11:37 SA
Thứ Năm
28
Tháng Ba
2024

RƠI TRÊN ĐẤT ĐỊCH - Nguyễn Hữu Phước phóng tác

05 Tháng Tư 20166:27 CH(Xem: 13707)

                                                                                      RƠI  TRÊN ĐẤT ĐỊCH


 *Chuyện thật xảy ra trong chiến tranh Việt  Nam

 Trong cuộc  chiến chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam trước đây, bên  cạnh những chiến tích hào hùng, những tấm gương can đảm của người quân nhân QLVNCH, chúng  ta cũng không thể không   nói đến sự chiến đấu của người bạn  đồng minh.  Họ là những quân nhân đã vượt ngàn dặm để  chiến đấu tại một vùng đất xa lạ chỉ vì  lý tưởng bảo vệ tự do. Có những người ra đi  để rồi không bao giờ trở lại, nhưng cũng có  người may mắn sống sót. Và một trong những  người may mắn nhất phải là Đại úy Locher của   Không lực Hoa Kỳ.

  Sau đây mời quý bạn theo dõi câu chuyện về  Đại úy Roger Locher, một sĩ quan phi hành, kiêm  chuyên viên vũ khí, đã từng tham dự nhiều phi  vụ trên không phận Bắc Việt trong chiến tranh  Việt Nam.  Locher thường bay trên loại phi cơ phản lực F-4  Phantom và đã hạ được nhiều phản lực MiG  của địch trước khi chính phi cơ của anh bị  bắn hạ trên không phận Bắc Việt. Anh tìm cách lẩn trốn và sau 23 ngày đã được toán cấp cứu bốc ra khỏi miền Bắc một cách an toàn.
  Tên tuổi của Locher được ghi lại với một  kỹ lục trong cuộc chiến Việt Nam: Sống sót và  được cứu thoát sau 23 ngày kẹt trong lòng  địch.
Trong khi đang đu đưa với chiếc dù lơ lửng trên  bầu trời phía Tây Bắc, cách Hà Nội 40 dặm,  Đại úy Locher vẫn chưa thể tin đó là sự  thật: mình bị bắn rơi. Tương tự như những người đi bay khác, anh không bao giờ nghĩ rằng  chuyện đó có thể xảy ra cho mình.
Nhưng nó đã xảy ra. Một cảm giác nghẹt thở  vì sự sợ hãi, bơ vơ đến càng lúc càng rõ  rệt. Hai chiếc MiG màu bạc bóng loáng lướt qua  phía trên Locher ở cao độ 10,000 bộ. Rồi những  đám rừng cây hiện lờ mờ phía dưới. Anh đáp  xuyên qua những ngọn cây và cuối cùng   đôi bốt đã chạm đất…
Roger Locher là một sĩ quan trẻ mới 25 tuổi, vóc  dáng cao lớn. Anh cất cánh vào sáng ngày 10 tháng > 5 năm 1972 từ một căn cứ không quân bên Thái  Lan. Mục tiêu: Hà Nội. Nhiệm vụ: ngăn chận và  tiêu diệt các phi cơ MiG của địch trước khi  chúng có thể tấn công các   oanh tạc cơ của Hoa Kỳ.
 Đây là phi vụ thứ 407 của Locher. Anh ngồi ghế  sau của chiếc chiến đấu cơ phản lực F-4  Phantom hai chỗ ngồi, có nhiệm vụ điều khiển  hệ thống vũ khí gồm các loại hỏa tiển, đại  bác và bom. Trước đó không lâu, Locher đã bắn  hạ được hai chiến đấu cơ MiG-21 của   không quân Bắc Việt.
 Lúc này, trước mặt Locher về phía Tây Hà Nội, một chiếc MiG đang nhào xuống một chiếc Phantom.  Anh khai hỏa hai hỏa tiển không-đối-không, chiếc MiG bốc cháy. Thêm hai chiếc MiG nữa bị  các Phantom của Hoa Kỳ bắn hạ trước khi người  phi công lái chiếc Phantom   của Locher thét lên : Chúng mình bị trúng đạn  rồi !
Khi ngọn lửa đã lan dần và chiếc Phantom không  còn kiểm soát được nữa, lao đi vùn vụt, Locher  hét lên : Tôi sắp sửa rời phi cơ. Rồi anh kéo  mạnh cần máy tống, sau một tiếng ‘ bụp’  khô khan, thân người anh bị bắn văng ra không  gian và anh ngất đi vài giây đông hồ…
 Sau khi chạm đất, Locher đã hoàn toàn tĩnh táo.  Anh biết chắc hai chiếc MiG vừa bay ngang đã liên  lạc vô tuyến thông báo cho các lực lượng  dưới đất biết về vị trí của mình. Cái dù  của Locher bị vướng trên những cành cây mà anh  không thể kéo ra được sẽ khiến   địch xác định được vị trí một cách dễ  dàng. Locher vội vã tháo dù ra khỏi người và  bắt đầu di chuyển một cách khó nhọc, tiến  lên phía sườn núi. Anh cẩn thận không để lại  một dấu vết sau những bước chân của mình.
Khoảng mười phút sau, Locher thở thật khó khăn, cảm thấy chóng mặt, đôi chân mềm tựa như  cao-su, hai bàn chân lạnh ngắt. Anh nghĩ thầm ‘ Mình bị shock. Hãy dừng lại. Bình tĩnh. Hãy bắt  bộ óc mình hoạt động’. Rồi anh bò sâu vào  cánh rừng đầy cây lá rậm rạp và   nằm rạp xuống theo tư thế đôi chân cao hơn  đầu.
Nghĩ đến tình trạng nguy hiểm hiện tại, Locher  biết rằng mọi việc đang diễn ra một cách tệ  hại. Vị trí anh đang ở quá xa về hướng Bắc.
 Điểm gần nhất mà anh có thể dùng máy liên  lạc cấp cứu loại bỏ túi với các phi cơ bạn  đang bay trên bầu trời là 90 dặm về phía   Nam. Locher tính toán: 90 dặm! Tìm cách lẩn  trốn và bám chặt theo sườn núi, làm sao đi bộ  ít nhất hai dặm trong một ngày, trong vòng 45  ngày, không lương thực và trên một địa thế  hoàn toàn xa lạ. Nhưng bắt buộc phải cố gắng. Nếu kẻ thù có bắt được mình thì  cũng thể để chúng bắt được một cách dễ dàng!
 Locher lấy bình nước từ trong áo cấp cứu mặc  trên người và từ từ uống hết một nửa, sửa  lại cái nón lưới chống muỗi đội trên đầu,  rồi với một cái địa bàn cầm tay và bản đồ  hướng dẫn, anh thận trọng khởi hành về  hướng Tây Nam. Sau mỗi bước chân, anh phải xem  xét lại để xóa bỏ mọi dấu vết của đôi  giày bốt, của những cành cây nhỏ bị đạp  gẩy và tất cả những dấu vết khác có thể  làm lộ tung tích của mình.
Tới trưa, đang đi bỗng Locher khựng lại, chết  điếng. Từ phía trước mặt có những tiếng réo  gọi nhau và những tiếng la hét như giận dữ  tiến thẳng về phía anh. Anh vội vã bò sâu vào  một bụi cây và nằm yên, trong lúc bọn người  lùng sục tiến đến càng lúc càng gần.
 Locher bỗng nhớ lại thời niên thiếu của mình  ở vùng quê Sabetha, tiểu bang Akansas, nơi mà anh  thường chơi trò giả làm vịt trời trốn trong  bụi lau, cố gắng ẩn náu, để người thợ săn  đang đến gần không thể phát  giác. Locher nhủ  thầm: Hãy thở thật nhẹ, đừng đầu   hàng…Mồ hôi đổ ướt lưng, anh thầm cầu  nguyện. Mũi anh có thể ngữi thấy cả mùi thuốc  lá của những người đang sục sạo chung quanh.  Có lúc tiếng chân người bước qua sát chổ anh  đang ẩn nấp…
Ngày kế tiếp, sự việc trên lại tái diễn.  Nhưng lần này, ngoài tiếng người la hét, Locher  còn nghe thấy tiếng súng nổ. Anh nghĩ thầm: Họ  đang tìm cách làm mình phải rời khỏi chổ ẩn  nấp, giống như xua đuổi một con vịt trời bay  ra khỏi bụi để bắn. Mình phải nằm   yên. Họ có đạp lên mình mới mong tìm thấy…
 Kẻ thù đã suýt chút nữa thì làm được viêc  đó: Locher nghe thấy tiếng cành lá bị nghiền  nát bởi bước chân người, sau đó hai người  đàn ông với súng tiểu liên trên tay tiến tới  cách chỗ anh chỉ có vài mét và…ngồi xuống  nghỉ mệt. Một lúc sau, họ bỏ đi. Tiếp theo   là một sự yên lặng rất đáng nghi ngờ. Họ  bỏ đi thật hay gài bẩy chờ con chim bay ra khỏi  cành? Locher quyết định tiếp tục nằm im tại  chổ cho đến hết ngày, thỉnh thoảng chỉ dám  duổi nhẹ chân tay, để cho các bắp thịt đỡ mỏi.
Sang ngày thứ ba, Locher thử mở cái máy liên lạc  dò tìm tần số cấp cứu và anh đã bắt được  đối thoại của những phi công đang bay tìm kiếm  một nhân viên phi hành vừa bị bắn rơi. Nhân  viên này báo cáo rằng kẻ thù đang theo đuổi  ông ta, đã rất gần và yêu cầu nên   oanh tạc vị trí của mình. Ông ta đã chọn lựa  cái chết hơn là bị cầm tù!...
Tín hiệu yếu dần, Locher tắt máy liên lạc. Sau  đó anh nghe thấy tiếng nói chuyện của những  tên cộng sản đang đi truy lùng mình, cách chỗ  anh ẩn nấp khoảng 200 thước… Cái gì thế này? Locher vừa thắc mắc tự hỏi vừa tìm cách  tống khứ những con vắt đang lợi dụng   tình thế ngặt nghèo này để tấn công cổ và  cườm tay của anh. Rồi Locher nghĩ thầm: Trong ba  ngày qua mình đã không đi đưọc quá một dặm. Có thể mình sẽ không thoát khỏi nơi này. Nhưng thôi, cứ hãy cố gắng xem mình sẽ trì hoãn bao  lâu cái kết cuộc không thể   nào tránh né được.
Sang ngày thứ tư, mặc dù phải bước đi một  cách mệt nhọc, Locher vẫn kiên trì men theo sườn  núi, lên xuống hết ngọn đồi này tới ngọn  đồi khác. Nước không thành vấn đề. Trời mưa  cách đêm, và vào buổi sáng anh phải hong quần  áo cho khô, cẩn thận tránh không để   cho giầy và vớ bị hôi thối.
Nhưng Locher không có lương thực. Anh đã thử ba  loại trái cây rừng. Lúc đầu gậm nhấm một chút ít, rồi chờ khoảng nửa giờ xem phản ứng  cơ thể ra sao. Kết quả, anh thấy những loại  trái cây này không có hại. Nhưng số lượng tìm được cũng chẳng bao nhiêu…
Locher có thể cảm thấy sức lực trong người  mình sa sút một cách rõ rệt theo từng ngày. Điều này rất dễ dàng đưa đến sự chấp  nhận đầu hàng. Không, nhất định không. Locher  tự nhủ mỗi ngày. Hãy để cho kẻ thù phải  khổ công tìm kiếm mình!
Ngày thứ 12, sau khi trời hừng sáng, Locher tìm  thấy một con đường mòn khá tốt dẫn về  hướng Nam. Đối với Locher, con đường này thật  tuyệt hảo, vì anh không còn phải dùng sức  nhiều như khi đi xuyên rừng. Bất chợt, Locher  nghe thấy nhiều giọng nói đang tiến gần  về phía mình. Những đứa trẻ chăn trâu đang  lùa trâu về phía cánh đồng cỏ. Locher vội nhào  vào một bụi rậm, bò đi cách đường mòn vài  thước và nằm im. Nhưng những con trâu đã dừng  lại gặm cỏ bên vệ đường, có con chỉ cách  chổ chàng nằm vài thước. Thời gian trôi   qua một cách chậm chạp, hành hạ Locher trong khi  anh nằm im giờ này qua giờ khác.
Mãi tới gần hoàng hôn, Locher mới nghe thấy  tiếng bọn trẻ gọi nhau, anh nghĩ: chúng bắt  đầu lùa trâu về làng! Anh nghe thấy tiếng thở  hồng hộc của từng con trâu và tiếng roi của  bọn trẻ quất trên lưng những con vật để thúc  chúng đi về. Một con trâu giận dữ   khịt mũi, đạp chân vào một cành cây sát chỗ  Locher nằm, khiến cành cây này đập mạnh vào  mắt cá chân. Anh há hốc miệng vì đau, nhưng cố  giữ không cho âm thanh thoát ra. Sau khi con trâu đi  qua, lại tới đúa bé dẩm lên cành cây hồi nãy,  khiến nó đập xuống đùi   Locher. Cuối cùng là sự im lặng.
 Sau khi trời tối, Locher lén đi bọc vòng quanh  làng và tiến lên phía sườn núi để do xét tình  hình chung quanh. Rồi anh lấy lá cây xếp thành  một cái giường để ngủ. Thỉnh thoảng anh lại  thức giấc, để tống khứ những con vắt đang  hút máu mình. Mỗi con để lại một   vết đau. Sau đó một trận mưa đổ xuống.
 Trời sáng, Locher vừa sưởi nắng cho khô quần  áo, vừa nghiên cứu cẩn thận lại bản đồ,  rồi đi tới một kết luận kinh hoàng…là trong  12 ngày qua, anh chưa đi được quá 10 dặm đường  chim bay! Nếu vẫn còn ở khu vực phía Bắc quá xa  này, anh không có hy vọng được cứu  thoát. Phải tiếp tục đi về phía Nam. Nhưng từ  đây ra đồng bằng sông Hồng, với bề rộng  chừng 20 dặm, khó lòng mà tìm được nơi trú  ẩn khi hữu sự.
 Không biết phải giải quyết ra sao, Locher đành  ở lại vị trí ẩn náu của mình. Ngôi làng  trải dài khoảng 500 mét dưới chân núi, và Locher  có thể nghe thấy tiếng kẻng hàng ngày. Kẻng  báo thức buổi sáng, kẻng đi làm, kẻng nghỉ  giải lao, kẻng ăn trưa.v.v…
 Ngày lại ngày trôi qua. Tới ngày thứ 20, Locher  biết mình đã phí công sức. Anh sờ xuống đôi  mông và cảm thấy chỉ còn da bọc xương. Đầu  óc anh trống rỗng và chỉ còn nghĩ tới miếng  ăn. Chỉ có hai giải pháp: một, nằm chết đói  ở đây, hai, là đi xuống đồng bằng  tìm cách lấy trộm thực phẩm.
Nhưng Locher cũng biết rằng, sau khi anh bắt đầu  vượt qua cái thung lũng trống trải để xuống  đồng bằng thì hầu như nắm chắc trong tay việc  bị bắt làm tù binh. Locher nghĩ tới viễn tượng  khủng khiếp khi bị giam cầm và xác định quyết  tâm sẽ tự hành xử một cách   danh dự, không để trở thành tù binh của  địch. Thượng đế đã ban cho anh hai mươi lăm  năm tự do và anh đã tận hưởng.
Vào tối ngày thứ 21, sau khi quyết định sẽ đi  xuống đồng bằng vào trước rạng đông ngày  hôm sau, Locher cảm thấy tâm hồn mình bình thản.  Anh nhìn lên vần trăng vàng từ từ trôi ngang  bầu trời, hít thở mùi vị tươi mát của không  khí và thưởng thức sự cô quạnh của  mình: anh vẫn còn tự do…
Một cơn mưa dài và nặng hạt làm Locher tĩnh  giấc vào buổi sáng ngày thứ 22. Thì ra anh ngủ  quên! Mặt trời đã lên cao. Locher tức giận  với chính mình. Dù đã có quyết định tự hành xử, nhưng anh không thể liều mạng một cách vô  lý, đi ngang qua làng vào giữa thanh  thiên bạch nhật. Thế là lại thêm một ngày  chờ đợi và chiến đấu với đàn muỗi rừng…
Locher vừa thiếp đi thì chợt tĩnh vì những  tiếng đạn. Anh nhìn thấy cả ánh chớp của  những hỏa tiển địa-không được bắn lên từ  ngôi làng kế cận, cách chỗ anh khoảng 8 dặm.
 Địch đang bắn lên các phi cơ Mỹ. Không chậm  trể một giây, Locher vội vã nhấn nút máy liên  lạc cấp cứu và nói: Bất cứ phi cơ Mỹ nào  nghe tên OYSTER ONE BRAVO xin trả lời. (Oyster=tên hiệu anh trong phi vụ;  One=phi cơ dẫn đầu; Bravo=ghế sau)
Sau đó, Locher nhấn nút nhận tín hiệu và nghe  thấy tiếng người trả lời: Go ahead, Oyster One  Bravo
 " Ê anh bạn, tôi bị bắn hạ ở đây đã  hơn 22 ngày. Chuyển tin dùm tôi vẫn bình an"
"Sẽ chuyển và tiếp tục liên lạc"
 Mười phút sau, Locher nghe tiếng trả lời:
 "Toán cấp cứu trên đường đến"
Toán cấp cứu đến liền sau đó nhưng đã bị  các phi cơ MiG và đủ loại phòng không của  địch đẩy lui. Locher tin tưởng một cách tuyệt  đối rằng những người bạn của mình sẽ trở  lại vào sáng hôm sau, và chắc chắn họ sẽ  được địch ‘đón tiếp nồng hậu’.
Thực vậy, suốt buổi chiều và tối, Locher nghe  thấy tiếng xe chở bộ đội tới và tiếng phi  cơ MiG đáp xuống một phi trường gần đó. Như  vậy, địch cũng đoán biết những gì sẽ xảy ra  vào ngày hôm sau. Locher lo lắng không biết sự  việc rồi đây sẽ ra sao…
 Buổi sáng ngày thứ 23, kể từ ngày Đại úy  Roger Locher bị bắn rơi, một lực lượng 38 phi  cơ Mỹ gồm chiến đấu cơ, oanh tạc cơ phản  lực, khu trục cánh quạt, trực thăng cấp cứu  và phi cơ tiếp tế nhiên liệu trên không, cất  cánh từ Thái Lan tới Bắc Việt để cứu người  bị nạn. Đầu tiên, hai phi cơ mở tần số liên  lạc với Locher và xử dụng các máy móc điện  tử để xác định vị trí của anh. Một phi công  nói qua máy: "Chúng tôi đã biết anh đang ở  đâu rồi. Bây giờ anh cứ đúng tại chỗ, chúng  tôi sắp kéo anh ra khỏi nơi này"
Bên dưới mặt đất, Locher lạnh và run rẩy:
 "Xin Thượng đế bảo vệ họ, đừng để ai  bị bắn rơi vì con".
Khoảng 30 phút sau, hai trực thăng xuất hiện.  Trong khi Locher làm dấu hiệu xác định vị trí  của mình bằng kính phản chiếu, một trong hai  chiếc bay về phía anh, chiếc còn lại chờ đợi  tiếp cứu trong trường hợp khẩn cấp. Phía  trên, các chiến đấu cơ vần vũ, gầm  thét uy hiếp tinh thần địch.
 Chiếc trực thăng dừng lại, lơ lửng phía trên  vị trí của Locher khoảng 15 mét và thả xuống  một ‘penetrator’ (dụng cụ có hình trái thủy  lôi, có trọng lượng vừa đủ để làm xuyên  thủng những tàng cây che phủ vị trí Locher đang ẩn nấp).
 Tiếng súng liên thanh đồng loạt bắn ra từ ngôi  làng dưới chân núi, nhưng sau đó đã vội im  tiếng, vì bị trực thăng võ trang trả đũa.
Locher nhào về phia penetrator. Anh nhanh nhẹn kéo  dây an toàn từ penetrator ra nịt vào người, và  banh ba càng ngồi hình mỏ neo ra ngồi vào. Sau đó  anh dơ ngón tay ra hiệu…
 Trong khoảnh khắc, Locher đã được kéo lên và  đưa vào trong thân trực thăng. Lực lượng cấp  cứu trở về căn cứ. Một số MiG của địch bay  lượn ở xa xa, hậm hực chứng kiến mà không  dám lại gần, vì biết không thể địch lại  lực lượng hùng hậu của Mỹ.
 Về phần Đại úy Roger Locher, chuyến bay về Thái  Lan phải là chuyến bay hạnh phúc nhất đời. Lúc  đó anh không thể biết mình đã sút đi gần 15  kí-lô sau 23 ngày hoạn nạn, anh cũng không biết  rằng mình là người sống sót lâu nhất trong số  các phi công lâm nạn và  đã được cứu thoát trong lịch sử chiến tranh  Việt Nam, và dĩ nhiên, anh cũng không thể biết  rằng, cuộc cấp cứu anh là cuộc cấp cứu vào  sâu trong lãnh thổ địch nhất và tất cả đã  trở về an toàn.
Anh chỉ biết có một điều là mình đã được  bạn bè cứu thoát. Họ đã liều chết để cứu  anh. Bây giờ, ngồi trên phi cơ, họ luôn miệng  cười đùa như thể đã quên mất việc mình vừa  đi vào đất địch. Họ không cho Locher một dịp  may nào để nói một lời cảm ơn. Anh chỉ biết  nhìn họ với đôi mắt mở to, với nụ cười  dễ thương, và những giọt lệ từ khóe mắt  tràn ra, rồi từ từ lăn xuống bộ râu rậm của  mình…
    Nguyễn Hữu Phước
 (phóng tác theo nguyệt san  Reader’s Digest)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Năm 2011(Xem: 18434)
Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
27 Tháng Tư 2011(Xem: 19583)
Tôi không nói được gì hết, chỉ gục đầu vào vai vợ tôi rồi bật khóc . Vợ tôi chưa biết những gì đã xãy ra nhưng chắc nàng đoán được rằng tôi phải đau khổ lắm mới phát khóc như vậy. Cho nên nàng vừa đưa tay vuốt vuốt lưng tôi vừa nói, giọng đầy cảm xúc :« Ờ…Khóc đi anh ! Khóc đi ! »
23 Tháng Tư 2011(Xem: 18036)
Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước Việt Nam Cộng Hòa thân yêu của tôi. Tôi để hình tôi trên bàn thờ là coi như mình đã chết theo với nước Việt Nam Cộng Hòa của tôi. Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹ, vợ con
03 Tháng Tư 2011(Xem: 19699)
Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc... đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.... *
23 Tháng Ba 2011(Xem: 20136)
tưởng đã được giải quyết, phân tán người Việt Nam tỵ nạn trên nước Mỹ, nhưng không ngờ Xe đò Hoàng đơn thân độc mã mỗi ngày một chuyến kéo hai thành phố đông dân cư Việt Nam lại càng gần với nhau hơn nữa.
21 Tháng Hai 2011(Xem: 19841)
Già thì già, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc – hạnh phúc hơn một tỷ người khác – cho dù hạnh phúc đó vẫn được họ đếm từng ngày sau mỗi buổi sớm mai thức dậy…
10 Tháng Hai 2011(Xem: 18517)
Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ' Bầu bí một giàn'
04 Tháng Hai 2011(Xem: 19461)
Thế đó, họ bán, họ mua vừa như thật, vừa như “chơi” nhưng ai cũng hăm hở, náo nức. Dường như mỗi người đi chợ đang “bán”, đang “mua” cho mình một nỗi nhớ quê nhà vời vợi.
02 Tháng Hai 2011(Xem: 21363)
Hương thơm của gạo, vị ngọt của cơm lẩn với cát sạn tựa như cuộc đời của những quân nhân QLVNCH nói chung, SVSQTĐ nói riêng đã tự hào vào ngày mãn khóa sau mấy tháng quân trường mồ hôi thử thách đó là hương thơm của gạo. Để rồi chuẩn bị dấn thân vào cuộc đời đầy gian khổ hiểm nguy sống chết khó lường
28 Tháng Giêng 2011(Xem: 20996)
Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt.
21 Tháng Giêng 2011(Xem: 19739)
Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng lòng lắm với những gì mình đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.
16 Tháng Giêng 2011(Xem: 20178)
Thành phố lên đèn, tôi vật vờ vô định thoáng nghe bên tai tiếng dương cầm giai điệu bản "Giao hưởng số chin, cung rê thứ" của L.V. Beethoven mà tôi học ngày nào. Hiện tại, tôi chơi nhạc đám ma. Cái chết - quy luật tất yếu giúp tôi sinh tồn, các giá trị nghệ thuật cao quý chỉ còn là hoài niệm!
02 Tháng Giêng 2011(Xem: 21888)
Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du ...
07 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20691)
Trong cuộc chiến Việt Nam, những chàng pilot nổi tiếng hào hoa ở thành phố. Là thần tượng của các cô con gái đẹp. Nhưng có lẽ ít ai biết rằng, những chàng trai trẻ ấy lại là những chiến sĩ rất hào hùng trên khắp các chiến trường. Bao phen xem cái chết tựa lông hồng.
05 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 21696)
Lâu nay, khá đông người cho rằng thi sĩ Hàn Mạc Tử và nhà giáo kiêm cư sĩ Hoàng Thị Kim Cúc từng có một tình yêu đôi lứa. Lắm sách báo ghi nhận như vậy. Ngay cả lối sống khá đặc biệt của Kim Cúc – suốt đời độc thân, làm thơ tặng Hàn, chẳng chuyện trò điều này với người trong nhà… – càng khiến dư luận nghĩ vậy.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20149)
Hầu hết bạn bè tôi, nếu còn sống sót sau cuộc chiến tang thương đó, kẻ đã phải ra đi trong loạn lạc, ly tan, người thì được ông bạn đồng minh phản bội năm xưa, can thiệp với kẻ cựu thù cho "ra đi trong vòng trật tự" sau nhiều năm bị đày đọa ngục tù, vợ con nheo nhóc, để giờ này mỗi người trôi dạt một phương, mang theo những vết thương không lành được ở trong lòng. Biết đến khi nào chúng tôi mới đuợc như những con chim trane đang tụ tập ca hót líu lo ngoài kia, trươc giờ bay xuống phương nam?
17 Tháng Mười Một 2010(Xem: 20943)
Một câu chuyện thật dí dỏm. Câu chuyện phần nào đã gợi nhớ đến một quảng đời thơ ấu thật êm đềm, hoa bướm ở vùng quê . Phải chi không có biến cố tháng tư 75, cuộc sống của những người dân miền nam hiền hòa chắc chắn là mãi mãi thanh bình, thịnh vượng, và an lành như tác giả "Lấy vợ miền quê" đã mô tả rất chân thật trong câu chuyện
11 Tháng Mười 2010(Xem: 19285)
Bây giờ, nhìn chú Ba nằm đó, tôi lại nhớ câu nói cuối cùng của chú: “Cứ để lá cờ ở đó, trong đầu óc của chú sẽ nhớ mãi hình ảnh lá cờ VNCH tung bay trong gió. Sau này, lá cờ sẽ ra sao? Để tương lai trả lời.”
08 Tháng Mười 2010(Xem: 20132)
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa...
08 Tháng Mười 2010(Xem: 21870)
Mọi người đều đến cõi đời nầy với hai bàn tay trắng, thì lúc ra đi cũng chỉ với hai bàn tay trắng mà thôi. Ai ai cũng đều biết như vậy, nhưng hễ sao mỗi khi nghĩ đến chết thì thấy rờn rợn và hơi lo một chút... Sống sao cho đáng sống mới là việc khó. Đời là vô thường!
07 Tháng Mười 2010(Xem: 27841)
Kính nguyện cầu Đấng Thiên Thựợng Đế tối cao và Hồn thiêng sông núi phù hộ cho toàn dân Việt sớm có ngày "đắc lộ thanh vân", đưa nước Việt lên đỉnh đài vinh quang thịnh trị ngàn đời.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 22570)
Chúng ta thường đi tìm một cái gì bên ngoài để mang lại cho mình hạnh phúc như vật chất, nhà cửa, xe hơi, máy móc, tiện nghi, … hoặc tình cảm gia đình, thân quyến, bạn bè, người yêu, … hoặc danh vọng, địa vị, lý tưởng. Ta khát khao tìm kiếm vì tưởng mình nghèo nàn, thiếu thốn, tâm luôn phóng ra ngoài chạy theo trần cảnh. Trong kinh Pháp Hoa kể thí dụ đứa cùng tử suốt đời đi ăn xin vì không biết trong túi mình có viên ngọc quý, đến khi được người bạn nhắc tỉnh ngộ lấy ngọc ra xài liền hết đói khổ.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 18770)
Tháng 8-1999, tôi dọn nhà đến một căn phòng mới mướn. Trên ngăn kệ cao của closet, người mướn trước để sót lại một xấp “hồi ký” dầy 27 trang viết tay. Đêm đầu tiên ở phòng trọ mới, tôi đọc đoạn “hồi ký” bi hùng đó với nỗi niềm thương cảm không tả xiết: Thương cảm cho một danh tướng trong bước đường cùng của vận nước đen tối; thương cảm cho phu nhân và 2 người con của Tướng tuẫn tiết và thương cảm vị sĩ quan trẻ, có lẽ là Chánh Văn Phòng của vị tướng anh hùng, tức tác giả của đoạn “hồi ký” nầy.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19605)
Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận Việt Nam. Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, thì tấm lòng hoài.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 23151)
Người chết lâu rồi , người còn ở lại Từ cuối chân mây đêm bấc lạnh lùng Ngày hiển thánh cả giống nòi mong mỏi Của những linh hồn hữu thủy hữu chung
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19692)
Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ!!
06 Tháng Mười 2010(Xem: 21543)
Cổ nhân cũng đã có câu “ngu si hưởng thái bình”, hay là ta cứ an phận thủ thường, con gái thì mong trời sinh ra đừng quá đẹp, con trai thì đừng có quá tài ba. Còn giàu có bạc muôn không ham, chỉ mong đừng chạy gạo từng ngày. Cứ làng nhàng là xong, không ai thèm muốn, đố kỵ, ganh ghét, nghĩ chuyện đời: “Giàu như người ta cơm ngày ba bữa, đói như mình đây cũng đỏ lửa ba lần.”
05 Tháng Mười 2010(Xem: 19455)
hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được thắp nén hương trang trọng cho chị, thưa chị Nở.