6:52 SA
Thứ Năm
25
Tháng Tư
2024

MỘT CON NGƯỜI LẶNG LẼ - TRẦN DUY NHIÊN

24 Tháng Hai 201412:00 SA(Xem: 11827)

Nguyễn Viết Chung và Tiếng Gọi của Chân Thiện Mỹ

cố GS. Trần duy Nhiên

Một con người lặng lẽ.

hysinh-large-contentTháng 04 năm 2002, linh mục Nguyễn Ngọc Sơn phối hợp với Viện Y Học Dân Tộc Thành Phố tổ chức một khóa huấn luyện cho những người thiện chí xung phong chăm sóc người nghiện ma túy. Tôi để ý đến một người trung niên khắc khổ, lặng lẽ theo dõi chăm chú và cặm cụi ghi chép những bài học về lý thuyết và chữa trị theo phương pháp cổ truyền do các bác sĩ đông y của Viện Y Học giảng dạy. Tôi hỏi một nữ tu trong ban tổ chức xem người ấy là ai. Câu trả lời làm tôi ngỡ ngàng: Đó là bác sĩ tây y Nguyễn Viết Chung, một chuyên viên về ký sinh trùng và da liễu.
Hai tháng sau, cũng tại Viện Y Học Dân Tộc, cha Sơn tổ chức một khóa cai nghiện mang tên là Khóa Phục Sinh. Các bác sĩ của Viện phụ trách phần chữa trị thể lý. Các linh mục, tu sĩ và một vài giáo dân đến giúp phần củng cố tâm linh. Một hôm, tôi đến dự giờ cầu nguyện buổi tối do một nữ giáo dân hướng dẫn. Sau phần trình bày lý thuyết, vị ấy yêu cầu những ai thấy cần được đặt tay cầu nguyện thì hãy bước lên. Bác sĩ Chung cũng là một người theo giúp khóa ấy. Ông bước đến đầu tiên, quì xuống trước mặt người giáo dân kia, xin đặt tay cầu nguyện cho mình. Cử chỉ khiêm nhường này làm cho nữ tu phụ trách nhóm cai nghiện cảm động nói với tôi: Thầy Chung là phó tế sắp được thụ phong trong một ngày gần đây.
Cuối năm 2002, tôi được dòng Vinh Sơn mời đến dạy tiếng Pháp cho một số thầy chuẩn bị đi học thần học ở nước ngoài. Tại đây tôi gặp lại thầy phó tế bác sĩ Chung. Thế rồi qua những chia sẻ khiêm tốn nhưng đầy chân tình, tôi biết được chiều kích cao vời của một con người mờ nhạt, thậm chí điên rồ, nếu ta nhìn với cặp mắt của xã hội ngày nay. Sau đây là hành trình của một tâm hồn qua những chặng đường hiếm thấy.

Hoàn cảnh và ước mơ.

 Khi nói về cuộc di cư năm 1954, người ta nghĩ đến gần một triệu tín hữu công giáo đành rời quê cha đất tổ để đi vào Nam với hai bàn tay trắng hầu tìm một nơi có thể tự do biểu lộ đức tin của mình. Thanh niên Nguyễn Viết Chương vào Nam không vì lý do ấy. Anh không phải là Kitô hữu, và tôn giáo không bao giờ là một vấn đề đối với anh. Như mọi người thuộc giai cấp nông dân thất học và nghèo xơ nghèo xác trong làng mình, anh Chương chỉ có một cái đạo duy nhất, ấy là ‘đạo làm người’ theo truyền thống Việt Nam. Nếu ai hỏi anh theo đạo nào, anh bảo rằng anh theo đạo ông bà, mà không thắc mắc xem ‘đạo ông bà’ có nghĩa là gì một cách cụ thể: đấy có thể là đạo mà ông bà đã theo và truyền lại, hoặc đấy cũng có thể là đạo thờ cúng ông bà tổ tiên. Năm 26 tuổi, nhân biến cố 1954, anh Chương rời thôn Ngô Xá, huyện Ý Yên, Tỉnh Nam Định, dẫn vợ con đi theo bà cô vào Nam với hy vọng tìm một con đường thoát ra cảnh nghèo túng, cái túng thiếu cơ cực khiến cho chị Chương phải mất đi đứa con thứ hai và thứ ba khi chúng mới chào đời. Anh cảm thấy hài lòng khi được nhận làm một bình nhì trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, dù bị chuyển lên vùng cao nguyên để đóng quân tại Trạm Hành, nơi vòng đai Dalat, cách trung tâm thị trấn 12 cây số. Năm 1955, người con thứ tư ra đời tại đây. Anh đặt cho con một cái tên gần giống như tên mình: Nguyễn Viết Chung.
 Chung không còn nhớ gì về miền núi nơi mình sinh ra, vì năm 1960 cha cậu đã chuyển về Saigon để phục vụ trong một đơn vị không tác chiến. Khi vừa có trí khôn, cậu bé Chung phải đối diện ngay với thảm cảnh của một gia đình nghèo. Đồng lương của một quân nhân cấp hạ sĩ chỉ vừa đủ cho hai vợ chồng và bốn đứa con sống lây lất qua ngày chứ không thể nào có một cuộc sống cho ra sống. Bà Chương là một người phụ nữ bình dân mù chữ, hằng ngày chỉ biết thắp nhang lên bàn thờ van vái ơn trên phù hộ cho chồng cho con. Ông Chương là một người sống rất đúng với đạo đức truyền thống và tôn trọng các phẩm chất trung nghĩa lễ trí tín. Tuy nhiên cái nghèo đã khiến ông trở nên một người cộc cằn, vì thế không ít lần ông đã trút những trận lôi đình xuống vợ con mình. Hình ảnh về ‘mái ấm gia đình’ còn lưu lại trong ký ức tuổi thơ của Chung là nỗi sợ đến khiếp đảm khi phải đứng trong xó nhà chứng kiến cảnh mẹ mình trở thành nạn nhân cho các cơn thịnh nộ của cha. Từ thuở còn là học sinh tiểu học, Chung mơ hồ nghĩ rằng mình sẽ không lập gia đình, vì gia đình đối với cậu là một cái gì khủng khiếp. Cậu sợ gia đình, sợ phải tạo thêm một gia đình bất hạnh.
 Sống trong hoàn cảnh này, trí óc non nớt của cậu nảy sinh một ước mơ kèm theo một quyết tâm: phải học cho thật giỏi để cứu gia đình thoát khỏi cảnh nghèo. Thế là cậu cắm cúi học tập trong những trường công lập hạng 2 ở Saigon. Niên khóa 1970-1971, cậu là một học sinh xuất sắc lớp đệ tứ trường Trung Học Cộng Đồng Quận 6. Sau khi thi đậu trung học đệ nhất cấp, cậu quyết định học ngay lớp đệ nhị mà không theo học đệ tam. Cậu phải làm học bạ giả và ra trường tư mà học. Tuy nhảy lớp nhưng Chung vẫn học giỏi ở lớp đệ nhị và đệ nhất. Cậu đậu tú tài toàn phần năm 1973.
 “Khi nhìn lại quá khứ, tôi thấy chương trình của Chúa thật huyền diệu. Nhờ học nhảy lớp đệ tam mà tôi không bị nhập ngũ theo lệnh tổng động viên 1973, sau ‘Mùa Hè Đỏ Lửa’. Nhờ những cơn thịnh nộ của cha mà đến năm 39 tuổi tôi vẫn còn độc thân để tự do đáp lại tiếng gọi triệt để của Thiên Chúa”.

Tiếng gọi của cái Mỹ.

 Với bằng tú tài trong tay, con đường tương lai bắt đầu hé mở cho cậu thanh niên 18 tuổi Nguyễn Viết Chung. Một ngày mùa hè năm 1973, cậu tình cờ đọc bản tin trên tờ Chính Luận: một giám mục người Pháp vừa qua đời tại trại cùi Di Linh. Vị giám mục ấy là Jean Cassaigne, mà người công giáo gọi với cái tên quen thuộc là Đức Cha Sanh. Ở trang trong, tờ Chính Luận thuật lại vắn gọn cuộc đời của vị giám mục tuyệt vời ấy. Từ thập niên 40, khi được gửi sang Việt Nam, linh mục trẻ Cassaigne chọn một vùng truyền giáo miền núi của dân tộc ít người, khu Djiring hẻo lánh (hiện nay là thị trấn Di Linh) cách xa trung tâm Dalat 80 cây số. Qua những lần viếng thăm mục vụ, cha nhận thấy rằng những ‘người cùi’ thường bị loại ra khỏi làng để sống dở chết dở trong những cánh rừng lân cận, vì thế cha đã thành lập một ngôi làng cho họ và mời các Nữ Tử Bác Ái lên chăm sóc. Làng phung Kala ở Djiring suốt đời sẽ ở trong trái tim cha. Khi giáo phận Việt Nam tách khỏi Cao Miên, cha Cassaigne được tấn phong giám mục tiên khởi địa phận Sàigòn. Năm 1960, khi Hàng Giáo Phẩm Việt Nam được thành lập, ngài trao tòa giám mục Sàigòn lại cho Đức Cha Simon Hòa Hiền rồi trở về sống với anh em của mình là những người phung hủi ở làng Kala. Ngài yêu thương người phung đến độ chia sẻ mọi sự với họ, và để yêu thương đến cùng, ngài chia sẻ cả bệnh tật của họ để chết dần chết mòn trong thân thể đớn đau của một người đã nhiễm bệnh phong.
 Đọc tiểu sử cố giám mục Cassaigne, Chung không để ý đến chức vị của ngài, mà chỉ thấy tấm lòng mênh mông của một mẫu người tuyệt đẹp. Tuổi 18 là tuổi say mê các thần tượng và gửi gắm vào đấy những ước mơ thầm kín chực chấp cánh bay cao. Cái Đẹp trong cuộc sống đức cha Sanh đã biến ngài thành thần tượng của anh. Những thanh niên khác mơ đến tiền tài danh vọng để tìm ra hạnh phúc, còn Chung thì mong tìm hạnh phúc bằng cách sống một cuộc sống có ý nghĩa và chết đi cho những người bất hạnh theo gương của thần tượng mình. Anh quyết định thi vào y khoa: đấy là một nghề có thu nhập cao giúp anh có thể đưa gia đình ra khỏi cảnh túng thiếu, nhưng đồng thời cũng là phương tiện để anh chăm sóc người cùi noi bước đức cha Sanh.

Tiếng gọi của cái Thiện.

 Sau một năm SPCN (Sciences Physiques, Chimiques et Naturelles = Lý Hóa Vạn Vật), Chung thấy ước mơ của mình trở thành viển vông. Việc thi vào y khoa nằm ngoài tầm tay của những người thuộc giai cấp cùng đinh như anh. Anh thấy rõ điều này khi nạp đơn thi tuyển. Hầu hết các sinh viên thi vào y khoa đều là con cháu của các bậc có chức có quyền hay của các doanh nhân giàu sụ. Đa số đã tốt nghiệp từ một trường trung học Pháp hay một trường công lập nổi danh. Xuất thân từ một gia đình mà người cha là trung sĩ nhất, với kiến thức học được từ một trường tư thục vô danh, Chung thấy mình toan làm chuyện đội đá vá trời. Gia đình anh nghĩ rằng anh chạy theo một mục tiêu vượt quá sức mình nên khuyên anh bỏ ý định thi vào y khoa. Thế nhưng anh vẫn kiên trì học ngày học đêm mà trong lòng cứ lo sợ miên man. Nhìn thấy mẹ ngày ngày cầu khẩn những người đã khuất phù hộ cho gia đình, anh bỗng tin vào những điều huyền diệu. Anh lên Lăng Ông Bà Chiểu, thắp nhang khấn vái với cụ Lê Văn Duyệt. Anh thầm mặc cả với cụ: “Xin giúp con đậu vào y khoa. Để đáp lại, con hứa, sau khi trở thành bác sĩ, sẽ phục vụ cho người cùi”. Thế rồi anh đậu vào y khoa ngay lần đầu tiên đi thi, năm 1974. Đối với nhiều người khác, thứ hạng 181/213 hẳn không có gì đáng nói, nhưng đối với bản thân anh và đối với gia đình, đấy là một ảo tưởng đã biến thành sự thật một cách thần kỳ.
 Ngày 04-11-1974, Chung nhập học tại Đại Học Y Khoa, lúc bấy giờ còn mang tên là Trung Tâm Giáo Dục Y khoa Sàigon. Trong những ngày đầu ngỡ ngàng, anh bị thu hút ngay bởi một người Bỉ, giáo sư Marcel Lichtenberger, dạy môn Mô Phôi Học (histologie et embryologie). Ngoài kiến thức uyên bác, giáo sư Lichtenberger còn tỏa ra tư cách của một người thầy khiêm tốn và tận tụy, cứ như thể ông muốn dạy cho học trò mình một cái gì đó vượt lên hẳn những kiến thức y khoa. Chung tìm được lời giải đáp cho những thắc mắc của mình khi tất cả sinh viên năm thứ nhất, dù công giáo hay không, đều được mời dự một thánh lễ gọi là Maccabée tại nhà thờ Jeanne d’Arc, để cầu nguyện hay tỏ lòng nhớ ơn những người hiến xác cho sinh viên thực tập giải phẫu. Chung hiểu được vì sao giáo sư Lichtenberger luôn toát ra một cái gì thanh thoát: linh mục cử hành thánh lễ ngày hôm ấy chính là vị giáo sư khả kính của mình. Mãi sau này Chung mới biết rằng vị giáo sư ấy là một linh mục từng phục vụ ở Trung Hoa rất nhiều năm và gần gũi với những người bệnh mà không ai cứu chữa. Mang con tim nhạy cảm trước các nỗi bất hạnh, linh mục Lichtenberger, với kiến thức y khoa của một y công, đã phải mổ hàng trăm ca mà không có một bằng cấp nào; để rồi năm 44 tuổi, ngài mới về Bỉ học cho hết chương trình bác sĩ trong vòng 4 năm, thay vì 8 năm như mọi sinh viên y khoa khác. Tấm lòng của vị linh mục đã buộc ngài trở thành một bác sĩ thực thụ năm 48 tuổi. Chung chưa hề biết đến điều đó khi ngồi trên ghế đại học y khoa, nhưng nhìn thấy cha Lichtenberger trong áo lễ màu tím xuất thần cầu nguyện trên bàn thờ, Chung cảm nhận rằng thần tượng thứ hai của mình cũng đã đặt nền móng cho cuộc đời ông trên cùng một cội nguồn như thần tượng thứ nhất. Từ cái Mỹ mà anh đọc qua cuộc đời Đức Cha Cassaigne, chàng sinh viên Chung đã nghe được tiếng gọi của cái Thiện xuất phát từ tâm hồn của vị thầy tốt lành này.
 Cái Thiện ấy rất gần mà cũng rất xa đối với anh. Có lần giáo sư Lichtenberger yêu cầu sinh viên điền vào tờ khai báo lý lịch trong đó có một ô ghi: nguyện vọng tương lai của anh (chị). Chung điền vào mọi ô khác một cách nhanh chóng rồi ngồi mãi trước ô ‘nguyện vọng tương lai’ mà không biết phải viết làm sao. Đối với các bạn khác thì không có gì phải suy nghĩ. Khi bước vào y khoa, họ đã có những hoài bão rõ ràng cho ngày mai rồi: trở thành một bác sĩ giỏi, theo học cao hơn ở nước ngoài, có một nơi làm việc xứng đáng, tìm cơ hội để thăng tiến trong nghiệp vụ và trong xã hội con người… Khi hết giờ, Chung nộp tờ khai mà ô nguyện vọng vẫn còn để trống. “Tôi xấu hổ không dám thổ lộ cho giáo sư Lichtenberger biết rằng nguyện vọng tương lai của mình là làm sao trở nên giống như giáo sư”.

Những tháng ngày ray rứt.

 Con đường học vấn tưởng chừng đã êm ả thì biến cố 1975 đến đảo lộn mọi sự. Trường Y Khoa là một trong những trường mở cửa lại sớm nhất sau ngày 30 tháng 04, tuy nhiên đối với Chung, điều kiện tài chính ít ỏi để học tập đã biến mất. Cha anh là một trung sĩ nhất trong chế độ cũ nên không phải đi học tập, nhưng người anh cả từng là trung úy thì đang ở trong trại tập trung cải tạo. Chung không thể nào đang tâm nhìn cha hằng ngày đạp chiếc xích lô vắng khách để nuôi nấng năm đứa con đang lớn như thổi ở nhà. Anh thấy mình vừa có bổn phận phải chia sẻ gánh nặng với cha vừa phải tiếp tục đi học. Hàng đêm, anh thay cha đạp xích lô từ 7 giờ đến 11 giờ khuya. Sau một thời gian, anh không còn sức lực để vừa đi học ban ngày vừa đạp xích lô ban đêm, nên đành phải chấp nhận để cha và em trai mình tìm kế sinh nhai cho cả nhà, còn anh thì theo học để mong tìm một lối ra cho gia đình vào những năm về sau. Ý thức sự thiếu hụt của mọi người, Chung không đòi hỏi một điều gì cả. Đêm đêm, anh xin vào trực bệnh viện mong có cơ hội thực tập qua các trường hợp cấp cứu. Có những đêm phải thức trắng rồi sáng hôm sau không có một đồng dính túi để điểm tâm, anh vào lớp học mà mắt cứ hoa lên vì buồn ngủ và vì đói.
 “Phải trung thành với ý nguyện ban đầu, bằng bất cứ giá nào” … Với quyết tâm ấy, chàng thanh niên Chung mỗi năm lên một lớp cho đến 1978. Bước vào năm thứ năm, mọi sinh viên phải theo một chuyên khoa. Các sinh viên trình lên một bản gồm 3 nguyện vọng. Nhớ ơn người mẹ đã cơ cực qua 9 lần sinh con, mà mỗi lần là một biến cố thập tử nhất sinh, Chung chọn ngành ‘sản khoa’ ở nguyện vọng 1. Trong niên khóa ấy, giáo sư Đạt, một bác sĩ chuyên về nội thần kinh, đã làm cho anh thích thú môn học này, vì thế anh ghi ‘nội thần kinh’ ở nguyện vọng 2. Còn nguyện vọng 3, anh đành ghi ‘da liễu’ để có thể trả lời với cụ Lê Văn Duyệt rằng mình không thất hứa. Ngày nghe tuyên bố về chuyên khoa của mình, Chung hụt hẫng. Anh bị phân vào chuyên khoa ‘ký sinh trùng sốt rét’. Anh chẳng vào được khoa nào trong ba nguyện vọng anh ghi. Suốt hai năm còn lại tại trường Y Khoa, anh sống với tâm trạng đằn vặt của một người thất tín thất trung. Anh tự trách: “Vì mình không trung thành với lời hứa phục vụ người cùi, nên đấng bề trên chuyển mình sang khoa ký sinh trùng để xử phạt về tội bội tín!”

Trả món nợ lương tâm…

 Anh ra trường năm 1980 và được phân công đến Phân Viện Sốt Rét Thành Phố. Quá chán nản với công tác này, anh bỏ nhiệm sở mà về gia đình hành nghề chui, với tư cách là một bác sĩ đến từng gia đình bệnh nhân để chữa trị. Ít ra, anh cũng thực hiện được một trong hai điều mình tự hứa trước kia. Tuy không có phòng mạch như bao nhiêu bác sĩ khác, nhưng được cái là anh dễ mến, mát tay và nhận thù lao tương đối hạ, nên thu nhập cũng tạm đủ để giúp gia đình thoát khỏi cảnh túng thiếu trường kỳ. Cha anh ngưng đạp xích lô. Các em anh có phương tiện học hành hay thực hiện những mong ước của mình. Thế nhưng tự đáy lòng, tiếng trách móc của lương tâm không ngừng dày xéo anh: “Mày là một tên thất trung thất tín!”
 Năm 1984, sau khi cưới vợ gả chồng cho các em, cũng như giúp họ ổn định cuộc sống, Chung quyết định trả cho xong món nợ lương tâm bằng cách bỏ lại mọi sự mà đi chăm sóc cho bệnh nhân cùi. Ý nghĩ đầu tiên là phải phục vụ tại Di Linh, nơi mà thần tượng thứ nhất của anh đã thành lập, đã sống, đã chết và hiện nay mộ phần ngài vẫn còn nằm tại đấy, trơ gan cùng tuế nguyệt như một chứng tích tình yêu. Anh lên trại phong Di Linh xin nữ tu phụ trách cho phép anh làm việc ở đấy. Các nữ tu rất trân trọng ý định của anh nhưng không thể đáp ứng yêu cầu, vì Trại Phong lúc bấy giờ đã trở thành một cơ sở của Nhà Nước mà các nữ tu không có quyền tuyển dụng nhân viên. Anh trở về Trường Y Khoa xin chuyển lên Di Linh. Về mặt hành chánh, nhà trường không thể bổ nhiệm anh vào trại phong mà chỉ có thể chuyển anh lên Sở Y Tế Lâm Đồng. Cầm giấy tờ trong tay, anh trình diện với vị trưởng phòng tổ chức Sở Y Tế và nói lên nguyện vọng được về Trại Phong Di Linh. Bà trưởng phòng ngạc nhiên hỏi:
- Anh có điên không? Hay là anh bị cùi?
-Nếu tôi cùi thì bà đã thấy rồi. Còn có điên hay không thì tôi không biết, nhưng điều tôi biết là tôi mong muốn phục vụ những người cùi.
-Anh sẽ nhận việc tại trạm sốt rét, vì chuyên khoa của anh là ‘ký sinh trùng sốt rét’ chứ không phải là ‘da liễu’.
-Tôi lên đây vì muốn phục vụ tại trại phong Di Linh. Nếu bà không cho phép thì tôi về lại Thành phố chứ không làm việc ở bất cứ nơi nào khác.
 Về lại Saigon, anh tìm cách thực hiện lời hứa cho bằng được. Không thể nào phục vụ người phong nếu thiếu chuyên khoa da liễu, nên anh xin làm một nơi gần Saigon để có cơ hội bổ túc về chuyên khoa. Ngày 01-07-1986, anh bắt đầu nhận việc tại Trạm Sốt Rét Đồng Nai, trong khi chờ đợi cơ hội. Sau 3 năm làm việc tại đấy, cơ hội đã đưa anh đến Bệnh Viện Da Liễu Thành phố. Tại đấy, anh vừa phục vụ vừa học chuyên khoa với điều kiện sau này phải chăm sóc người phong của Thành Phố, nghĩa là làm việc tại trại phong Bến Sắn.

Tiếng gọi của cái Chân.

 Năm 1992, anh xuống Bến Sắn để nhận nhiệm sở mới. Thế là mãn nguyện. Ước mơ tuổi thanh niên đã trở thành hiện thực. Từ sáng thứ hai đến trưa thứ sáu, anh làm việc tại trại phong Bến Sắn để bước cùng nhịp với các thần tượng hầu trung thành với lời hứa của mình. Từ tối thứ sáu đến chiều chủ nhật, anh về Saigon làm bác sĩ tại gia để tìm một ít thu nhập cho cha mẹ sống qua tuần. Cuộc đời anh dường như đã tới đích, anh không còn ước mơ gì nữa.
 Thế nhưng anh lại phải đối diện với những vấn đề mới của cuộc sống. Tại trại phong, anh thấy mình sống ở giữa hai nhóm người hoàn toàn trái ngược trong thái độ hành xử. Nhóm thứ nhất gồm những người thiện chí, mà đa số là các Nữ Tử Bác Ái, chỉ sống tất cả cho bệnh nhân; nhóm thứ hai gồm một số người nghĩ đến tư lợi của mình nhiều hơn là lợi ích người bệnh. Với tư cách là trưởng phòng y vụ, bác sĩ Chung được nhóm thứ hai săn đón để lôi kéo về phe mình, nhưng anh lại bị cuốn hút bởi nhóm thứ nhất, vì qua họ anh hầu như chạm được cái Chân tiềm tàng nơi những người mà anh từng đặt làm khuôn mẫu cho cuộc đời mình: Giám mục Cassaigne và linh mục Lichtenberger. Chính các nữ tu này đã khiến cuộc đời anh dứt khoát rẽ qua một bước ngoặt triệt để.
“Tôi còn nhớ sự kiện sau đây. Có lần hai anh em người Pháp đều là linh mục đưa một bác sĩ cũng quốc tịch Pháp đến cưa chân cho một số bệnh nhân tại trại phong Bến Sắn. Vết thương của một người bị nhiễm trùng, nên anh đã lớn tiếng với tôi: “Ông dùng tôi làm con vật thí nghiệm!”. Tôi quá tức giận nên đã nặng lời với anh. Một xơ cao niên chứng kiến cảnh này mà không nói một lời nào. Vài ngày sau, khi mọi chuyện đã êm, xơ nhẹ nhàng bảo tôi:
Bác sĩ Chung à, bệnh nhân đau chứ bác sĩ có đau đâu! Anh ấy bị cưa chân chứ bác sĩ có bị cưa chân đâu! Những gì bác sĩ làm cho bệnh nhân, bác sĩ đừng cho là nhiều rồi. Những điều bác sĩ làm cho họ không đền bù được nỗi đau cả đời của họ đâu!
Tôi bỗng thấy nơi xơ cao niên ấy một sức mạnh tinh thần họa hiếm. Ai đã giúp cho xơ có được lòng quảng đại thanh thản như thế? Chắc là Chúa của xơ. Nếu Chúa của xơ có thể ban cho xơ một sức mạnh như thế, thì Ngài cũng phải là Chúa của tôi!” 
Ý nghĩ rằng Chúa của các Nữ Tử Bác Ái cũng có thể là Chúa của mình vừa làm cho anh vui, vừa làm anh e ngại. Lời dặn dò của mẹ, từ thuở anh còn là một cậu bé tiểu học cư ngụ trong xóm đạo, cứ văng vẳng bên tai: “Chung không được đi đạo nhé. Người công giáo kỳ cục lắm, cứ dụ người ta theo đạo. Đạo ai nấy giữ chứ!”.
 Quả là những người công giáo ở đây thật kỳ cục. Nhất là nữ tu công giáo. Nhưng kỳ cục không phải vì họ dụ dỗ anh theo đạo, mà vì họ sống trên đời nhưng không bao giờ nghĩ đến bản thân mình. Một trong các nữ tu mà anh có cơ may cộng tác một thời gian ngắn là xơ Maria Phạm Thị Ngọc Loan, được mọi người trong trại gọi với cái tên thân thương là Dì Hai. Khi bác sĩ Chung về trại phong, Dì Hai đang ở đấy với hai tư cách: Phó Giám Đốc trại phong và Xơ Phục Vụ (soeur servante = dì bề trên) cộng đoàn Nữ Tử Bác Ái Bến Sắn. Anh nghe kể lại rằng Dì Hai về đây năm 1976, lúc mà chế độ chăm sóc các bệnh nhân phong hầu như không có gì, trong khi những nhân viên mới đổi tới lấy hết cái này đến cái nọ trong trại về làm của riêng. Dì đã phải đứng ra bảo vệ cho bệnh nhân và cỡi chiếc gắn máy tồi tàn chạy bằng xăng pha dầu lửa về thành phố mỗi tuần nhiều lần hầu tìm nguồn lương thực cho họ, đồng thời kêu gọi và đưa về Bến Sắn những bệnh nhân bỏ trại lên sống vất va vất vưởng trên vỉa hè Sàigòn. Tim của Dì đập theo từng nhịp của con tim bệnh nhân trong vòng 17 năm trường, để rồi ngưng lại khi người ta phát hiện quá muộn bệnh ung thư trong hình hài của Dì. Dì sợ rằng cho biết sớm thì nhà dòng sẽ cấm dì tiếp tục phục vụ bệnh nhân phong: Dì đã hy sinh mạng sống mình cho họ, theo nghĩa đen.
“Hôm ấy chúng tôi sắp đi công tác từ TP . Biết rằng Dì Hai đang ở vào những giờ phút cuối đời, tôi ghé lại 36 Tú Xương để chào từ biệt. Tôi nói:
Dì Hai à, chút xíu nữa đây, con với bác sĩ Quang và chị Bích Vân sẽ lên trại phong Di Linh mổ mắt cho bệnh nhân trên ấy.
 Nghe tôi nói, đôi môi héo hắt của Dì Hai thoáng nở một nụ cười. Tôi bước ra ngoài chờ xe. Xe chậm đến. Nghĩ rằng đây có lẽ là lần cuối cùng còn gặp mặt Dì Hai, nên tôi luyến tiếc trở lại một vài phút cạnh Dì. Nghe tiếng chân tôi vào, Dì Hai hé mở mắt, nhìn thấy tôi, mấp máy đôi môi để nói lên một điều gì. Sơ chăm sóc ghé tai vào miệng Dì lắng nghe, rồi lặp lại cho tôi: “Chung – Dì Hai hỏi – tại sao chưa đi?” Thế đấy! Đến giây phút cuối cùng của cuộc đời, Dì Hai vẫn không nghĩ gì đến mình, mà chỉ nghĩ đến bệnh nhân. Không chỉ là bệnh nhân tại Bến Sắn mà còn cả bệnh nhân tại Di Linh nữa!”

Một bước ngoặt triệt để.

 Chung! Tại sao chưa đi?
 Vâng, đã đến lúc bác sĩ Chung quyết định đi đạo, đi theo con đường mà Dì Hai Loan đã từng đi. Sau đám tang của Dì Hai, anh đến gặp Dì Camille Hạnh, giám tỉnh dòng Nữ Tử Bác Ái, và trình lên ý nguyện đi tu để sống trọn vẹn cho bệnh nhân giống như các dì. Dì Hạnh thông cảm từ thâm sâu mong ước của anh, vì dì cũng từng là một người chịu phép rửa vào tuổi trưởng thành trước khi dâng hiến trọn đời mình cho Chúa với tư cách nữ tu. Trong thời gian này, cha bề trên tổng quyền Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn đang có mặt tại Saigon (Thánh Vinh Sơn Phaolô cũng là vị sáng lập dòng Nữ Tử Bác Ái), nên Dì Hạnh đã đứng ra bảo lãnh và xin ngài nhận anh vào dòng Truyền Giáo. Cha tổng quyền chấp thuận nhưng bảo rằng chỉ nhận vào dòng sau khi anh học đạo và chịu bí tích thánh tẩy. Lúc bấy giờ anh chưa có khái niệm gì rõ ràng về Thiên Chúa. Điều duy nhất anh biết: Ngài phải là cội nguổn của Chân Thiện Mỹ, bởi vì Ngài là Thiên Chúa của những con người sống cuộc đời chân thật, tốt lành và tuyệt đẹp. Vì thế, anh không do dự mảy may: Chúa của Đức Cha Cassaigne, của Cha Lichtenberger, của Dì Hai Loan, sẽ là Chúa của anh. Chỉ còn một vướng mắc nhỏ: cha mẹ anh nghĩ sao? Anh trình với song thân và hai vị bảo:
“Con đã lớn nên toàn quyền chọn con đường có ý nghĩa nhất cho đời mình; các em con cũng đã lớn, chúng có thể chăm sóc cha mẹ, con đừng lo.”
 Ngày 28-08-1993, hai mươi năm sau bài báo của Chính Luận, bác sĩ Chung đến dòng Tên tại Bình Dương gặp cha Hoàng Văn Đạt xin học giáo lý tân tòng. Cha vui mừng báo anh hay rằng ngày hôm ấy Giáo Hội mừng lễ thánh Âu Tinh, một người đã chịu phép rửa khi đang là một giáo sư lỗi lạc tại Rôma, để rồi trở thành một linh mục và một giám mục thánh thiện và uyên bác tại Hippone, một thành phố Châu Phi. Để đánh dấu cho bước ngoặt đáng ghi nhớ này, anh chọn thánh Âu Tinh làm quan thầy mình. Âu Tinh Nguyễn Viết Chung lãnh nhận bí tích thanh tẩy từ tay cha chính xứ Bến Sắn, linh mục Trần Thế Thuận, ngày 15-05-1994, tại nhà nguyện Trại Phong Bến Sắn.
 Ngày 15-09-1994, anh trở lên Đalat, nhưng lần này không phải đến Sở Y Tế xin phục vụ người phong, mà đến 40 Trần Phú, trụ sở dòng Truyền Giáo Vinh Sơn, để khởi sự tập luyện cuộc sống quên mình trọn vẹn. Muốn thời gian tìm hiểu không gây trở ngại cho tương lai của bác sĩ Chung, nếu ơn gọi linh mục không phải là con đường Chúa dành cho anh, bề trên Tu Hội Truyền Giáo tại Việt Nam đề nghị anh làm quen với nếp sống tu trì tại Túc Trưng. Suốt một năm ròng, mỗi tháng bác sĩ Chung làm việc 3 tuần liên tục ở Bến Sắn, và dành trọn tuần thứ tư để sống tại nhà dòng Túc Trưng. Trong thời gian thử thách này, anh đã chu toàn đúng mức hai vai trò trái ngược của mình: Bác sĩ trưởng tại Trại Phong và em út trong cộng đoàn Vinh Sơn. Sau một năm, bề trên thấy rằng đã đến lúc anh bỏ vai trưởng để chỉ còn sống trong vai út. Anh xin nghỉ việc tại Trại Phong Bến Sắn và chính thức gia nhập Tu Hội Truyền Giáo ngày 01-06-1995.
 Thời gian nhà tập hẳn không dễ dàng gì cho một người đã công thành danh toại rồi một sớm một chiều trở nên ‘lính mới’ phải vâng phục mọi người, trong số đó có những thầy bằng nửa số tuổi của anh. Thế nhưng bác sĩ Chung biểu hiện tư cách của một con người đã thực sự tự hủy theo gương Chúa Kitô. Các thầy cùng thời với anh chân thành thổ lộ: “Anh Chung luôn là một mẫu gương khiêm nhường cho tất cả chúng em.” 
 Nhà dòng cho phép tu sĩ Chung học dồn chương trình triết học trong vòng một năm, để rồi khởi sự 4 năm thần học kể từ năm 1997. Ngày 25-03-2003, Giáo Hội trao thừa tác vụ linh mục cho thầy Âu Tinh Nguyễn Viết Chung, qua lễ đặt tay của Đức Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống, tại nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Thành phố.

Hành trình của một cuộc đời.

 Hành trình của một cậu bé sợ hãi trong xó nhà đã kết thúc nơi bàn thánh. Một người khởi hành trong cái nghèo khó bị áp đặt, đi cả một vòng đời, rồi đến đích trong sự khó nghèo tự nguyện. Một người đi từ nỗi bất hạnh vì phải nghèo đến niềm hạnh phúc được sống nghèo. Một người suốt đời mang trong mình tiếng gọi: Phải trung thành! Và nhờ lòng trung thành ấy mà linh mục Nguyễn Viết Chung nhận được Tin Mừng Cứu Độ, không phải qua những lời rao giảng, mà qua hành động cụ thể của những con người, để rồi từng buớc nghe được cái Mỹ, thấy được cái Thiện, chạm được cái Chân xuất phát từ Chúa Kitô, Đấng Tình Yêu muôn đời tận hiến.
 “Nếu tôi có một lời để nhắn nhủ với người trẻ hôm nay, thì tôi chỉ nói với họ điều này: Khi bạn phải sống trong hoàn cảnh của một người nghèo, bạn cần nỗ lực ban đầu để vượt qua, nhưng hãy nhớ rằng mình luôn có những vấp váp. Rồi một ngày nào đó bạn sẽ thấy rằng tiền không phải là trên hết. Điều làm cho cuộc đời mình có ý nghĩa, ấy là phải trung thành. Tôi đã từng bất trung. Và đã phải thông qua những kinh nghiệm chua chát.”
“…Tôi còn nhớ hôm cha tổng quyền chấp thuận cho tôi nhập dòng Vinh Sơn là ngày thứ bảy. Qua hôm sau, ngày chúa nhật, các cha Dòng Camillo mở diễn đàn kêu gọi các thanh niên dâng hiến đời mình với tư cách là bác sĩ linh mục. Đây là đặc sủng của dòng ấy, và lời kêu gọi này rất phù hợp với tôi. Thế nhưng tôi đã trốn không tham dự, vì muốn trung thành với Tu Hội Vinh Sơn. Tôi đã biết thế nào là giá phải trả cho sự bất trung rồi.”
 Con đường của bác sĩ Chung tưởng chừng như kết thúc tại cung thánh khi lãnh nhận chức linh mục. Tuy nhiên, từ nơi ấy lại khởi đầu cho một hành trình mới. Bác sĩ Chung trở lại với những bệnh nhân Aids ở Mai Hòa, với những người nghiện ma túy ở nhiều tổ chức và trung tâm khác nhau… Nhưng lần này, qua việc chữa trị thân xác, linh mục Chung còn đem lại cho họ bình an tâm hồn, một niềm bình an xuất phát từ Thiên Chúa của những người mình ngưỡng mộ và cảm phục, mà giờ đây đã trở thành Thiên Chúa của chính mình. Với chức linh mục, bác sĩ Chung làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa không chỉ bằng nghiệp vụ và tác vụ, mà còn bằng cả đời sống của bản thân mình.
Nhìn lại con đường đã qua, bác sĩ Chung thường xuyên lặp lại phương châm mình đã chọn cho ngày thụ phong:
“Tạ ơn Chúa, Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.”
Và nhìn vào ngày mai, linh mục Chung không ngừng trung thành cam kết:
“Điều khấn hứa cùng Ngài, con xin giữ trọn.” 

 Con đường Chúa đã dẫn đi…

 Thiên Chúa đã đến trong cuộc đời Nguyễn Viết Chung bằng những bước đi nhè nhẹ. Nhưng mỗi lần Ngài đến là Ngài để lại dấu ấn sâu sắc trong một tâm hồn biết lắng nghe. Giữa bao nhiêu thần tượng trên thế gian, Nguyễn Viết Chung biết chắt lọc một vài khuôn mẫu định hướng cho cuộc đời mình: Đức Cha Cassaigne, Cha Lichtenberger, Dì Hai Loan… đấy là chưa kể đến nhiều người khác, trong đó có thân mẫu của mình, một người mẹ đã suốt đời âm thầm chịu đựng cho đến khi mù lòa. Giữa các gương mặt ấy, có một nhân vật gần giống như Nguyễn Viết Chung: Linh Mục Bác Sĩ Marcel Lichtenberger. Thế nhưng con đường Chúa dẫn hai vị đi thì hoàn toàn trái ngược nhau. Năm 25 tuổi, cha Lichtenberger bị tình yêu Thiên Chúa thúc bách phải đến với những con người bất hạnh tại Trung Hoa; và trước những thương tích của Chúa Kitô thể hiện trên hình hài các bệnh nhân, cha đã trở về ngồi lại trên ghế nhà trường để rồi trở thành một bác sĩ năm 48 tuổi. Ngược lại, Nguyễn Viết Chung tốt nghiệp bác sĩ năm 25 tuổi, thế rồi vì muốn chia sẻ trọn vẹn sự khốn cùng của bệnh nhân nên rốt cục đã gặp Chúa Kitô chịu đóng đinh trong những con người bất hạnh, và điều này khiến cho vị bác sĩ tận tâm kia từ bỏ mọi sự để trở thành linh mục của Chúa vào tuổi 48. Một linh mục trở thành bác sĩ đã là đèn soi cho một bác sĩ trở thành linh mục. Hành trình trái ngược của hai linh mục bác sĩ này bộc lộ cho chúng ta một chân lý. Ai đến với Thiên Chúa một cách chân thật và trung thành thì rồi sẽ liên đới với những con người bất hạnh. Và ai liên đới với người cùng khổ một cách chân thật và trung thành thì rồi sẽ gặp được Thiên Chúa từ nơi thâm sâu của lòng mình.
 
 TRẦN DUY NHIÊN
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
24 Tháng Tư 2012(Xem: 19291)
Chúng ta mang theo họ trong hành trang của chuyến ly hương dài và có khi là vô tận. Có khi nào bạn nghĩ đến những người đã khuất, đã rải hương hoa trên con đường chúng ta đang đi không?
24 Tháng Tư 2012(Xem: 21660)
Ra khơi sương khói một chiều Thùy dương rũ bến tiêu điều ven sông Lơ thơ rớt nhẹ men lòng Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang
22 Tháng Tư 2012(Xem: 19265)
VIẾT CHO HƯƠNG HỒN BẠCH NGA – CHO NGƯỜI CHỒNG MỚI ĐÁM HỎI CỦA BẠCH NGA – NGƯỜI CHIẾN BINH THỦY QUÂN LỤC CHIẾN OAI HÙNG ĐÃ HY SINH THÂN MÌNH ĐỂ BẢO VỆ CHO SỰ TỰ DO CỦA MIỀN NAM VIỆT NAM – CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA.
22 Tháng Tư 2012(Xem: 23020)
Thực ra là mình giấu. Không lẽ kể với Muôn lời khấn này: “Chú Mười ơi, ngày xưa chú chửi sai rồi. Đáng lý chú phải chửi là, “Học giỏi cho lắm, bôn ba cho lắm, cũng đi chợ cho vợ mà thôi!”
22 Tháng Tư 2012(Xem: 20557)
Mỗi lần Tháng Tư về, ai trong chúng ta cũng có những hồi tưởng và suy nghĩ khác nhau, phần tôi vẫn ám ảnh bởi những nấm mồ oan khuất gây ra bởi biến cố này, mà thủ phạm không ai khác hơn là những người thắng trận cuối cùng.
21 Tháng Tư 2012(Xem: 19505)
Mẹ Việt Nam ơi, từng bước từng bước chúng con đang hội nhập vào nền văn hóa mới, nhưng cũng từng bước từng bước chúng con đang quên dần tình nghĩa “đồng bào” theo truyền thuyết “con rồng cháu tiên” của hơn bốn ngàn năm văn hiến. Liệu rồi thế hệ con cháu người Việt đang lưu lạc khắp bốn phương trời có còn nhận nhau là anh chị em “máu đỏ da vàng” nữa không?
19 Tháng Tư 2012(Xem: 19583)
Trong thời chiến, bài hát Ngày về thường được phát trên loa phóng thanh, trên trực thăng, trên thuyền bè nhằm kêu gọi những người lầm đường lạc lối hồi chánh, trở về với chính nghĩa, với dân tộc.
15 Tháng Tư 2012(Xem: 20220)
Chúng tôi là những người sanh ra và lớn lên ở miền Nam. Nhờ hạt gạo của đồng bào miền Nam nuôi lớn và trưởng thành từ nền văn hóa và giáo dục khoa học, nhân bản và khai phóng. Chúng tôi có lý tưởng của chúng tôi cũng như các anh có lý tưởng của các anh
15 Tháng Tư 2012(Xem: 20414)
Tuy VC đã cưỡng chiếm được miền Nam gần 37 năm qua, nhưng duới đống tro tàn của quá khứ, vẫn còn âm ỷ các sự kiện nóng bỏng của cận sử VN, trong đó ác nhất là chuyện ‘ Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, tẩu tán 16 tấn vàng y
14 Tháng Tư 2012(Xem: 27381)
Đau đớn nhất là bao giờ khi xem hình, khi đọc những bài viết xong, cuối cùng mình nhận thức rất rõ rệt: đó là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn.Người giết và người bị giết đều mang họ Nguyễn, họ Lê, họ Trần. Ba mười bẩy năm rồi, người ta nói là Việt Nam đã hết chiến tranh
12 Tháng Tư 2012(Xem: 21663)
Vượt biên thất bại hết ba lần, qua lần thứ tư đi thoát, để bây giờ - ba mươi mấy năm sau - ngồi viết mấy dòng nầy nhân ngày 30 tháng tư thứ 37…mà thấy không phải tôi đã từ trên trời rơi xuống, chính mấy thằng cha « cách mạng » mới là từ trên trời rơi xuống !
23 Tháng Ba 2012(Xem: 19730)
Tôi nghe chừng thân mình bay bổng. Khi tôi mở vòng tay, mẹ quay mặt bước đi. Tôi thấy mình quá bất nhẫn, khẽ gọi: “Mẹ!” Bà quay lui, chân vẫn bước, đôi mắt hiền từ. Tôi lúng túng vẫy tay, cố nở nụ cười: “Chào mẹ!”
23 Tháng Ba 2012(Xem: 20497)
Tôi nhìn thấy cảnh một gia đình ấm cúng, “anh chị” âu yếm xưng hô với nhau bằng “bố” và “mẹ”, y như đã là vợ chồng từ thuở đầu đời. Hai tâm hồn lãng tử gặp nhau và dừng lại. Chiều xuân gió lành lạnh, còn chút nắng vàng êm ả.
22 Tháng Ba 2012(Xem: 20904)
Bạn hãy nhìn xuống đi, rồi cũng như tôi, bạn sẽ nhìn thấy Thiên Chúa quì dưới chân bạn từ lâu để khẩn cầu. Xin bạn hãy thương xót Người. Bạn nỡ lòng nào…???
19 Tháng Ba 2012(Xem: 20552)
Than ôi, chỉ vì thằng bé không trả nổi món nợ trứng chiên thời nhỏ mà dù đã chạy sang tới tận nước Mỹ, vẫn không thoát tay cô ả da... bánh mật. Nợ chỉ một miếng trứng chiên mà trả cả một đời.
16 Tháng Ba 2012(Xem: 21659)
vì tất cả chúng ta đều phải chịu trách nhiệm với cuộc sống xung quanh chúng ta, vị thẩm phán đã không chỉ dùng luật pháp mà còn dùng cả trái tim để phán xét.
11 Tháng Ba 2012(Xem: 23977)
Tuy là tui chưa bao giờ đi lính nhưng tui rất thuơng mến mấy anh lính từ hồi còn đi học bằng xe bò. Hôm nay lang thang trên mạng đọc được cái bài này làm tui cảm động quá liền copy mà gởi nhờ đăng lên aihuubienhoa coi như là có chút gì chia sẽ với tác giã và bà mẹ cái nổi đoạn trường ngày đó.
03 Tháng Ba 2012(Xem: 21974)
MÀU TÍM HOA SIM -Truyện ngắn Võ Đình Tuyết đã được đăng trên báo Văn và được diễn đọc trong chương trình "Đọc Truyện Hay" đài Little SaiGon radio Houton, Texas.
02 Tháng Ba 2012(Xem: 21461)
Tôi cảm động quá, nắm chặt tay Thanh, trấn tỉnh mãi mới nói được một câu mà tôi cho là đẹp nhất trong đời tôi: “Anh cũng giữ em bên cạnh anh . . . suốt cuộc đời của anh.”
01 Tháng Ba 2012(Xem: 22744)
Tuần vừa qua, một cuốn phim Đại Hàn ra mắt khán giả Paris, được khen ngợi. Báo Mỹ cũng khen. Tên của phim là : Xuân Hạ Thu Đông ... rồi Xuân (1). Không phải là người sành điện ảnh, đọc tên phim là tôi muốn đi xem ngay vì nên thơ quá.
29 Tháng Hai 2012(Xem: 21153)
Ngày mà nhạc sĩ sáng tác VN được tự do viết nhạc, ngày mà ca sĩ VN được tự do ca hát sẽ đến với chúng ta, vì không lẽ dân VN sống mãi trong đêm tăm tối dài vô tận. Trời chưa kịp sáng, nhưng vầng ô đã bắt đầu lố dạng ở chân trời.
27 Tháng Hai 2012(Xem: 20527)
Mỗi khi viết xong một ca khúc, ông Khánh thường tự tay mang lên Đài phát thanh Hà Nội rồi tự hát: Yêu ai, yêu cả một đời. Tình những quá khắt khe khiến cho đời ta. Đau tủi cả lòng, vì yêu ai mà lòng hằng nhớ...” (Nỗi lòng). Rồi “…Lời thề nguyền ngờ đâu xa vắng. Tình tràn đầy sầu chung non nước. Hồn em có cùng người chứng minh. Anh bước ra đi luyến tiếc hoài. Đời còn có em nay là thôi... (Chiều vàng).
26 Tháng Hai 2012(Xem: 46607)
Tôi thấy anh đã quyết định đúng, và thấy thanh thản cho anh ấy!” bà chia sẻ. Rồi bà mơ màng như nói cho một mình nghe: “Chế độ nào thì rồi cũng phải qua đi, nhưng đất nước muôn đời vẫn là đất nước mình. Cuối cùng anh đã về được với quê hương.”
22 Tháng Hai 2012(Xem: 18656)
Thằng chó chết. Cái tình bạn của mầy, còn quý gấp trăm ngàn lần gói tiền nầy. Tao sẽ làm mâm cơm cúng bà Tư Cháo Trắng, nói cho bà biết cái tình bạn của mày. Dưới suối vàng, chắc bà cảm động lắm.”
22 Tháng Hai 2012(Xem: 23029)
Tình yêu vợ chồng là như cây nho, càng đâm rễ sâu trong vùng đất có nhiều sỏi đá, thì càng sản xuất được nhiều rượu ngon. Tình yêu vợ chồng là như một thân cây mà rễ của nó có đâm sâu dưới đất đá, thì mới đứng vững được trước những sóng gió và giông bão của cuộc đời.
21 Tháng Hai 2012(Xem: 17955)
Mấy bài thơ này, với tôi, khá tiêu biểu cho thế giới thơ Nguyễn Tất Nhiên. Bài “Nhớ nội” gợi lên trong ta những hình ảnh hiền hòa, trung hậu đậm đặc tâm hồn muôn thuở con người Viêt Nam, đất nước Việt Nam. Hai bài “Cứ ngỡ như là mới nhớ thôi”, “Chở em đi học trường đêm” nói lên mối tình e ấp ngu ngơ của đôi trẻ vào cái thời còn là thủa ấy – cũng mới đây thôi
21 Tháng Hai 2012(Xem: 18241)
Bản nhạc « Thà như giọt mưa » là một tình khúc như mọi người đều biết. Thế nhưng từ « tình yêu » chỉ được nhắc đến một lần (Ta hỏng tú tài, ta hụt tình yêu). Và nó cũng chỉ được sử dụng theo nghĩa thông dụng, như khi ta nói cái bằng tú tài, cái nhà, cái tủ…
21 Tháng Hai 2012(Xem: 19134)
Bài viết này chỉ muốn nói lên sự giao cảm và đồng cảm của bản thân người viết với con người thơ, thế giới thơ Nguyễn Tất Nhiên : qua tiếp xúc với một bài thơ được phổ nhạc, người viết, bằng những cảm nghiệm riêng, đã nghe dội lên trong tâm thức những âm vang nào để, từ đó, dẫn đến một vài suy tư tản mạn liên quan đến nhiều lãnh vực trong cuộc sống.
16 Tháng Hai 2012(Xem: 20585)
Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà .... Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc, thì dân tộc ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai ....
15 Tháng Hai 2012(Xem: 20758)
Nếu hiểu từ Giặc là: Kẻ tổ chức thành nhóm có vũ khí hay một lực lượng vũ trang (nào đó) chuyên đi cướp phá, làm rối loạn an ninh, gây tai họa cho dân chúng cả một vùng hay một nước... Thì, giặc ở đây chính là bọn CS Bắc Việt và Việt Cộng miền Nam khi chúng ta trở lại thời điểm cũ của ngày 13 tháng 3 năm 1972
14 Tháng Hai 2012(Xem: 24166)
Trang báo đang hiện ra dưới mắt bạn là thành quả của biết bao lao tâm khổ tứ, biết bao nhẫn nhục, chịu đựng chỉ vì những người làm ra nó yêu Nghệ thuật và yêu bạn mà gửi tới cho bạn. Họ sẽ chẳng mong bạn đền đáp nhưng họ nghĩ, một khi bạn đọc được tâm tư của họ (tác giả) bạn sẽ rút ra được điều gì đó có ích lợi cho chính bạn hoặc cho cả những người xung quanh, mạnh mẽ hơn, cho nhân quần xã hội.
13 Tháng Hai 2012(Xem: 19934)
Tôi xin được cám ơn anh Ray, chị Thuần và chị bạn người mảnh khảnh nhưng nhanh nhẹn,dịu dàng cho tôi viếng thăm” Lâu Đài Tình Yêu “ nguy nga cổ kính , biết mối tình tuyệt đẹp của người xưa. Chúc các chi em gặp người bạn đời chung thùy, các bậc nam nhi có vợ hiền, đảm đang và tất cả mọi người vui hưởng Ngày Lễ Tình Yêu thật thú vị , đầm ấm.
12 Tháng Hai 2012(Xem: 20592)
Cánh dù lộng gió muôn phương Vào lòng đất mẹ, máu xương ngậm ngùi Tay khô đốt sáng đỉnh trời Lập loè đốm lửa, thắp đời quạnh hiu.
02 Tháng Hai 2012(Xem: 19742)
Tháng 7/75, khi mọi người vẫn còn đang ngơ ngác, chưa kịp hoàn hồn trước bao thù hận, mất mát chia lìa, thì ở khu làng biển nghèo Bá Hà, một cậu bé 15 tuổi lại ngỡ ngàng trước một tin vui - có mẹ. Khi bà ngoại dắt Hưng vào nhà và chỉ một người đàn bà xa lạ, bảo đó là mẹ mình.
31 Tháng Giêng 2012(Xem: 18544)
Sàigòn thời chiến tranh, có biết bao biến động lịch sử xảy ra trên vùng đất quê hương này. Ấy thế mà mỗi khi chúng ta nhớ lại những kỷ niệm ở Saigon, những lề đường Saigòn chúng ta cứ như nhớ về một vùng đất nước thanh bình, thời vàng son của một đời người trong một xã hội ổn định. Nhớ về Sàigòn, nhớ đến sông Sàigòn như giải khăn sô vắt ngang vầng trán, đêm đêm chảy vào lòng người Sàigòn xa xứ./.
30 Tháng Giêng 2012(Xem: 19451)
Mời xem câu chuyện dưới đây, 1 câu chuyện rất có ý nghĩa, có thể nói đặc biệt dành cho những người đã từng vượt biển, đánh đổi chính mạnh sống của mình để đi tìm tự do..."Freedom isn't Free"... trong giờ phút giữa cái sống mõng manh và sự chết cận kề...
27 Tháng Giêng 2012(Xem: 18826)
Tưởng niệm Cố TT Trần Văn Hương , chúng ta tưởng niệm một con dân nước Việt sống trong một giai đoạn Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam chìm đắm trong nô lệ thực dân và chiến tranh tàn khốc do bọn Việt Cộng chủ trương xâm chiếm VNCH trong gần trọn thế kỹ trước , đã tự thân phấn đấu vượt lên những nỗi nghèo khó nhọc nhằn của thời niên thiếu
26 Tháng Giêng 2012(Xem: 19172)
Cụ Trần Văn Hương mất ngày 27 tháng 1 năm 1982 tại Sài Gòn. Cụ mất đi để lại cho chúng ta nhiều tiếc nuối. Hôm nay nhân ngày lễ tưởng niệm Cụ, tôi xin chia xẻ vài suy nghĩ về Cụ:
17 Tháng Giêng 2012(Xem: 18620)
Bài này xin được làm bó nhang thứ 2 góp giỗ cho những cái chết oan ức kinh hoàng trong chiến dịch thảm sát của Việt Cọng tại Huế 1968 có tên trong bài tường thuật của Elje Vannema
16 Tháng Giêng 2012(Xem: 21228)
Có bao nhiêu người đã cắt đứt mối quan hệ hay đi đến ly dị bởi vì họ nhìn thấy “hai viên gạch xấu”? Bao nhiêu người trong chúng ta đây đã từng thất vọng, thậm chí nghĩ đến việc tự tử, chỉ vì thấy trong ta “hai viên gạch xấu”?
13 Tháng Giêng 2012(Xem: 20769)
Khi miền Nam mở mặt trận Lam Sơn 119 đánh qua Hạ Lào thì phía Hoa Kỳ cấm máy bay Mỹ chở phóng viên vượt biên. Bốn anh nhà báo Mỹ bèn tìm cách đi máy bay của không quân Việt Nam
13 Tháng Giêng 2012(Xem: 20652)
“Thưa bà, bà giúp tôi hiểu được thế nào là Nhân, thế nào là Cách. Căn nhà đó là tiền công mà bà đã dạy cho tôi”. Người phụ nữ nói: “Vậy thì ông đem căn nhà ấy tặng cho người nào không còn cánh tay nào cả !”.
10 Tháng Giêng 2012(Xem: 19667)
Này, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan …Những người dân đó có tội gì mà lũ bây giết một cách dã man như vậy? Hãy nói, viết, lên sự thật. Những sự thật như những nén nhang, ngọn đèn góp giỗ cho những oan hồn của Huế
09 Tháng Giêng 2012(Xem: 19825)
Đó là chỗ căn bản tôi muốn chỉ cho tất cả Tăng Ni, Phật tử nhân ngày đầu năm. Những gì tôi thấy biết đều chỉ cho quí vị thấy biết và ứng dụng tu, sau này không trách rằng việc tu đơn giản như vậy sao Thầy không chỉ thẳng? Mong tất cả nghe nhận thấu đáo, ứng dụng tu được kết quả viên mãn.
07 Tháng Giêng 2012(Xem: 20139)
"Không có ai trong mộ này. Cái còn lại trong đó chỉ là những mảnh xương khô, thực sự không là gì cả, phần năng lực tinh thần hiện nay đang ở trong tôi."
07 Tháng Giêng 2012(Xem: 18326)
Những giọt mưa trên tóc hai cô đầm trước mặt vẫn lấp lánh dưới ánh đèn trong bar càng gợi lại hình ảnh Kim trong lần đụt mưa hồi đó với những giọt mưa trên tóc, rõ ràng như Nghĩa đang nhìn bây giờ. Vậy mà bây giờ….
06 Tháng Giêng 2012(Xem: 19448)
Từ thị xã Tây Ninh khoảng 8-9 cây số là đến núi Bà Đen, có độ cao 986m, được xem là nơi cao nhất của Nam Kỳ. Núi Bà Đen là điểm kết thúc của dãy Trường Sơn, như con rồng uốn khúc che chở Việt Nam, đến Tây Ninh là phần đuôi rồng, và ẩn hiện Thất Sơn là những phần cuối cùng của long mạch Việt Nam, sanh chín cửa Cửu Long.
05 Tháng Giêng 2012(Xem: 19808)
Một cô gái bất hạnh nào đó đã lặng lẽ bỏ con còn đỏ hỏn lại bệnh viện. Một người đàn ông nhìn xác bé thơ vô tội nằm lạnh lẽo đã xin bệnh viện được giải quyết hậu sự cho bé.
28 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 18573)
Ngày nay ở xứ người, mỗi dịp Noel, nghe tiếng chuông giáo đường ngân vang, nghe nhạc khúc Đêm Thánh Vô Cùng, tôi bồi hồi nhớ lại chuyện cũ năm xưa. Hồi đó sao mà người nghệ sĩ lại có thể thương mến nhau một cách rất chân tình như vậy.
25 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 18216)
những câu chuyện xoay quanh Lễ Giáng sinh đã được tích lũy nhiều đến nỗi có thể gom thành một pho sách dày. Tuy nhiên, cái hay của những câu chuyện Giáng sinh là người ta có thể kể đi kể lại và nghe đi nghe lại hoài mà không thấy chán