12:26 SA
Thứ Ba
16
Tháng Tư
2024

NGƯỜI LÍNH TRONG LỬA ĐẠN & SAU TRẬN CHIẾN - PHAN NHẬT NAM

28 Tháng Sáu 201410:56 CH(Xem: 11530)
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Phan Nhật Nam

blank
I. Tháng Chín 1972 đã là lần lịch sử chuyển mình, núi rừng, đất trời miền Nam đồng vang dội chiến công.

Quân Nam quyết liệt xốc tới nơi những chiến trường Quảng Trị, Bồng Sơn, Kon-Tum, An Lộc… hiện thực một lần nghĩa vụ linh thiêng muôn thuở của người lính – Bảo Quốc An Dân – Sứ mệnh không hề nói thành lời, và được hiện thực với chính máu xương của những con người vô danh cao thượng mà Đằng Phương, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy mấy mươi năm xưa đã viết nên những dòng máu lệ ngợi ca hùng tráng.

Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước…

Nội dung vĩ đại trên được thực hiện qua những cảnh tượng hùng tráng: Ngày 25 tháng 6, 1972, chiến dịch tái chiếm Quảng Trị khai diễn với các đơn vị, Biệt Động Quân, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, lực lượng diện địa của Tiểu Khu Quảng Trị, phối hợp với các chi đoàn chiến xa, thiết quân vận của Quân Đoàn I, được yểm trợ bởi các đơn vị pháo cơ hữu, và của vùng chiến thuật dưới quyền chỉ huy của Tướng Quân Ngô Quang Trưởng.

Đoàn quân quyết tử phục hận đồng vượt tuyến xuất phát Sông Mỹ Chánh tiến theo trục chính Bắc với mục tiêu cuối cùng – Cổ Thành Đinh Công Tráng hay Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Quảng Trị – mà quân ta phải tạm lìa bỏ từ 29 tháng Tư do những ước tính sai lầm của những cấp chỉ huy, giới chức lãnh đạo.

Từ Ngã Ba Long Hưng, cửa ngõ phía Nam Quảng Trị, điểm tiến quân cao nhất của Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù trong ngày 7 tháng 7, 1972, đến Cổ Thành Đinh Công Tráng đoạn đường dài khoảng một cây số, và bề ngang từ nhà ga phía cực tây đến làng Công giáo Trí Bưu phía đông, khoảng cách cũng có bề rộng tương tự. Trên khoảng đất rộng hơn cây số vuông kia, mười lăm ngàn người lính của những đơn vị kể trên đã thay phiên nhau bò, trườn, ẩn núp, gọi pháo, đánh bom, ném lựu đạn, đánh cận chiến ngày lẫn đêm suốt đoạn thời gian liên tục 67 ngày, để đến ngày 14 tháng 9, 1972 những người lính của các Tiểu Đoàn TQLC đồng lần siết chặt mục tiêu, dựng ngọn Cờ Vàng bay lộng trên gạch đá điêu tàn, giữa tiếng đạn, khói thuốc súng của trận chiến đang hồi kết thúc.

Cờ lên!
Cờ lên! Giữa vũng lửa... Ở Quảng Trị,
Dân với quân cùng lần nước mắt ứa
Một bận Cờ bay Cổ Thành xưa
Bao phần máu xương người lính đổ…

Chiến tích kỳ diệu trên ắt phải được nung nấu từ một nguồn thúc giục vô vàn mãnh liệt mà không thể mua bằng một giá biểu lương bổng nào dầu cao đến bao nhiêu, chắc chắn cũng không do từ một huy hiệu, cấp bậc tưởng thưởng… Người lính đã bậm chặt môi, nghiến răng xốc tới bởi từ dưới những đụn cát loang lổ vùng Hải Lăng, Giáp Hậu, chen giữa những xác chết nặng mùi có những dạng người cử động… Những người sống sót từ lần thảm sát khi rời bỏ Quảng Trị trong ngày 29 tháng Tư, trên đường chạy về Huế, lọt vào ổ phục kích vùng hỏa tập tiên liệu của đơn vị cộng sản, chín cây số nam La Vang kéo dài đến cầu Câu Nhi Phường, xã Giáp Hậu, quận Hải Lăng. Những người sống sót hồi sinh với tiếng nói đứt khúc, thì thầm hấp hối… Lính tới… Lính Cộng Hòa tới…

II. Sau 30 tháng 4, 1975, những người lính kể trên có thể đã chết (theo một tỷ lệ khả thể rất lớn) theo lần sụp vỡ quê hương.

Không phải với cách chết bình an lành lặn, nhưng chết với xác thân bị dầm xé, những tay chân gãy gập, đứt đoạn, xương cốt dập vỡ… Những người chết bị kết án, sỉ nhục từ những ngày sống thoi thóp, và chết đi trong uất hận căm hờn rung động đến cùng tận đất trời. Tiếng gào đau nầy đã dậy lên suốt tuổi trẻ trên từng trang sách của hơn ba-mươi năm qua…

Bởi bản thân vẫn mãi mãi và luôn chỉ là – Người Lính của một Quân Đội hằng sống, chết vẹn toàn để thực hiện sứ nhiệm báo ân cùng dân tộc khổ nạn trên quê hương điêu linh – Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

blank
Nhưng có những con người – những người lính vẫn tồn tại. Phải tồn tại. Họ không chỉ là những người lính bình thường với nỗi truân chuyên, gian khổ, nguy nan đặc thù riêng của đời lính mà là những quân số chịu phần oán nghiệt khốc liệt nhất trong toàn tập thể quân đội – Những thương phế binh bị loại ra khỏi cuộc chiến từ lúc chiến tranh đang nặng độ. Đây lại là những thương phế binh của một quân đội thất trận, ở lại sau cùng khi những người chỉ huy đã tráo trở đầu hàng, tan hoang tháo chạy, hoặc cùng đày bó tay bẻ súng, vị quốc vong thân. Không vũ khí, không đủ cả giác quan, tay chân, họ ở lại hứng trận đòn báo thù hèn hạ từ một tập đoàn thắng trận bạo ngược tàn nhẫn nhất trong lịch sử đông-tây, mà thông thường khi cuộc chiến chấm dứt, những phe lâm chiến hằng đối xử nhau một cách văn minh với tính bình đẳng huynh đệ… Pháp-Đức, Mỹ-Nga, Hoa-Nhật… Nhưng, ở Việt Nam, nơi Miền Nam, một bên, kẻ thắng trận, tổ chức bạo lực phát động chiến tranh, giành luôn quyền giết người và thực hiện tội ác vì “độc lập, tự do, hạnh phúc cho đời đời con cháu mai sau!” và một bên, tập thể những con người trần trụi tuyệt vọng, đối tượng của một chính sách bức hại thâm độc vô nhân tính không cơ may được khoan thứ, không phương tiện chống giữ, không hy vọng thoát thân.

Đau thương hơn nữa, họ không chịu riêng một mình mà kéo theo những người thân thích, nói rộng ra, một lần với miền Nam thất trận cùng đành. Cái chết cũng vô nghĩa và không thể thực hiện được bởi khả năng cuối cùng nầy đã hoàn toàn bị tước bỏ. Họ thật tận chết từ trong mỗi ngày giờ hiện sống, qua bức hại, thanh trừng, lưu đày, hành hình trên chính quê hương từ những người gọi là đồng chủng tộc…

Chúng ta hãy cùng sống lại từng bước của buổi trường chinh vô hạn khốn cùng của mỗi đơn vị người gọi là Thương Phế Binh, với những người mẹ, vợ, và những đứa con của họ. Những trẻ nhỏ hoàn toàn vô tội và vô hại cho dù xét xử dưới bất cứ chế độ chính trị, xã hội nào.

1- Đứa nhỏ chết dưới đường cống Sài Gòn

Nầy đây, chúng ta hãy nghe thương phế binh Nhị Nguyên viết về hai con nhỏ của tử sĩ Nguyễn Văn Thuận, đơn vị sư đoàn Nhảy Dù, quê Long An… “Thằng Nô, 12 tuổi, Phát 14 tuổi cùng mẹ đi vùng kinh tế mới ở Đồng Tháp Mười, nhưng đời sống quá cực nhọc và không đủ ăn, bà mẹ dẫn hai đứa con về Sài Gòn sống lang thang. Nô và Phát thường khoe với chúng tôi rằng, cha chúng đi lính mặc áo hoa rừng chết vào mùa mưa 1972. Mẹ chúng đã khóc như mưa lúc nhận xác cha, nên mỗi khi vào mùa mưa, chúng cảm thấy buồn buồn. Gần đến ngày giỗ cha, chúng cố ‘làm ăn’ cho có nhiều tiền để về Long An thăm mẹ. Thường khi các bạn đồng lứa bắt đủ cá xong trở lên mặt đường ngủ thì chúng nó tiếp tục lặn dưới các ống cống thành phố để tìm thêm cá. Có những buổi sáng, chúng tôi thấy hai anh em rét run vì ngâm dưới nước quá lâu.”

“Vào một đêm nọ, tôi thấy hai anh em thằng Nô, Phát lặng lẽ mở nắp cống chui xuống, khoảng vài ba giờ sau thì sấm chớp rầm rầm, chúng tôi choàng thức dậy tìm chỗ trú mưa. Một trận mưa như vũ bão đổ ào xuống thành phố và kéo dài cho đến sớm. Bình thường, hai anh em thằng Phát ở lâu hơn bạn bè dưới cống, nhưng sao giờ nầy chúng nó vẫn chưa lên? Thôi rồi, tôi hốt hoảng hiểu ra mọi sự… Anh em chúng tôi báo động với nhau, hỏi thăm những đứa trẻ đang ngủ gà, ngủ gật cạnh những đống rác ‘giữ chỗ’ cho công việc sáng hôm sau (để moi, nhặt rác). Chẳng đứa nào thấy hai anh em thằng Nô. Cho đến một hôm, ba mươi – ba ngày sau, một đứa khác đang lội bì bõm ở ống cống gần chợ Cầu Ông Lãnh tìm cá, bất ngờ đụng phải một cái gì gống như ‘trái dừa,’ nó nhặt lên, soi dưới ánh đèn, hét tiếng lớn và bỏ chạy. Sợ quá, nó chui đại lên miệng cống ngay gần chợ trước sự kinh ngạc của bạn hàng, nó vừa lượm một cái đầu lâu. Cả chợ hay tin đó liền kêu đội dân quân gác chợ mở cống tìm xác hai đứa nhỏ, nhưng cuối cùng chỉ nhặt được một khúc đùi đã thối rữa, và nửa thân người còn lại. Bọn trẻ nhận ra cái quần đùi màu đỏ của thằng Phát, bên trong còn ít tiền gài kim băng cẩn thận. Tiền đó thằng Phát để dành về quê giúp mẹ làm đám giỗ cha.”

2- Về những người vợ lính

blank
Chúng ta nghe tiếp về những người vợ lính, vợ thương phế binh… Đấy là những người đàn bà bình thường, đơn giản, trú ngụ ở các trại gia binh của các đơn vị quân đội. Những người đàn bà chỉ ao ước mỗi tháng được mua hàng quân tiếp vụ, thăm chồng nơi chốn hành quân xa với tay xách đựng vài ổ bánh mì, nải chuối, biểu lộ tình nghĩa vợ chồng qua tiếng lời trung hậu, tội nghiệp… Cũng chính họ đã gánh chịu tai họa chiến tranh ngang tầm của người chồng trong cách thế im lặng, thụ động và cam phận… Những buổi sáng tinh mơ trước khi đoàn xe lăn bánh ra khỏi hậu cứ, họ đã có mặt với những đứa con còn ẵm ngửa, đứa dắt tay. Họ biết nói gì với chồng trước mỗi lần đi ngoài lời thầm xin cầu nguyện… Mong lần đi có khi trở lại, và nếu người chồng trở về với những thương tật không thể bù trừ, những mất mát không hề được tái sinh, họ chấp nhận sự thiệt hại đau thương, giá máu đổ xuống một cách khắc kỷ cao thượng qua lời nói nhẹ tênh… “Ừ thôi, ba hắn không chết là tui mừng rồi, còn vợ, còn chồng là được.” Và đời họ, người chồng lính, những đứa con sẽ kéo dài bình an chìm lặng từ nỗ lực đôi vai, chiếc lưng ngồi hằng ngày nơi phố chợ, hoặc với quang gánh nhọc nhằn trên đường xa. Tất cả khổ đau hoạn nạn được quên khuất nhanh chóng với câu nói bình thản… “Ba sắp nhỏ dù đui què, mẻ sứt chi mà còn sống là tui cũng yên lòng.”

Tất cả mối mong ước bình an chịu đựng nhỏ bé nầy đồng bị đổ nhào, lật ngược một cách tàn nhẫn nơi ngày 30 tháng 4, 1975… Chồng chị Liên là anh Hơn, phế binh Sư Đoàn 25 Bộ Binh, cụt một chân và lao phổi nặng. Một hôm đi bán nhang chẳng may băng qua đường bị trợt té, một chiếc xe hàng chạy qua thắng không kịp, đầu anh bị cán nát, lòi cả óc ra ngoài. Dẫu chồng chết, chị Liên cũng đã lây bệnh ho khậm khẹt và không hiểu sao chị sợ màu đỏ quá. Nó giống máu hòa trong nước miếng của chồng chị nhổ ra sau mỗi cơn ho, nó cũng giống màu cờ đỏ treo khắp thành phố. Liên cùng chị Mạc, vợ một phế binh khác, và chị Nguyệt lên Long Khánh buôn củi lậu. Cả ba đi tàu chui và khi gần đến ga Bình Triệu thì tuôn củi xuống, Liên có đứa con trai lớn tên Đức, nhanh nhẹn giúp đỡ mẹ rất đắc lực, nhưng chị Mạc với bé Hoa mới 5 tuổi thì thật là khó khăn, nguy hiểm khi nhảy tàu, vừa bế con, vừa tuôn củi. Liên khuyến khích bạn, “Chị đừng lo, thằng Đức con tôi sẽ cõng con Hoa nhảy giùm cho…” Nhưng sự “may mắn” không đến với chị Liên được mãi, tai họa đã xẩy ra như một điều tự nhiên của nghiệp khổ phận người Việt Nam.

Một hôm, trời mưa tầm tã, bảo vệ chia nhau ngăn chặn các toa xe. Để cứu lấy món hàng, Đức và những đứa nhỏ leo lên trần xe và chuyền những bó củi qua cửa sổ. Một đứa tuột tay bị cuốn vào bánh xe lửa, thân thể bị nghiền nát vụn dọc theo đường tàu. Về đến ga Thủ Đức, chị Liên vẫn không thấy thằng Đức đâu, hỏi thăm lũ nhỏ, có đứa bảo thấy thằng Đức leo mui xe lửa trốn bảo vệ. Nhưng đến ngày hôm sau, Liên mới biết được rằng, khi xe qua cầu Biên Hòa, con chị đã bị đà ngang đánh vỡ đầu, rơi xuống đường ray, thây xác bây giờ không biết nằm đâu… Cuối cùng, chị Liên gia nhập lực lượng “tình nguyện hiến máu.” Chị có ý định sau khi gom được số tiền bán máu chị sẽ đi buôn lại như xưa vì bây giờ nghe nói cộng sản không còn “ngăn sông cấm chợ.” Chị đã đến các trung tâm tiếp huyết Thủ Dầu Một, Bình Dương, lên tận Lộc Ninh rồi vòng qua Biên Hòa để bán máu. Nhưng vì muốn mau thoát khỏi kiếp sống hè phố chị đã quên chính mình, thân xác càng ngày càng suy kiệt, mặt chị xanh xao, đi không vững, bị xây xẩm luôn. Một đêm chị ngủ trên ghế đá một công viên ở Chợ Lớn, sáng mai người ta tìm thấy xác chị cứng đơ. Khi đem xác đi chôn, số tiền để dành trong túi chị bị công an tịch thu vì không có chứng minh tài chính hợp lệ.

3- Cảnh sống/chết đọa đày của Gia Đình Thương Phế Binh

Đây, lời kể của chứng nhân Bùi Anh Sáu về lần “Ghetto, Làng Phế Binh Thủ Đức” bị triệt hạ: “Ba giờ sáng ngày 1 tháng 7, 1975, Làng Phế Binh Rạch Chiếc Thủ Đức bị đánh động, vây chặt bởi một đơn vị bộ đội đông đúc có cả xe tăng yểm trợ.
Một đoàn xe chờ sẵn để dồn mọi người lên vùng kinh tế mới Sông Bé (Phước Long cũ)… Kinh tế mới là gì, chẳng ai biết? Sông Bé ở đâu, người người bàn tán xôn xao. Trẻ nít khóc rân, người lớn nháo nhác hốt hoảng dồn đồ đạc, áo quần dưới ánh sáng luồn sục, thúc giục của đèn xe và đèn pin và lời quát tháo chửi mắng… “Chúng mầy là gia đình bọn ngụy quân, lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ, có nợ máu với nhân dân, chúng mầy không được quyền ở đây, phải trả lại tài sản cho nhà nước và nhân dân!”

“Chen trong chuỗi la ó hỗn loạn kia có những âm thanh nổ bùng, sắc gọn sau tiếng la hét uất hận… Những thương phế binh tự sát cùng với gia đình, từ chối lên vùng kinh tế mới. Đến sáng, toàn khu làng phế binh ngày thường sầm uất nhộp nhịp nay vắng hoe, heo hút những đám cháy nhỏ gồm những vật gia dụng bộ đội không cho đem theo; chỉ còn những đơn vị bộ đội đứng gác và các toán đi lại, vào từng nhà kiểm kê. Một đoàn xe khác từ Sài Gòn đến, sau khi đã chất đầy những đồ đạc để sẵn ngoài sân, phủ bạt kín, chạy ra xa lộ, hướng về phía Bắc.”

Gần một năm sau, tất cả những gia đình đi kinh tế mới ở Sông Bé đồng trở về vì không chịu đựng nổi cảnh sống quá cực khổ ở vùng núi rừng hiu quạnh. Có gia đình về không đủ như lúc ra đi vì đã để lại thân xác nơi rừng sâu; có gia đình thì đông hơn trẻ nít, nhưng tất cả đều ốm yếu, nước da vàng vọt, người đầy ghẻ chốc. Họ không còn nhà, nên thường cất những chòi bằng giấy cứng quanh nghĩa địa. Người sống và người chết chen nhau. Vào ngày nắng gắt hoặc mưa giông, nghĩa địa bốc mùi tanh nồng nặc, dần dần ai nấy đều có nước da tai tái như người chết. Nhà cửa khu trại gia binh bị trưng thu, vùng kinh tế mới sống không nỗi, lấy nghĩa địa làm nhà, lề đường là vùng sinh sống, đám dân cùng khổ biến thành “tệ đoan xã hội”, đối tượng của chính sách dồn ép và quét sạch để “làm đẹp tổ quốc giàu, mạnh, xứng đáng thành phố mang tên bác kính yêu.”

Chúng ta nghe tiếp lời của phế binh Bất Hạnh, hiện ngụ tại Khánh Hội, Sài Gòn: “Những cuộc truy quyét thu gọn rầm rộ được phát động trong những xóm lao động, dài theo đường phố Sài Gòn, những vật dụng ăn cướp của đám bần dân bị công an quăng đầy lên xe cây: cây dù, tủ thuốc lá, xe xay nước trái cây, xe bán nón, đòn gánh, rỗ bánh tráng… Chưa hết, bên cạnh những chuyến xe chở hàng tịch thu là những chiếc xe bít bùng chở đầy người già, trẻ nít, người tàn tật, những bà mẹ cùng những đám con thơ nheo nhó đỏ hỏn bế trên tay… Tất cả đồng đưa về trại tập trung về tội “lấn chiếm lề đường.”

Này đây, một cuộc bố ráp điển hình ở Khu Hàng Xanh: “Tôi (Bất Hạnh) không may lọt ổ phục kích, chưa biết phải làm gì trước tình huống thì một xe công an từ đâu phía sau chạy tới, một tên nhảy xuống, giật thùng đồ nghề (vá xe) quăng lên xe. Thế là trắng tay! Làm sao để sống đây hở trời? Những nơi khác, quanh Ngã Tư, tiếng la hét, khóc than vang lên tới tấp. Một chị phụ nữ la thất thanh, chị đang giằng co với một tên công an thúng trái cây, bên cạnh bên chị, hai cháu bé, đứa khoảng 5 tuổi, đứa chừng 3 tuổi bò lăn trên những trái mận, ổi, khóc vang khi thấy mẹ bị tên công an đá quay lông lốc…”

4- Đối mặt với một chính sách diệt chủng

Sáng ngày 1 tháng 5, 1975, một địa ngục có thật mở ra trên Miền Nam, càng đậm sắc với những người tàn phế ở các quân y viện… Một toán Việt cộng tiến vào Bệnh Viện 3 Dã Chiến buộc chúng tôi rời viện ngay tức khắc. Bọn người này chưởi bới chúng tôi là phản quốc, tay sai đế quốc v.v… Phản quốc nào, quê hương chúng tôi bị chúng xâm chiếm. Tay sai đế quốc nào khi dân tộc chúng tôi, thân thể chúng tôi bị đạn Nga, Tàu gây thương vong. Những chiếc “nón cối” nầy đại diện cho ai mà dám la hét: “Cút, cút ra khỏi đây. Bọn ngụy chúng mầy không được nằm tại đây. Đồ lính đánh thuê, lũ quân bán nước!” Chúng tôi người này đỡ người kia khập khễnh ra khỏi trại, có những chiến hữu vết thương đang rỉ máu bị vất trần truồng tênh hênh trên lề đường… Gia đình mừng rỡ thấy tôi trở về, nhưng trong hoàn cảnh này ai cũng lo âu cho tương lai của mình.

Hằng ngày tôi thấy trước mặt từng đoàn người, già có, trẻ có và những đám con nít thay phiên nhau giành giựt những thùng đồ hộp, gạo sấy, máy móc từ trong những nhà kho. Dòng người đổ xô tràn vào những kho tồn trữ dưới chân cầu Tân Thuận bị những người đội nón cối xả súng bắn thẳng… Nhiều người giãy giụa dưới đất, trong vũng máu. Dân chúng chạy tản trốn, nhưng vài phút sau họ lại tràn vào đông hơn, bất kể súng đạn, ai bị thì té xuống, những người khác thì cứ nhào lên cậy cửa… Khi những ngày hỗn loạn đầu tháng 5, 1975 qua đi, những thùng đồ hộp bọn em đem về dần cạn, người phế binh phải ra đường kiếm sống với những “nghề cứu đói”, vá lốp xe đạp, sửa hộp quẹt gaz, bán nhang…

blank
Và cuối cùng, đi xin ăn. Nhưng tất cả không thể kéo dài khi Ba Nhiệm làm trưởng ban “Truy quét tệ nạn xã hội” với một bộ phận kinh hoàng, “Nhà nuôi Thị Nghè” được dựng nên để làm địa điểm chuyển tiếp giải quyết tất cả những đối tượng đang sinh sống trên, với vỉa hè, số lượng này càng tăng vọt khi tiếp nhận thêm hàng vạn người từ miền Bắc túng đói tràn vào… Tuy gọi là “nhà nuôi” nhưng thật ra nơi đó là nhà giam theo đúng nghĩa, những người bị đưa vào đây đều bị coi là “tội phạm hình sự,” do đó bị tra tấn và hành hạ thường xuyên. “Tội phạm” là những người bị bắt trong các đợt bố ráp lề đường, họ không có quyền khiếu nại là bị bắt trái phép hay không và cũng không có án phạt rõ ràng; thời gian ở đây được coi như để “nuôi dạy” nên không hạn định thời hạn giam giữ, nhiều người đã ở lại đây vĩnh viễn. Mỗi nhà nuôi có có vài căn trại, mỗi căn rộng chừng 200 thước vuông, với khoảng chừng 100 con người bị giam. Tối tối mọi người phải thay nhau chỗ nằm và ngồi quạt cho nhau. Sáng khi nghe kẻng điểm danh, người nầy gọi người kia, ai nằm im không cục cựa thì đem đi hỏa thiêu tại lò thiêu Bà Quẹo. Người sống thì đi lao động, kể cả người tàn tật, mù hai mắt, cụt tay, chân.

Nếu sống sót từ các “nhà nuôi,” trở về lại Sài Gòn, tình cảnh cũng chẳng sáng sủa hơn và cuối cùng tất cả đồng “chọn” một biện pháp “không còn chọn lựa”… Hoàng Thụy và Sơn, hai phế binh do quá kiệt sức vì bệnh lao và cụt hai chân nên được ra khỏi “nhà nuôi số 4” Phú Giăng, Sông Bé. Họ không dám đi ăn xin, chỉ “xin ăn” lại từ những người sống trong nghĩa địa.

Một buổi chiều, hai anh ra bến Bạch Đằng, ngước mắt nhìn tượng Đức Trần Hưng Đạo một hồi lâu rồi nắm tay nhau nhảy xuống dòng nước chảy xiếc. Xác hai anh được vớt lên, cha anh Sơn đang bán bánh ú, bánh tét quanh chợ Bến Thành hay tin, đến nhìn xác con. Nhưng ông chỉ im lặng đứng chung với đám người hiếu kỳ, không dám nhận là thân nhân người xấu số vì không có tiền mai táng con mình. Ông đứng thẫn thờ nhìn chiếc xe chở xác con ông đi khuất rồi mới dám khóc.

Hoàng Thụy và Sơn không chết một mình, những người lính tàn phế lần lượt “chọn” cho mình những phương tiện và thời điểm thích hợp… Anh Thơm khi ngồi dưới chân cầu Sài Gòn, gần Ngân Hàng Quốc Gia có suy nghĩ rằng, do vợ chồng anh thiếu quan tâm nên đứa nhỏ con anh mới chết vì suy dinh dưỡng; mẹ nó đang “đi khách” ngoài chợ Bến Thành để dồn tiền cho anh làm vốn đi bán nhang… Anh quá mệt mỏi để nghĩ tiếp… Cuối cùng, anh mở hai tuýp thuốc ngủ trút hết vào miệng, bị say thuốc, anh ọc mửa đầy hết áo quần, xong dẫy mấy cái và ngủ luôn dưới chân cầu. Lộc “què” mắc bệnh ho lao, thắt cổ chết trong một toa xe lửa bỏ hoang ở Biên Hòa. Quý “Đốc-tưa Zivago” không nuôi nổi mẹ già 80 tuổi, bất lực nhìn mẹ hằng ngày cầm lon ra chợ xin thức ăn nuôi thân và nuôi con, nên thắt cổ chết lè cả lưỡi ra. Thanh “liệt” thì mài dao tự cắt cổ, cứa mãi không đứt vì sợ đau, đâm bực mình liền chĩa mũi dao đâm cái phọt vào tim… Nhưng trong những thân thể thương tật kia, ý chí chiến đấu của người lính không hề tàn lụi, họ vẫn giữ nguyên bản lĩnh kiêu hãnh của một quân đội, một đơn vị hằng tạo dựng những chiến tích lừng lẫy, cho dù hành động phản ứng tuyệt vọng bi tráng của họ chắc chắn sẽ đưa đến hậu quả khốc hại cuối cùng với cái chết ghê rợn nhẫn tâm…
Câu chuyện sau đây của phế binh Khát Vọng, hiện ngụ tại Long Hải, Phước Tuy có thể dùng để tạm kết về buổi thụ nạn đau thương của Thương Phế Binh QLVNCH với tất cả bi hùng mà chỉ người trong cuộc mới có thể viết nên, kể lại: Khu chính trị trại Xuân Lộc, Long Khánh thường xẩy ra nhiều chuyện đau buồn. Anh Trần Văn Được, trung sĩ nhất Thủy Quân Lục Chiến, cụt một chân và mù một mắt trong trận tái chiếm cổ thành Quảng Trị, Mùa hè 1972 bị bắt chung với trung úy Phạm Tấn Dũng, binh chủng Nhảy Dù, bị thương năm 1974 trong trận tái chiếm đồi 1062, Thường Đức, Quảng Nam vì tội “hội họp bất hợp pháp, âm mưu lật đổ chính quyền.”
Một hôm, viên cán bộ quản giáo quê Nghệ Tĩnh vừa được chuyển tới, ra lệnh anh Được quét sân. Vì giọng nói người này khó nghe, nên anh Được vẫn ngồi yên uống nước trà. Gã cán bộ nhào tới xỉ vả và đánh anh một bạt tai. Nổi nóng, anh Được cầm lon guigoz dựng nước nóng tạt vào mặt nó và chỉ tay nói: “Mày là giống gì mà mất dạy quá vậy? Bộ tao là súc vật à, ai cho mầy vô phép dữ vậy?!! Tao tuy tàn tật nhưng không để cho mầy sỉ nhục đâu. Đồ quân mất dạy, con tao còn lớn hơn mày nữa mà… “ Được chưa nói hết câu, tên cán bộ nhào tới đánh anh vào đầu ào cổ, và chưởi rủa những tiếng khó nghe. Anh Được bị té xuống đất, nó liền đá vào đầu vào bụng anh. Thấy vậy, anh Dũng cà thọt chạy tới can, bị mất thăng bằng, anh níu áo tên cán bộ này và cả hai ngã xuống đất. Tức thì, bảy tám cán bộ quản giáo khác từ trong nhà chạy ra vây đánh hội đồng, cả hai anh lăn lộn chịu đòn trên mặt đất. Dũng hốt cát ném vào mặt mấy tên cán bộ, đang lúc chúng còn đang dụi mắt, Dũng nắm chân một tên kéo xuống, xong thúc cùi chỏ vào mặt y.
Một tên khác đi tìm một khúc tre làm cột phơi áo quần quất tới tấp vào mình, đầu anh Dũng. Tiếng bình bịch, bồm bộp vang lên khô khan, máu từ đầu và vết thương cụt của anh Dũng bê bết trên đất. Trại viên chạy ra năn nỉ xin tha, đám cán bộ chĩa súng đòi bắn, lùa tất cả mọi người vào phòng; Dũng và Được bị kéo lên văn phòng trại.

Trời bắt đầu tối, không ai còn lòng dạ nào để ăn cơm, từ phòng tra tấn đến phòng giam tập thể không xa nhau lắm, nên chúng tôi nghe được câu còn câu mất…
Nội dung những tiếng la hét, tra khảo và trả lời đại khái như sau:
- Mầy đeo cái gì tòn teng dưới cổ hả thằng kia?
- Thánh Giá.
- Cởi nó ra khỏi cổ ngay lập tức.
- Còn lâu. Không ai có quyền buộc tôi phải bỏ nó ra. Bộ muốn cấm đạo hả? Cây Thánh Giá này là tượng trưng cho tín ngưỡng của tôi, không ai có quyền buộc tôi bỏ ra.
Tức thì tiếng huỳnh huỵch vang lên, có lẽ chúng đá vào người anh Dũng. Tên cán bộ người Nam nghiến răng hằn học (chúng tôi chỉ nghe rõ tiếng Nam của tên nầy):
- … Đạo hả… Đụ má đạo… đạo nè…
- Bớ người ta chúng đánh người… Họ giết chúng tôi! Anh Được gào lên nửa chừng rồi tắt nghẹn.
Những tiếng “huỳnh huỵch… bồm bộp” lấn át tiếng la của Được. Chúng tôi chỉ nghe những tiếng rên rỉ dứt khoảng rồi im bặt.

Sáng hôm sau, cán bộ quản trại cho hay, hai anh Dũng và Được đã “hành hung cán bộ và cắn lưỡi tự tử chết.” Chiều tối, chúng tôi hỏi bốn người hồi sáng đi chôn Dũng và Được thì biết rằng xác hai anh đầy vết tím bầm, mắt của Được bị sưng tím đen, mặt Dũng thì máu đóng cứng. Hai anh có lẽ chết vì những vết thương ở đầu, máu dưới tóc cứng khô, cạy mãi không được. Khi bó xác, bốn người phải ký giấy chứng nhận các anh tự tử mới cho phép chôn.

III. Người phải lên tiếng nói…

Trong thời gian dài chiến tranh nơi Miền Nam, dẫu trên chiến địa hung hãn, bản thân chúng tôi chưa hề thấy lính Miền Nam hành hạ tù binh, đừng nói tù binh bị thương. Một trong những bức hình nổi tiếng của Nguyễn Ngọc Hạnh, có một tấm ảnh ít người kể ra: Cảnh một lính Dù vác thương binh Việt cộng ở mặt trận Chợ Lớn hồi Mậu Thân, 1968. Thế nhưng, bức hình Tướng Loan bắn tên đặc công lại được phổ biến khắp cùng báo Mỹ và thế giới. Hình như tác giả tấm hình đã có giọt nước mắt muộn màng hối lỗi. Quả thật, thế giới đã từ lâu im lặng đồng lõa cùng tội ác ở Việt Nam một cách quá đỗi hèn hạ và bất công. Phải, người phải lên tiếng nói, nếu không, sự im lặng sẽ là một biểu lộ cứng lòng nhẫn tâm đáng kết án. Thế nên, trong những năm qua, từ tây sang đông thế giới đã hằng có những tấm lòng xa xót cùng nỗi đau của người lính thương trận nơi quê nhà… Nhưng quả thật, tất cả đóng góp nầy chỉ mới là phần cứu nạn khẩn cấp, chứ so cùng thống khổ vô vàn kia vẫn còn rất nhiều thiếu sót.

Và kỳ diệu thay, nguồn mạch Tình Thương Việt Tộc – Nghĩa Đồng Bào luôn tồn tại sắt son liên lụy mối đau thương kia đã chạm tái tim người – Những người không tham dự cuộc chiến, chưa hề mặc áo lính, nhưng lương năng khởi động từ trái tim xót đau – Trường hợp người tuổi trẻ, Bác Sĩ Phan Minh Hiển – Một của những gương mặt hãnh diện đích thực của cộng đồng Người Việt Hải Ngoại với những đóng góp nhiệt thành tích cực, hiệu quả trong hàng loạt công tác suốt hơn hai mươi năm qua là một điển hình… Cứu cấp người vượt biển, mất tích, trên biển Đông; cứu trợ người tỵ nạn ở các đảo, ở Pháp; giúp trẻ mồ côi, gia đình nghèo khó, người tàn tật (chủ yếu ở Miền Nam), và cuối cùng, khi những thành phần vừa kể tạm có đời sống ổn định, Phan Minh Hiển dồn nỗ lực yểm trợ với đối tượng Thương Phế Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, thành phần hứng chịu khổ nạn nặng nhất, sớm nhất từ cuộc chiến, mà dẫu quê hương đã im tiếng súng hơn hai mươi năm, nỗi cùng khổ kia vẫn chưa có dấu hiệu được bù trừ, như phần cơ thể mất đi không thể tái sinh, như người chết không hề sống lại. Chúng tôi đã là một thế hệ thất bại, nhưng chúng tôi không hề thất vọng bởi luôn giữ vững mối tự tin. Chính chúng tôi chứ không ai khác, là Người Lính thuần thành hằng thực hiện sứ nhiệm BẢO QUỐC AN DÂN. Sự xác chứng nầy hiện thực trong lòng mỗi người dân và chiến hữu chúng tôi xứng đáng nhận lãnh lòng tri ân, phục hồi danh dự và nhân phẩm, bởi chính họ là những Chủ Thể góp máu, xương trong ý nghĩa thực tế, cụ thể nhất để Miền Nam đã một lần sống động dân chủ, tự do – tự do được trả giá bằng đời sống đã mất đi theo tuổi trẻ, hy vọng và sự sống của chính mỗi người lính.

Người Lính QLVNCH Phan Nhật Nam
tapchithegioimoi.com
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 19701)
"Và từ đó chúng tui đi nhà thờ mỗi Chủ Nhật. Cám ơn Chúa . Cầu nguyện cho Má mau hết bệnh. Cầu nguyện cho mấy chị em có công ăn việc làm. Các cô chú trong nhà thờ đối xử rất tốt với tui ,không ai nhìn màu da tui mà khinh khi hết.Tui vui lắm khi mọi người cứ kêu "Amy, đến phụ cô làm cái này đi ! Amy, ăn chút gì cho có sức rồi hẵn làm chứ cháu
18 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 19376)
Vợ tôi thường tuyên bố chắc nịch, "không con mèo nào lại chê mỡ". Tôi cũng là một con mèo háu đói, nhưng những miếng mỡ chung quanh đều do vợ dăng bẩy. Ngu gì mà mắc bẫy. Cái tiền lệ của ngày hẹn hò đầu tiên tôi đã vượt qua dễ dàng, nhưng lúc đó khác, bây giờ khác. Đã biết mỡ heo ngon tự nhiên cũng tò mò muốn nếm mỡ gà, mỡ bò... Tò mò chút thôi, chớ ngu gì mà bỏ nhà đi làm mèo hoang! Thỉnh thoảng tôi làm mèo hoang trong mơ mà thôi.
17 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 22257)
Mỗi khi gặp gỡ một ánh mắt nhìn thân thiện, tôi luôn cảm thấy như được sưởi ấm. Và tôi tin rằng ai cũng có cùng một cảm nhận tương tự từ những cử chỉ thân ái nhỏ nhặt từ người khác. Thực tình mà nói, ngọn nến không khó để thắp lên, vấn đề là tôi có đủ can đảm bỏ bớt thì giờ dành riêng cho mình để bước ra hòa mình và chia sẻ với người khác hay không. Một Lễ Giáng Sinh trọn vẹn không thể không có thật nhiều những ngọn nến yêu thương như thế.
15 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 25968)
Xanh luôn luôn là một con người đáng ngưỡng phục. Và giờ đây anh còn là một công dân Mỹ đáng quý. Tôi cám ơn trời đã cho tôi gặp được một người bạn như Xanh
14 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 20168)
Đêm đã sâu hơn, ngồi chong mắt lên màn hình vi tính, quê hương thu về một cõi lòng đau đáu, kịp nhận ra còn có những anh em đang “lẻ loi như cây rừng đông, từng phen chết trong bão bùng,” mà vẫn dìu nhau qua hết những con đường đi tìm lại chút hơi người.
12 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 23552)
Làm người lương thiện ở Việt Nam khó hơn làm tiến sĩ cả vạn lần. 100 người bảo vệ luận án tiến sĩ hầu như đạt cả 100. Nhưng 100 thằng tù mà trở về xã hội, may lắm chỉ có 1 hay 2 thằng trở thành người tử tế, nghĩa là tìm công việc tử tế sống cuộc đời lương thiện đến cuối đời.
07 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 23801)
Người miền Nam có câu nói ám chỉ một sự việc xa vời, vô định, vô vọng và chìm sâu vào tuyệt vọng: “Mút chỉ cà tha”. Những tưởng học tập cải tạo 10 ngày để rồi trở về với cuộc sống bình thường hàng ngày, ai ngờ đã qua 10 ngày mà vẫn thấy chưa học tập được một chữ nào! Thế cho nên chúng tôi bảo nhau: “Kiểu này học tập... mút chỉ cà tha!”
06 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 20132)
Tao phải đề nghị cái thằng viết bức thông cáo kêu gọi quân nhân “ngụy” đi trình diện học tập cải tạo sau ngày 30/4/75 được lãnh giải Nobel về văn chương láu cá
06 Tháng Mười Hai 2011(Xem: 21680)
thực trạng xã hội diễn ra hằng ngày và cũng là cách để anh sống với chính mình.Bùi Trung Việt nói: “Tự do, đó là thứ tôi đang có được, bởi tôi đi bán khoai lang chứ không phải đang ngồi trong Luật Sư Đoàn!”
30 Tháng Mười Một 2011(Xem: 19300)
tôi cũng sẽ đặt một cái cân và cây thước trước cửa nhà.Tôi sẽ tiếp nối công việc của cha,tôi cũng sẽ là người cân đo tội ác và thời gian của cộng sản Việt Nam./.
30 Tháng Mười Một 2011(Xem: 20875)
Tất cả là duyên, là nghiệp hay nói nôm na là cái số. Phật ở trong tâm của ta. Phật ở trong tất cả hành động sinh hoạt hàng ngày. Phật ở tất cả mọi nơi. Điều quan trọng nhất là tâm hồn phải vị tha, luôn thành tâm hướng thiện. Mọi việc đã có tạo hóa an bài…
26 Tháng Mười Một 2011(Xem: 18842)
Đối với người tị nạn Việt Nam, có lẽ chưa có câu chuyện nào cảm động bằng cuộc hội ngộ của hai cha con ông Trương Văn Hào, sau 34 năm xa cách. Khi biết tin, phóng viên nhật báo Người Việt đã liên lạc được với ông Hào và được ông kể lại câu chuyện sau đây. Nhân ngày Lễ Tạ Ơn năm nay, nhật báo Người Việt đăng câu chuyện này để độc giả cùng suy ngẫm.
24 Tháng Mười Một 2011(Xem: 18686)
bởi lỡ mai này, những người thương của chúng ta không còn nữa, thì ngày Lễ Tạ Ơn sẽ có còn ý nghĩa gì không? Xin cho tôi được một lần, nói lời Tạ Ơn: Cám ơn lắm, cuộc đời này.
21 Tháng Mười Một 2011(Xem: 20303)
Một câu chuyện thật xót xa ... Cô gái lái xe đã hành động đúng : Trả cho mọi người trong xe cái mà họ đáng được : Đến chỗ...Không có loài người , nơi chỉ tồn tại những linh hồn "không có trái tim" !!
20 Tháng Mười Một 2011(Xem: 20346)
người nghệ sĩ mà chúng tôi muốn nói đến trong bài viết này là một thiếu nữ Việt Nam trẻ đẹp, sinh ra và lớn lên ở Hoa Kỳ sau 1975 trong một gia đình tỵ nạn, từng làm nghề đánh cá ở một làng chài lưới tại Quảng Ngãi trước tháng Tư 1975
17 Tháng Mười Một 2011(Xem: 20298)
Không còn lầm được. Không còn ảo tưởng:"Đã trốn trại, còn đang ẩn trốn tại một nơi nào." Tôi mất anh thật rồi! Thế là hết. Tôi khóc nức lên. Trời như nổi gió. Cỏ cây chao đảo. Đồi núi quay cuồng. Quanh tôi cảnh vật mờ đi...
11 Tháng Mười Một 2011(Xem: 18570)
Chuyện cây cầu treo năm ấy là bài học quí giá dạy cho con người đức tính khiêm cung, biết được thân phận nhỏ nhoi của mình có nghĩa lý gì đâu, so cái lớn lao vô cùng trời đất.
28 Tháng Mười 2011(Xem: 19126)
Người lính Trạch Gầm cũng có vài ba mối tình, cũng có lúc “khi lính đã yêu rừng tàn núi lở”. Nhưng , từ cổ chí kim ,tôi chưa thấy ai “mày tao” với người tình như ông thi sĩ lính này.
28 Tháng Mười 2011(Xem: 17821)
Vẫn tấm bảng đó,nhưng hàng chữ đã đổi khác “Ủy Ban Nhân Dân Huyện Giáo Đức”. Cột cờ giữa sân vẫn còn đó, nhưng lá cờ vàng ba sọc đỏ bay phất phới ngày nào không còn nữa mà đã bị thay thế bằng một lá cờ khác
26 Tháng Mười 2011(Xem: 19657)
Hỡi ơi ! Người đàn bà tài hoa ấy có lẽ cũng đã nhận ra rằng : Tài và sắc vốn là một mối lụy của kiếp nhân sinh. Cho nên mới không làm thơ nữa. Để làm vợ -một người vợ bình thường như mọi người vợ khác.
18 Tháng Mười 2011(Xem: 19436)
Thời gian trôi theo sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật . Nguời ta đã chế tạo ra nhiều thứ. . . . kể cả nguời máy , nhưng có một thứ họ không chế tạo được là trái tim người mẹ
17 Tháng Mười 2011(Xem: 21244)
Nhưng hôm nay , ở cái tuổi không còn trẻ nữa , khi mái tóc không còn xanh nữa , sau những vật chất phù hoa tôi đã nếm biết bao vị đắng , trải qua bao phũ phàng của tình nghĩa vợ chồng .
08 Tháng Mười 2011(Xem: 23768)
Hôm nay, hít thở không khí tự do nơi đất nước tạm dung, hồi tưởng lại quá khứ, chiến trường Phước Long, kiếp lưu đầy tù tội nơi lam sơn chướng khí Việt Bắc, những ngày đói khát không có lấy một chén cơm cho đủ no để chống với cái lạnh cắt da, cô đơn không người thăm hỏi, và biết bao muôn vàn những cay đắng tủi hờn trút đổ thù hận trên người chiến sĩ Quốc Gia sa cơ thất thế.
05 Tháng Mười 2011(Xem: 20739)
Và còn nữa, ngồi để nhìn cho rõ cái cô đơn trống vắng của tuổi hoàng hôn trong bước lưu đày. Mầy biết không, có ông tráng sĩ nào đó ngửa mặt lên trời than “ Ôi thời oanh liệt nay còn đâu “ thì được đấng phu quân an ủi ngay “ Oanh không có, nhưng có liệt !”
25 Tháng Chín 2011(Xem: 20310)
Chinh chiến đã tàn, Việt kiều vượt biển vượt sông. Việt cộng thắng Tây thắng Mỹ. Liệu chữ “Việt” chung nhau ấy có đủ lấp nổi giòng Bến Hải li ti ở trong tâm mỗi người tự nhận là người Việt?
15 Tháng Chín 2011(Xem: 18786)
Tháng chín gió Thu bắt đầu thổi lạnh. Buổi sáng ra sau vườn, vợ tôi nhắc tôi phải khoát thêm chiếc áo ấm để phòng cái thân đang... về già. Sau hè nhà tôi có trồng một hàng phong rậm lá. Sáng nay, nhìn những chiếc lá thu mới úa, chưa vàng run rẫy trong gió sớm làm tôi nhớ những mùa thu đã đi qua ở bên nhà.
12 Tháng Chín 2011(Xem: 21041)
Tôi yêu đất nước này nhưng ở trong một sự so sánh tôi vẫn chưa hiểu biết hết tận tường ân sủng này như thế nào. Cảm xúc, tạ ơn, tình yêu của gia đình người tị nạn này
10 Tháng Chín 2011(Xem: 20665)
Ông nội hy vọng rằng, môt ngày nào đó sẽ được gặp cháu. Nếu mẹ cháu nghĩ lại và muốn tiếp xúc với ông nội, hãy gọi điện thọai nhắn tin với Tòa báo Việt Luận, rất gần nơi cháu đang ở. Ông nội đang mong tin cháu.
06 Tháng Chín 2011(Xem: 19599)
Nhưng dầu là cách nào, tôi thực sự cũng cám ơn cơ duyên này. Vì nhờ đó mà tôi có được một tri âm trong phần đời còn lại của mình, trên thế gian này, giữa dòng đời xa lạ hôm nay.
04 Tháng Chín 2011(Xem: 23547)
Cuối cùng rồi thì người tốt kẻ xấu, người ngay kẻ gian cũng phải ra đi, nhưng không phải cái chết nào cũng giống cái chết nào, thiên đàng, địa ngục không ở cùng một nơi.
17 Tháng Tám 2011(Xem: 21336)
Sáng mai tôi lại lên lớp giảng về truyện Kiều. Kìa tại sao những dòng chữ trên giáo án mờ dần, mờ dần... Một giọt nước mắt nóng hổi không cầm được của tôi đã rơi xuống, đọng lại và thấm sâu vào trang giấy trắng.
14 Tháng Tám 2011(Xem: 18562)
Nhân dịp lễ Vu Lan, xin mời các bạn nghe nỗi lòng của một người con khi phải đưa mẹ vào Viện dưỡng lão. Trong tương lai một ngày gần đây, rồi cũng sẽ đến lượt chúng ta phải vô viện dưỡng lão, xin đừng trách con cái nếu là trường hợp vạn bất đắc dĩ , bởi vì chúng nó cũng đau lòng lắm nhưng không thể làm khác hơn được, nhưng miễn là đứa con không quên bổn phận thăm nuôi những ngày sau đó..
03 Tháng Tám 2011(Xem: 19687)
để ông được làm: MỘT MỘ PHẦN BÊN NGÀN CHIẾN HỮU CỦA TÔI. NGƯỜI VIỆT CỦA TÔI, NGƯỜI TƯỚNG LÃNH CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA CỦA TÔI LÀ THẾ ĐẤY.
02 Tháng Tám 2011(Xem: 20672)
Biết lấy gì để đền đáp công ơn anh đây? - Người anh em của tôi ơi, tôi mới phải là người cảm ơn anh. Chính anh đã cho tôi hạnh phúc lớn lao. Chính anh đã giúp tôi thoát khỏi cái con vợ yêu tinh của tôi đấy!
28 Tháng Bảy 2011(Xem: 19363)
“Học vấn không phải là vấn đề không quan trọng trong cuộc sống vợ chồng, nhưng điều quan trọng nhất đối với Hòa, đó là tình yêu thương lẫn nhau; vì nếu không thật sự yêu thương, thì không thể vượt qua được những chướng ngại của cuộc sống
26 Tháng Bảy 2011(Xem: 18767)
Vậy mà hôm tao phải liệng súng đầu hàng vào cuối tháng tư 75, tao nghe đau điếng như vừa lãnh một viên đạn. Lần đó, tao không đánh giặc vậy mà tao lại bị thương, bị thương ở trong lòng.
17 Tháng Bảy 2011(Xem: 17265)
Anh đã trả gía cho cơn sốt tình ấy 10 ngàn đô la, qúa đắt so với “gía cả” bình thường của cô Nâu “đi” với những người đàn ông khác, và suýt nữa bằng cả sinh mạng của anh và vợ anh, cũng như tương lai của hai con sẽ ảnh hưởng không biết tai hại đến chừng nào.
03 Tháng Bảy 2011(Xem: 20885)
Ngoài song thân ra, người tôi biết ơn nhiều nhất là vợ tôi. Đời sống tôi có ý nghĩa hơn, sung sướng hơn, hạnh phúc hơn nhờ vợ khôn ngoan dịu dàng .Nhiều đêm thức giấc tôi nhẹ hôn lên mắt vợ,
29 Tháng Sáu 2011(Xem: 18618)
Anh thầm thì: xin hãy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây biết bao chia lìa, tang tóc, và sự thù hận giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài cho đến bao giờ?
19 Tháng Sáu 2011(Xem: 19040)
Tôi buông ống nghe, thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ như muốn tìm kiếm một điều gì. Trời mùa đông Bắc Âu phủ đầy tuyết trắng, nhưng sao trước mắt tôi đang lung linh bầu trời xanh bao la của cả một thời tuổi thơ. Cái thuở ba thằng chúng tôi vui đùa nghịch ngợm, trong lòng chưa hề vướng bận chuyện chiến tranh kéo theo bao cay đắng cuộc đời.
19 Tháng Sáu 2011(Xem: 17516)
Trước 1975, tác giả từng viết nhiều truyện ngắn trên bán nguyệt san Tuổi Hoa, và các truyện dài xuất bản bởi Tủ Sách Tuổi Hoa. Sau 30/4/1975, Cam Li không viết nữa, chỉ chuyên làm công việc nghiên cứu khoa học. Định cư tại San Jose từ 2003, sáu năm sau cô góp nhiều bài viết giá trị . Bài mới nhất của tác giả dành cho mùa lễ Father’s Day 2011.
09 Tháng Sáu 2011(Xem: 19183)
Và trong khi cô tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời qua ánh sáng chiếc màn ảnh điện thoại, bà cụ ngồi ở băng sau đã trở nên vô hình, và cô đã không thể trông thấy những giọt nước mắt của bà.
30 Tháng Năm 2011(Xem: 19365)
trên vách tường cũ vẫn treo tấm giấy khen “Anh hùng diệt Mỹ” đóng khung, lồng kính và đã bạc màu hoen ố theo thời gian của anh Siêu không còn nữa, mà thay thế vào là khung hình mới tinh, trên bức tường cũng mới tinh, hình gia đình cô Lạc, cô với người chồng Mỹ
28 Tháng Năm 2011(Xem: 21356)
Bởi vì chúng ta có mắt, cho nên khi chúng ta nhìn người, chỉ dựa vào cảm giác của mắt, mà quên dùng trái tim. Đúng như người vợ mù đã nói, "Con mắt của trái tim mới sáng nhất, thật nhất!"
24 Tháng Năm 2011(Xem: 18317)
nghiệp do chính con người tạo ra, bất định tính nên nghiệp có thể chuyển hóa được. Do đó, con người có thể thay đổi, chuyển hóa nghiệp báo của mình từ xấu thành tốt, từ ác thành thiện hoặc ngược lại
23 Tháng Năm 2011(Xem: 20207)
ôi nhớ mỗi năm khi ngày "Mother's Day" đến, các ông thường kiếm cớ “em là vợ anh chứ có phải là má anh đâu mà anh phải mua quà."(Câu này tôi nghe quen quen quí vị ạ )
21 Tháng Năm 2011(Xem: 17944)
Làm sao mẹ tôi có thể sống thiếu tôi! Tôi là nguồn sống của bà mà! Tất cả sinh lực, ý chí phấn đấu trước kia là vì tương lai của tôi, là vì tôi! Không có tôi bên cạnh, không có đứa con trai thương yêu của bà bên cạnh
18 Tháng Năm 2011(Xem: 20311)
Mỗi ngày, trong nắng ấm, nhìn biển trời, nghe sóng biển rì rào, Lang da diết nhớ về Nha Trang, về những ngày tuổi thơ cùng với gia đình, thầy bạn, và hồi tưởng về một quá khứ với biết bao thăng trầm biến đổi của quê hương, của gia đình và của cả một đời người.
06 Tháng Năm 2011(Xem: 19763)
đằng sau sự tỏa sáng của một người đàn ông Việt Nam thường là cái bóng thầm lặng của một người phụ nữ.Mời quí độc giả nghe con gái của nhà văn Doãn Quốc Sỹ kể lại cuộc đời thầm lặng của mẹ mình nhân ngày Mother Day…
04 Tháng Năm 2011(Xem: 19801)
Hôm nay là ngày giỗ mẹ, tôi viết những dòng này là tâm sự của một người con suốt đời không có mẹ ở bên và thành kính dâng lên hương hồn mẹ như một nén nhang thắp muộn.