dục và khảo cứu trên thế giới nhiệt thành đón nhận. Là một thành viên và là người gốc Á châu đầu tiên được bầu vào Hàn Lâm Viện Quốc Gia Hàng Không và Không Gian Pháp (Académie Nationale de l’Air et de l’Espace) tôi gửi bản thảo cuốn sách cho ông André Turcat, lúc đó đang là Tổng Thư Ký của Hàn Lâm Viện và xin ông nếu được thì viết cho Lời Mở Đầu. Tôi đề nghị là ông có thể viết bằng tiếng Pháp và tôi sẽ dịch sang tiếng Anh để ông duyệt lại trước khi cho sách in. Ông đã nhận lời và khi đọc bài viết tay của ông tôi đã sững sờ khi thấy bài giới thiệu rất ân cần khen ngợi cuốn sách và ở câu kết, ông đã viết: “En m’inclinant devant ses exploits extraordinaires, …” . Vì ông André Turcat là bậc đàn anh và là người từ lâu tôi hâm mộ nên lòng kính trọng ông không cho phép tôi dịch nguyên văn câu đó như là ông đã “nghiêng mình trước những thành tích của tôi …” và trong bản dịch tôi đã dùng những chữ nhẹ nhàng hơn. Cuốn sách của tôi đã được in ra với bìa cứng từ năm 1993, và được phổ biến rộng rãi với dạng bìa mỏng từ năm 1995 và nếu độc giả có vào một thư viện đại học nào để tìm đọc thì thấy ở lời Forword của ông André Turcat, ông đã giới thiệu tôi như là một người bạn thân và đồng nghiệp và kết luận bằng những dòng chữ:

“With my salutation for the author’s exceptional career and his gentle character, I am happy and honored to introduce the present treatise”.

André Turcat
Former Pilot and Director of
Flight Tests for the SST Concord
General Secretary of the Académie Nationale
De l’Air et de l’Espace.

 Tôi cũng có nhiều học trò là sĩ quan Không quân Hoa Kỳ. Đặc biệt có một người tôi chú ý đến hơn cả là anh Fred Frostic. Thời điểm 68-70, khi học tôi ở Đại học Michigan, anh là thiếu tá phi công F-4C Phantom. Sau này anh lên Đại tá chỉ huy một không đoàn F-16. Một dạo tôi nghe tin anh đã rời quân đội và trở thành chyên gia nghiên cứu ở Rand Corporation là cơ quan nghiên cứu chiến lược có uy tín ở Hoa Kỳ. Mấy năm sau này tôi không được tin của Fred. Cuối mùa đông, trước năm tôi xin nghỉ hưu, tôi nhận được bản tin hàng tuần loan báo có buổi nói chuyện với phân khoa chúng tôi mà diễn giả là “Fred Frostic, Deputy Assistant Secretary of Defense”.

 Chức vụ này rất lớn. Trước đó mấy tháng, Đại hội năm 96 của hội Khoa Học Kỹ Thuật Việt Mỹ đã mời được một vị khách đặc biệt là ông Sid Lawrence J. Goffney, Jr. cũng có chức vụ tương đương là Deputy Assistant Secretary of Commerce, thuộc bộ Thương Mại đến làm diễn giả đặc biệt. Tôi đã nói chuyện với ông và được biết trách vụ của ông thât rộng lớn. Điều này thực không lạ vì chính phủ liên bang Hoa Kỳ có trách nhiệm trên 51 tiểu bang và ảnh hưởng nhiều đến thế giới. Được tin ông Frostic tới nói chuyện tôi đã hỏi vị giáo sư bạn phụ trách mời các vị diễn giả hàng tuần thì ông ta nói đúng là anh Fred, cựu sinh viên mà, trong văn thư trao đổi, ông thứ trưởng bộ Quốc phòng này có nói trước kia làm khảo cứu với tôi.

 Theo thường lệ, thì diễn giả được mời, hay tới trường tôi vào khoảng 10 giờ sáng để gặp gỡ và thảo luận với một số giáo sư cùng chuyên môn khảo cứu. Sau đó thì một số sẽ cùng với khách phương xa và giáo sư phụ trách mục diễn thuyết hàng tuần tới câu lạc bộ giáo sư để ăn trưa trước buổi diễn thuyết ấn định vào buổi chiều.

 Sáng hôm sau tôi đến trường như thường lệ, vào khoảng 9 giờ. Cửa phòng học của tôi bao giờ cũng mở. Tôi nhớ đến chàng Thiếu tá Không quân khi xưa, phi công khu trục Fantom F-4C, khá bảnh trai, tuy hoạt bát nhưng thật ra hiền lành. Đó là theo ý nghĩ của tôi, vì tôi cũng đã đối xử với anh trong tình bạn, giữa những người đã cùng bay bổng trên mây trời. Như Đại tá Trần Thanh Điền, như Ông Trung tướng Không quân Trần Bang Đạt ờ Đài Loan, như Nhà thơ Du Tử Lê, như ông Giáo sư ở Đại học Purdue và nhiều người khác nữa tôi đã gặp và tôi coi như trong tình bằng hữu, tôi tin rằng ông Frostic khi tới trường thế nào cũng sẽ tìm gặp tôi.

 Đúng như vậy, vào khoảng hơn mười giờ sáng, tôi thấy anh tới phòng, chào và nói một câu tôi nghe quá quen thuộc. Dịch ra tiếng Việt thì anh đã nói: “Tôi là Frostic đây, thầy còn nhớ tôi không?”

GS Nguyễn Xuân Vinh
Trích trong Tập truyện “Vui Đời Toán Học”





Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
24 Tháng Tư 2012(Xem: 19213)
Chúng ta mang theo họ trong hành trang của chuyến ly hương dài và có khi là vô tận. Có khi nào bạn nghĩ đến những người đã khuất, đã rải hương hoa trên con đường chúng ta đang đi không?
24 Tháng Tư 2012(Xem: 21545)
Ra khơi sương khói một chiều Thùy dương rũ bến tiêu điều ven sông Lơ thơ rớt nhẹ men lòng Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang
22 Tháng Tư 2012(Xem: 19172)
VIẾT CHO HƯƠNG HỒN BẠCH NGA – CHO NGƯỜI CHỒNG MỚI ĐÁM HỎI CỦA BẠCH NGA – NGƯỜI CHIẾN BINH THỦY QUÂN LỤC CHIẾN OAI HÙNG ĐÃ HY SINH THÂN MÌNH ĐỂ BẢO VỆ CHO SỰ TỰ DO CỦA MIỀN NAM VIỆT NAM – CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA.
22 Tháng Tư 2012(Xem: 22895)
Thực ra là mình giấu. Không lẽ kể với Muôn lời khấn này: “Chú Mười ơi, ngày xưa chú chửi sai rồi. Đáng lý chú phải chửi là, “Học giỏi cho lắm, bôn ba cho lắm, cũng đi chợ cho vợ mà thôi!”
22 Tháng Tư 2012(Xem: 20459)
Mỗi lần Tháng Tư về, ai trong chúng ta cũng có những hồi tưởng và suy nghĩ khác nhau, phần tôi vẫn ám ảnh bởi những nấm mồ oan khuất gây ra bởi biến cố này, mà thủ phạm không ai khác hơn là những người thắng trận cuối cùng.
21 Tháng Tư 2012(Xem: 19372)
Mẹ Việt Nam ơi, từng bước từng bước chúng con đang hội nhập vào nền văn hóa mới, nhưng cũng từng bước từng bước chúng con đang quên dần tình nghĩa “đồng bào” theo truyền thuyết “con rồng cháu tiên” của hơn bốn ngàn năm văn hiến. Liệu rồi thế hệ con cháu người Việt đang lưu lạc khắp bốn phương trời có còn nhận nhau là anh chị em “máu đỏ da vàng” nữa không?
19 Tháng Tư 2012(Xem: 19474)
Trong thời chiến, bài hát Ngày về thường được phát trên loa phóng thanh, trên trực thăng, trên thuyền bè nhằm kêu gọi những người lầm đường lạc lối hồi chánh, trở về với chính nghĩa, với dân tộc.
15 Tháng Tư 2012(Xem: 20113)
Chúng tôi là những người sanh ra và lớn lên ở miền Nam. Nhờ hạt gạo của đồng bào miền Nam nuôi lớn và trưởng thành từ nền văn hóa và giáo dục khoa học, nhân bản và khai phóng. Chúng tôi có lý tưởng của chúng tôi cũng như các anh có lý tưởng của các anh
15 Tháng Tư 2012(Xem: 20308)
Tuy VC đã cưỡng chiếm được miền Nam gần 37 năm qua, nhưng duới đống tro tàn của quá khứ, vẫn còn âm ỷ các sự kiện nóng bỏng của cận sử VN, trong đó ác nhất là chuyện ‘ Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, tẩu tán 16 tấn vàng y
14 Tháng Tư 2012(Xem: 27284)
Đau đớn nhất là bao giờ khi xem hình, khi đọc những bài viết xong, cuối cùng mình nhận thức rất rõ rệt: đó là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn.Người giết và người bị giết đều mang họ Nguyễn, họ Lê, họ Trần. Ba mười bẩy năm rồi, người ta nói là Việt Nam đã hết chiến tranh
12 Tháng Tư 2012(Xem: 21551)
Vượt biên thất bại hết ba lần, qua lần thứ tư đi thoát, để bây giờ - ba mươi mấy năm sau - ngồi viết mấy dòng nầy nhân ngày 30 tháng tư thứ 37…mà thấy không phải tôi đã từ trên trời rơi xuống, chính mấy thằng cha « cách mạng » mới là từ trên trời rơi xuống !
23 Tháng Ba 2012(Xem: 19585)
Tôi nghe chừng thân mình bay bổng. Khi tôi mở vòng tay, mẹ quay mặt bước đi. Tôi thấy mình quá bất nhẫn, khẽ gọi: “Mẹ!” Bà quay lui, chân vẫn bước, đôi mắt hiền từ. Tôi lúng túng vẫy tay, cố nở nụ cười: “Chào mẹ!”
23 Tháng Ba 2012(Xem: 20400)
Tôi nhìn thấy cảnh một gia đình ấm cúng, “anh chị” âu yếm xưng hô với nhau bằng “bố” và “mẹ”, y như đã là vợ chồng từ thuở đầu đời. Hai tâm hồn lãng tử gặp nhau và dừng lại. Chiều xuân gió lành lạnh, còn chút nắng vàng êm ả.
22 Tháng Ba 2012(Xem: 20781)
Bạn hãy nhìn xuống đi, rồi cũng như tôi, bạn sẽ nhìn thấy Thiên Chúa quì dưới chân bạn từ lâu để khẩn cầu. Xin bạn hãy thương xót Người. Bạn nỡ lòng nào…???
19 Tháng Ba 2012(Xem: 20436)
Than ôi, chỉ vì thằng bé không trả nổi món nợ trứng chiên thời nhỏ mà dù đã chạy sang tới tận nước Mỹ, vẫn không thoát tay cô ả da... bánh mật. Nợ chỉ một miếng trứng chiên mà trả cả một đời.
16 Tháng Ba 2012(Xem: 21557)
vì tất cả chúng ta đều phải chịu trách nhiệm với cuộc sống xung quanh chúng ta, vị thẩm phán đã không chỉ dùng luật pháp mà còn dùng cả trái tim để phán xét.
11 Tháng Ba 2012(Xem: 23859)
Tuy là tui chưa bao giờ đi lính nhưng tui rất thuơng mến mấy anh lính từ hồi còn đi học bằng xe bò. Hôm nay lang thang trên mạng đọc được cái bài này làm tui cảm động quá liền copy mà gởi nhờ đăng lên aihuubienhoa coi như là có chút gì chia sẽ với tác giã và bà mẹ cái nổi đoạn trường ngày đó.
03 Tháng Ba 2012(Xem: 21903)
MÀU TÍM HOA SIM -Truyện ngắn Võ Đình Tuyết đã được đăng trên báo Văn và được diễn đọc trong chương trình "Đọc Truyện Hay" đài Little SaiGon radio Houton, Texas.
02 Tháng Ba 2012(Xem: 21380)
Tôi cảm động quá, nắm chặt tay Thanh, trấn tỉnh mãi mới nói được một câu mà tôi cho là đẹp nhất trong đời tôi: “Anh cũng giữ em bên cạnh anh . . . suốt cuộc đời của anh.”
01 Tháng Ba 2012(Xem: 22655)
Tuần vừa qua, một cuốn phim Đại Hàn ra mắt khán giả Paris, được khen ngợi. Báo Mỹ cũng khen. Tên của phim là : Xuân Hạ Thu Đông ... rồi Xuân (1). Không phải là người sành điện ảnh, đọc tên phim là tôi muốn đi xem ngay vì nên thơ quá.
29 Tháng Hai 2012(Xem: 21049)
Ngày mà nhạc sĩ sáng tác VN được tự do viết nhạc, ngày mà ca sĩ VN được tự do ca hát sẽ đến với chúng ta, vì không lẽ dân VN sống mãi trong đêm tăm tối dài vô tận. Trời chưa kịp sáng, nhưng vầng ô đã bắt đầu lố dạng ở chân trời.
27 Tháng Hai 2012(Xem: 20442)
Mỗi khi viết xong một ca khúc, ông Khánh thường tự tay mang lên Đài phát thanh Hà Nội rồi tự hát: Yêu ai, yêu cả một đời. Tình những quá khắt khe khiến cho đời ta. Đau tủi cả lòng, vì yêu ai mà lòng hằng nhớ...” (Nỗi lòng). Rồi “…Lời thề nguyền ngờ đâu xa vắng. Tình tràn đầy sầu chung non nước. Hồn em có cùng người chứng minh. Anh bước ra đi luyến tiếc hoài. Đời còn có em nay là thôi... (Chiều vàng).
26 Tháng Hai 2012(Xem: 46461)
Tôi thấy anh đã quyết định đúng, và thấy thanh thản cho anh ấy!” bà chia sẻ. Rồi bà mơ màng như nói cho một mình nghe: “Chế độ nào thì rồi cũng phải qua đi, nhưng đất nước muôn đời vẫn là đất nước mình. Cuối cùng anh đã về được với quê hương.”
22 Tháng Hai 2012(Xem: 18568)
Thằng chó chết. Cái tình bạn của mầy, còn quý gấp trăm ngàn lần gói tiền nầy. Tao sẽ làm mâm cơm cúng bà Tư Cháo Trắng, nói cho bà biết cái tình bạn của mày. Dưới suối vàng, chắc bà cảm động lắm.”
22 Tháng Hai 2012(Xem: 22890)
Tình yêu vợ chồng là như cây nho, càng đâm rễ sâu trong vùng đất có nhiều sỏi đá, thì càng sản xuất được nhiều rượu ngon. Tình yêu vợ chồng là như một thân cây mà rễ của nó có đâm sâu dưới đất đá, thì mới đứng vững được trước những sóng gió và giông bão của cuộc đời.
21 Tháng Hai 2012(Xem: 17888)
Mấy bài thơ này, với tôi, khá tiêu biểu cho thế giới thơ Nguyễn Tất Nhiên. Bài “Nhớ nội” gợi lên trong ta những hình ảnh hiền hòa, trung hậu đậm đặc tâm hồn muôn thuở con người Viêt Nam, đất nước Việt Nam. Hai bài “Cứ ngỡ như là mới nhớ thôi”, “Chở em đi học trường đêm” nói lên mối tình e ấp ngu ngơ của đôi trẻ vào cái thời còn là thủa ấy – cũng mới đây thôi
21 Tháng Hai 2012(Xem: 18141)
Bản nhạc « Thà như giọt mưa » là một tình khúc như mọi người đều biết. Thế nhưng từ « tình yêu » chỉ được nhắc đến một lần (Ta hỏng tú tài, ta hụt tình yêu). Và nó cũng chỉ được sử dụng theo nghĩa thông dụng, như khi ta nói cái bằng tú tài, cái nhà, cái tủ…
21 Tháng Hai 2012(Xem: 19037)
Bài viết này chỉ muốn nói lên sự giao cảm và đồng cảm của bản thân người viết với con người thơ, thế giới thơ Nguyễn Tất Nhiên : qua tiếp xúc với một bài thơ được phổ nhạc, người viết, bằng những cảm nghiệm riêng, đã nghe dội lên trong tâm thức những âm vang nào để, từ đó, dẫn đến một vài suy tư tản mạn liên quan đến nhiều lãnh vực trong cuộc sống.
16 Tháng Hai 2012(Xem: 20488)
Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà .... Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai ....
15 Tháng Hai 2012(Xem: 20645)
Nếu hiểu từ Giặc là: Kẻ tổ chức thành nhóm có vũ khí hay một lực lượng vũ trang (nào đó) chuyên đi cướp phá, làm rối loạn an ninh, gây tai họa cho dân chúng cả một vùng hay một nước... Thì, giặc ở đây chính là bọn CS Bắc Việt và Việt Cộng miền Nam khi chúng ta trở lại thời điểm cũ của ngày 13 tháng 3 năm 1972
14 Tháng Hai 2012(Xem: 24079)
Trang báo đang hiện ra dưới mắt bạn là thành quả của biết bao lao tâm khổ tứ, biết bao nhẫn nhục, chịu đựng chỉ vì những người làm ra nó yêu Nghệ thuật và yêu bạn mà gửi tới cho bạn. Họ sẽ chẳng mong bạn đền đáp nhưng họ nghĩ, một khi bạn đọc được tâm tư của họ (tác giả) bạn sẽ rút ra được điều gì đó có ích lợi cho chính bạn hoặc cho cả những người xung quanh, mạnh mẽ hơn, cho nhân quần xã hội.
13 Tháng Hai 2012(Xem: 19833)
Tôi xin được cám ơn anh Ray, chị Thuần và chị bạn người mảnh khảnh nhưng nhanh nhẹn,dịu dàng cho tôi viếng thăm” Lâu Đài Tình Yêu “ nguy nga cổ kính , biết mối tình tuyệt đẹp của người xưa. Chúc các chi em gặp người bạn đời chung thùy, các bậc nam nhi có vợ hiền, đảm đang và tất cả mọi người vui hưởng Ngày Lễ Tình Yêu thật thú vị , đầm ấm.
12 Tháng Hai 2012(Xem: 20489)
Cánh dù lộng gió muôn phương Vào lòng đất mẹ, máu xương ngậm ngùi Tay khô đốt sáng đỉnh trời Lập loè đốm lửa, thắp đời quạnh hiu.
02 Tháng Hai 2012(Xem: 19671)
Tháng 7/75, khi mọi người vẫn còn đang ngơ ngác, chưa kịp hoàn hồn trước bao thù hận, mất mát chia lìa, thì ở khu làng biển nghèo Bá Hà, một cậu bé 15 tuổi lại ngỡ ngàng trước một tin vui - có mẹ. Khi bà ngoại dắt Hưng vào nhà và chỉ một người đàn bà xa lạ, bảo đó là mẹ mình.
31 Tháng Giêng 2012(Xem: 18474)
Sàigòn thời chiến tranh, có biết bao biến động lịch sử xảy ra trên vùng đất quê hương này. Ấy thế mà mỗi khi chúng ta nhớ lại những kỷ niệm ở Saigon, những lề đường Saigòn chúng ta cứ như nhớ về một vùng đất nước thanh bình, thời vàng son của một đời người trong một xã hội ổn định. Nhớ về Sàigòn, nhớ đến sông Sàigòn như giải khăn sô vắt ngang vầng trán, đêm đêm chảy vào lòng người Sàigòn xa xứ./.
30 Tháng Giêng 2012(Xem: 19377)
Mời xem câu chuyện dưới đây, 1 câu chuyện rất có ý nghĩa, có thể nói đặc biệt dành cho những người đã từng vượt biển, đánh đổi chính mạnh sống của mình để đi tìm tự do..."Freedom isn't Free"... trong giờ phút giữa cái sống mõng manh và sự chết cận kề...
27 Tháng Giêng 2012(Xem: 18744)
Tưởng niệm Cố TT Trần Văn Hương , chúng ta tưởng niệm một con dân nước Việt sống trong một giai đoạn Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam chìm đắm trong nô lệ thực dân và chiến tranh tàn khốc do bọn Việt Cộng chủ trương xâm chiếm VNCH trong gần trọn thế kỹ trước , đã tự thân phấn đấu vượt lên những nỗi nghèo khó nhọc nhằn của thời niên thiếu
26 Tháng Giêng 2012(Xem: 19065)
Cụ Trần Văn Hương mất ngày 27 tháng 1 năm 1982 tại Sài Gòn. Cụ mất đi để lại cho chúng ta nhiều tiếc nuối. Hôm nay nhân ngày lễ tưởng niệm Cụ, tôi xin chia xẻ vài suy nghĩ về Cụ:
17 Tháng Giêng 2012(Xem: 18513)
Bài này xin được làm bó nhang thứ 2 góp giỗ cho những cái chết oan ức kinh hoàng trong chiến dịch thảm sát của Việt Cọng tại Huế 1968 có tên trong bài tường thuật của Elje Vannema
16 Tháng Giêng 2012(Xem: 21126)
Có bao nhiêu người đã cắt đứt mối quan hệ hay đi đến ly dị bởi vì họ nhìn thấy “hai viên gạch xấu”? Bao nhiêu người trong chúng ta đây đã từng thất vọng, thậm chí nghĩ đến việc tự tử, chỉ vì thấy trong ta “hai viên gạch xấu”?
13 Tháng Giêng 2012(Xem: 20695)
Khi miền Nam mở mặt trận Lam Sơn 119 đánh qua Hạ Lào thì phía Hoa Kỳ cấm máy bay Mỹ chở phóng viên vượt biên. Bốn anh nhà báo Mỹ bèn tìm cách đi máy bay của không quân Việt Nam
13 Tháng Giêng 2012(Xem: 20568)
“Thưa bà, bà giúp tôi hiểu được thế nào là Nhân, thế nào là Cách. Căn nhà đó là tiền công mà bà đã dạy cho tôi”. Người phụ nữ nói: “Vậy thì ông đem căn nhà ấy tặng cho người nào không còn cánh tay nào cả !”.
10 Tháng Giêng 2012(Xem: 19585)
Này, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan …Những người dân đó có tội gì mà lũ bây giết một cách dã man như vậy? Hãy nói, viết, lên sự thật. Những sự thật như những nén nhang, ngọn đèn góp giỗ cho những oan hồn của Huế
09 Tháng Giêng 2012(Xem: 19729)
Đó là chỗ căn bản tôi muốn chỉ cho tất cả Tăng Ni, Phật tử nhân ngày đầu năm. Những gì tôi thấy biết đều chỉ cho quí vị thấy biết và ứng dụng tu, sau này không trách rằng việc tu đơn giản như vậy sao Thầy không chỉ thẳng? Mong tất cả nghe nhận thấu đáo, ứng dụng tu được kết quả viên mãn.
07 Tháng Giêng 2012(Xem: 20057)
"Không có ai trong mộ này. Cái còn lại trong đó chỉ là những mảnh xương khô, thực sự không là gì cả, phần năng lực tinh thần hiện nay đang ở trong tôi."
07 Tháng Giêng 2012(Xem: 18258)
Những giọt mưa trên tóc hai cô đầm trước mặt vẫn lấp lánh dưới ánh đèn trong bar càng gợi lại hình ảnh Kim trong lần đụt mưa hồi đó với những giọt mưa trên tóc, rõ ràng như Nghĩa đang nhìn bây giờ. Vậy mà bây giờ….
06 Tháng Giêng 2012(Xem: 19354)
Từ thị xã Tây Ninh khoảng 8-9 cây số là đến núi Bà Đen, có độ cao 986m, được xem là nơi cao nhất của Nam Kỳ. Núi Bà Đen là điểm kết thúc của dãy Trường Sơn, như con rồng uốn khúc che chở Việt Nam, đến Tây Ninh là phần đuôi rồng, và ẩn hiện Thất Sơn là những phần cuối cùng của long mạch Việt Nam, sanh chín cửa Cửu Long.
05 Tháng Giêng 2012(Xem: 19740)
Một cô gái bất hạnh nào đó đã lặng lẽ bỏ con còn đỏ hỏn lại bệnh viện. Một người đàn ông nhìn xác bé thơ vô tội nằm lạnh lẽo đã xin bệnh viện được giải quyết hậu sự cho bé.
28 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 18488)
Ngày nay ở xứ người, mỗi dịp Noel, nghe tiếng chuông giáo đường ngân vang, nghe nhạc khúc Đêm Thánh Vô Cùng, tôi bồi hồi nhớ lại chuyện cũ năm xưa. Hồi đó sao mà người nghệ sĩ lại có thể thương mến nhau một cách rất chân tình như vậy.
25 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 18110)
những câu chuyện xoay quanh Lễ Giáng sinh đã được tích lũy nhiều đến nỗi có thể gom thành một pho sách dày. Tuy nhiên, cái hay của những câu chuyện Giáng sinh là người ta có thể kể đi kể lại và nghe đi nghe lại hoài mà không thấy chán