9:34 SA
Thứ Sáu
19
Tháng Tư
2024

NOEL Ở CẨM NHÂN - Vương Mộng Long

17 Tháng Mười Hai 201712:35 CH(Xem: 9126)

NOEL Ở CẨM NHÂN

 

Vương Mộng Long 

 

Tháng 7/1976 tàu Sông Hương cập bến Hải-Phòng. Chúng tôi, khoảng ba ngàn tù cải tạo, cựu sĩ quan của QLVNCH, được chuyển lên tạm nghỉ một ngày ở Sáu-Kho. Trong chuyến đi này, đội ngũ hành khách tù binh đã hao hụt mất hai người. Một người bị trượt chân, rớt từ sàn tàu xuống nước chìm luôn ở Tân-Cảng, Sàigòn đêm khởi hành. Người thứ nhì chết trên tàu giữa biển khơi.

 

Trước đây, trong tháng 6/1976, cũng đã có vài chuyến tàu chuyển tù, ghé bến Sáu-Kho. Nhưng trí tò mò của dân địa phương, nhất là những đứa trẻ con, vẫn bị lôi cuốn bởi hình ảnh khác thường của đoàn hành khách mới tới. Người từ phương Nam ra, đi từng cặp một, tay trái của người đi bên phải, còng với tay phải của người đi bên trái. Mọi người vai mang nặng, đa số đều mặt mày buồn rầu, xanh xao, thân hình gầy ốm, tong teo. Họ nối đuôi nhau đi thành hàng im lặng, cúi đầu không nhìn ai. Hai bên đường họ di chuyển là những họng súng AK với lưỡi lê tuốt trần. An ninh thật là nghiêm ngặt.

 

Đoàn tù được lùa vào khu đất rộng, có sáu cái nhà vòm dài và cao bằng tôle. 


 Xung quanh khu nhà vòm này là bãi cỏ cháy khô, hôi thối, vì đây là bãi đại tiện lộ thiên, công cộng, của xóm dân cư lao động gần đó. Quanh đây, dày dặc hố bom B 52 khổng lồ. Nước trong hố bom màu cà phê sữa lợt, mặt nước lác đác bèo tấm. 

 

Sau khi được cởi khóa cái còng, tôi gởi ba-lô cho anh bạn tù Ngô Văn Niếu giữ giùm. Tôi lang thang trên sân cỏ Sáu-Kho, rồi tạt vào căn nhà vòm của những tù binh cấp úy. Vừa bước qua cửa đã có người nhận ra tôi rồi. Anh ta ôm chầm lấy tôi, xuýt xoa, 

“Thái Sơn! Anh còn sống ư? Độ đây! Em nghe đồn anh chết ngày ba mươi. Vậy mà anh còn đây. Ôi! mừng quá! Anh ngồi xuống đi!” 

 

Anh Phạm Xuân Độ là đại úy sĩ quan chỉ-huy hậu-cứ của Liên Đoàn 23 Biệt Động Quân. Chúng tôi quen nhau lâu lắm rồi, từ ngày Độ mới từ Lực Lượng Đặc Biệt chuyển sang Biệt Động Quân. 

 

Độ cầm tay tôi, cao giọng giới thiệu với bạn của anh ta,

“Đây là Thái-Sơn, đàn anh của tớ. Xin giới thiệu với các bồ, để các bồ quen biết một đàn anh, đúng nghĩa một đàn anh”

 

Nghe anh Độ quảng cáo ồn ào như thế, những người bạn của anh ta liền tỏ thiện cảm với tôi ngay. Họ kéo tôi ngồi xuống manh chiếu góc nhà. Họ mời tôi hút thuốc lào. Họ tíu tít hỏi tôi ở trại nào trong Nam? Tôi có quen, có gặp người này, người kia hay không? 

 

Sau khi quân đội ta tan rã, nhiều cấp chỉ huy trở thành những cái bia hứng chịu phỉ nhổ của người dưới. Tuy thế, cũng có nhiều cấp chỉ huy trở thành nỗi luyến tiếc cho thuộc cấp, mỗi khi họ nói về kỷ niệm một thời đã qua. Cũng may, cái cung cách chỉ huy nghiêm khắc tại mặt trận và thân ái hòa đồng ở hậu cứ của tôi, không làm thuộc cấp ghét bỏ hay hận thù.


 Vì thế mà hôm ấy, ở một nơi nghìn trùng xa Sàigòn, vào cái thời buổi không còn gì nhục nhã hơn, thật khó tin còn có người lễ phép mời mình ngồi uống ly cà phê nấu bằng cơm cháy pha với đường thẻ, rồi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm oanh liệt, vàng son. 

 

Một người vừa sà xuống chiếu, nhìn tôi gật đầu chào thân thiện. Tôi vội vàng gật đầu chào lại. Người sĩ quan này da ngăm ngăm. Má anh ta có cái nốt ruồi bằng hạt đậu. Dáng anh ta quen quen... Tôi ngờ ngợ đã gặp anh ta ở đâu đó? Anh bạn mới, giọng Bắc trầm trầm, tự giới thiệu, 

 

“Tôi tên là Trần Gia Toản, 'Toản Thuốc Lào' . Tôi là em ruột của Trần Gia Toàn cùng khóa với anh. Tôi là bạn thân của Độ. Tôi có rất nhiều bạn Biệt Động Quân. Bạn tôi ai cũng thương anh và phục anh lắm. Tôi đã nghe tên anh nhiều lần. Nay có dịp gặp anh, thật là hân hạnh.”

 

Tôi chợt hiểu, thì ra anh ta là em ruột của Trần Gia Toàn, bạn cùng khóa 20 Võ-Bị của tôi. Anh em nhà này giống nhau quá, hèn nào tôi thấy anh ta trông quen quen. Những người tuổi trẻ thích nói thật, không vòng vo, quanh co. Hiểu nhau rồi thì chúng tôi dễ trở thành thân. 


Từ hôm ấy tôi có thêm một số bạn. Những người bạn mới lấy mì gói ra, giấy bao mì gói trở thành củi, cái lon Guigoz trở thành nồi, vỉ cơm cháy trở thành cà phê. Bỗng nhiên, tôi thành người khách quý của nhóm bạn tù cấp úy trong góc một căn vòm Sáu-Kho hôm ấy. 

 

Ăn mì xong, chúng tôi chuyền tay nhau ca cà phê cơm cháy. Uống cà phê mà không kèm theo khói thuốc thì không đúng “gu”. Anh em mời tôi hút thuốc lào. Khi biết tôi chưa tập hút được thuốc lào, thì chỉ nháy mắt sau tôi đã có một bao thuốc lá Sàigòn Giải-Phóng. 


Qua trao đổi với họ, tôi được tin tức của vài sĩ quan cấp úy cùng đơn vị như chú Lý Ngọc Châu, chú Trần Cao Chánh, chú Nguyễn Ngọc Khoan... Tôi cũng có tin những bạn cũ đã chết vì vượt trại như Quách Hồng Quang và Lê Hữu Thịnh. 

 

Buổi chiều, chúng tôi bị lùa xuống các hố B52, nước màu cà phê sữa, để tắm rửa. Lúc lên bờ, đỉa đói còn bám từng chùm, lủng lẳng trên vế trên đùi, chúng tôi giựt mãi chúng không chịu nhả ra. Sau khi được phát mỗi người một gói lương khô Trung-Cộng, đoàn tù được lệnh chuẩn bị đội ngũ chờ xe lửa để lên đường. Nghe đâu, người ta sẽ đưa chúng tôi lên mạn ngược, vùng biên giới Trung-Hoa, thuộc tỉnh Yên-Bái, Thái-Nguyên, Tuyên-Quang... 

 

Chuyến xe lửa Hải- Phòng Yên- Bái khởi hành lúc nửa đêm. Chúng tôi được dồn lên những toa chở súc vật. Cứ bốn mươi người một toa, khóa trái bên ngoài. Diện tích của toa xe chỉ đủ chỗ cho chúng tôi ngồi hoặc đứng chứ không thể nằm. Mỗi toa có bốn cái cửa tò vò to bằng bàn tay xòe nơi bốn góc. Tôi chui vào chiếm một góc và thò mũi ra lỗ cửa tò vò để thở.


Ngồi kế tôi là Thiếu Tá Hoàng Đình Mẫn nguyên Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 81 Biệt Động Quân. Thiếu Tá Mẫn là vị tiểu đoàn trưởng già nhất của liên đoàn tôi. Ông Mẫn với tôi thương nhau như anh em. 

 

Xe chạy được khoảng một giờ thì không khí trong toa bắt đầu ngột ngạt. Lúc lên xe, trưởng đoàn vệ binh có chỉ định anh cựu đại úy tên là Thu làm trưởng toa. Từ đầu hôm, anh Thu chiếm cái góc có thùng phuy vệ sinh. 


Giờ này, thùng cứt đái bắt đầu bốc mùi. Anh Thu bước tới góc cuối toa, và ra lệnh cho tôi nhường chỗ cho anh. Tôi chưa kịp phản ứng thì anh Thu đã dện một đạp vào mặt ông già Mẫn để dành cái cửa sổ. Lúc đó ông Mẫn đang ghé mũi vào cửa tò vò hít khí trời. Ông Mẫn vừa ôm mặt, vừa chửi rủa. 

 

Anh Thu có dáng dấp của một võ sĩ. Anh không cao lắm nhưng rất “đô” con. Anh cởi áo và vắt những dòng mồ hôi vừa nóng vừa nồng trên đầu tôi vì lúc đó tôi ngồi dưới chân anh. Rồi anh ngồi xuống bên tôi, thò mũi ra lỗ tò vò. Mồ hôi của anh nồng kinh khủng. Tôi nhè nhẹ đẩy anh ra xa tôi một chút. Anh hậm hẹ, 

“Đù mạ! Lộn xộn ăn đòn à con! Mày nhỏ con, tao cho ngồi cạnh để đỡ choán chỗ. Biết điều thì ngồi êm! Cục cựa ông bẻ răng à!” 

 

Anh Thu ngồi chồm hổm, nách anh choàng qua gáy tôi. Mùi hôi nách làm tôi tắc hơi. Tôi lách đầu cho mũi tôi ghé vào một góc cửa sổ. Tôi hít lấy, hít để, cái không khí thơm mùi đòng đòng, lúa mới ngoài kia. Chợt anh trưởng toa hẩy mạnh vai, mặt tôi đập vào thành xe nghe “kịch!” một cái, đau tới hoa cả mắt. 

 

“Ê ...ê...ê...anh này chơi ác quá vậy?”

Trong lúc quýnh quáng, tôi quýu lưỡi, nói xàm như một đứa bé.

 

Chưa xong, hai bàn tay hộ pháp của tên du côn chẹt cổ tôi, tống tôi vào góc xe,

“Ngồi im! Cục cựa ông bóp chết!”

 

Tôi chợt cảm thấy có cái gì đó ứ nơi cổ. Mặt tôi nóng dần. Tay tôi run run. Tôi hít vào một hơi dài, rồi thở ra từ từ. 

 

Tôi ra chiều ngồi êm, nhưng tay tôi mò tìm... mò tìm...Tôi tìm được nó rồi! Cái nĩa U.S bằng inox, tôi cài nó trong cái túi bên hông balô... 

 

Cú đâm quyết định bị trệch mục tiêu vì thế ngồi quá chật. Cái nĩa đâm sượt mắt trái của anh võ sĩ, rạch một vết rách sâu trên trán anh. Tay trái tôi hất mạnh một cái cùi chỏ ngay cằm anh. 


Anh chưa kịp la lên thì cái nĩa đã nằm dưới yết hầu. Tôi ghì ngược cái nĩa bằng cả hai tay ngay yết hầu kẻ thù. Nhiều lần đánh lộn thời học sinh, cũng như trong chiến trận sau này, tôi đã áp dụng thành thạo những đòn cận chiến học từ tuổi lên mười ở Trung-Tâm Huấn-Luyện Nhảy Dù Chèm Vẽ (1951-1954). Hồi đó nhà tôi ở sát cạnh bãi tập thể chất của lính Nhảy Dù Liên Hiệp Pháp trước cổng Đông làng Vẽ. Ngày ngày chứng kiến tân binh học cận chiến, tôi thuộc nằm lòng những thế dao găm đâm ngang, đâm dọc, đâm ngược, đâm xuôi...


Hơn hai mươi năm sau, trong một góc toa xe chở súc vật, tôi phải xử dụng cái thế đâm ngược lợi hại này, với một cái nĩa, để hạ một đồng đội. Tôi chỉ cần nhấn mạnh thêm năm phân, rồi xoay hai tay theo chiều kim đồng hồ là cái yết hầu của thằng du côn sẽ bị móc ra khỏi cần cổ nó. 

 

Tôi nghe tiếng,

 

“Em lạy anh, tha cho em!”

 

Tôi lơi tay, nhổ nước miếng vào mặt anh võ sĩ và nói nhỏ,

“Cút về bên cái cầu tiêu của mày mà ngồi. Tên tao là Vương Mộng Long, tao đã từng là tiểu đoàn trưởng Biệt Động Quân. Sau khi xuống ga, mày có thể tìm tao bất cứ lúc nào.”

 

Ông võ sĩ trưởng toa ôm trán đầy máu bò về hướng đầu toa, trả lại cái cửa tò vò cho mười anh tù ở cuối toa thay phiên nhau ló mũi ra để hít chút không khí mà sống. 

 

Tàu đi ngang cầu Phú-Lương, Hải-Dương, tôi xin anh em cho tôi được ngồi lâu hơn một chút nơi cửa sổ để ngắm nhìn cây cầu tuổi thơ của tôi. Tôi đã đi qua cây cầu này bằng đôi chân trần tuổi lên sáu, từ vùng “Tề” chạy giặc trở về thành phố Hải-Dương đổ nát điêu tàn. 

 

Trong trí nhớ non nớt của tôi chỉ còn: Cầu Phú-Lương đồng nghĩa với cầu Đen. Cầu dài lắm, những cái vài khổng lồ sơn đen, lính gác cầu cũng là lính Marốc da đen. Tôi qua cầu một ngày cuối năm 1948. 


Từ ấy tôi không còn thấy nó. Cho mãi tới đêm nay, tháng 7/1976 tôi mới có dịp qua cầu lần nữa. Hôm nay, cầu Phú-Lương có vẻ đen hơn ngày xưa, vì tôi qua đó vào lúc nửa đêm, trời tối đen như mực. 

 

Tôi nhìn cây cầu nơi chôn nhau cắt rốn từ cái cửa tò vò của một toa xe chở súc vật. Trong toa xe chở súc vật này là những sinh vật ưu tú của một dân tộc anh hùng. Những sinh vật ưu tú ấy đang bị chuyển hóa thành súc vật. Những con vật này đang tranh sống. Chúng đang giết lẫn nhau để sống. 

 

Toa xe lao nhanh. Động cơ hơi nước phì phà “xình xịch!...xình xịch!...” Bánh sắt rít trên tà vẹt nghe “ken két!...ken két!” rợn người. Những thanh sắt vài cầu loang loáng sát thành xe. 

 

Rồi tôi không nhìn được gì thêm, nước mắt đã rơi, nước mắt bốc thành hơi, đôi mắt cay...

 

Trời mờ sáng thì tàu đi ngang Vĩnh-Phúc-Yên, những hố bom B52 còn như rất tươi trên ruộng lúa, dọc hai bên đường tàu. Những đoạn đường sắt ở đây cũng thấy như mới được đắp vá. Không khí trong xe ngột ngạt hơn. Chúng tôi thay nhau cái lỗ tò vò với tốc độ mau hơn, quyền được thở giảm bớt. Người được thở tự đếm, “một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, hết!” rồi ngồi nhích sang một bên, nhường cho người kế tiếp.


Chúng tôi chia nhau từng giây không khí để sinh tồn. Đôi người đã khóc, đôi người vẫn cười. Giờ phút ấy có lẽ không ai còn nhớ đến vinh quang. Nơi góc cuối của một toa xe chở súc vật, mười sĩ quan QLVNCH chia sẻ nhục nhằn để sống. 

 

Ba góc còn lại của toa xe không có cái trật tự tự nguyện này. Đã có chuyện không hay. Có ai đó nơi đầu toa bị ngộp thở. Tiếng người nói xôn xao, 

“Làm hô hấp cho anh ấy đi!”

 

Có tiếng la to,

“Anh bộ đội ơi! Có người xỉu! Anh bộ đội ơi!”

 

Tàu vẫn chạy xình xịch, xình xịch...tiếng kêu cứu loãng trong không gian, không lời đáp lại.

 

Xế trưa hôm đó chúng tôi vào ga Yên-Bái. Đang phiên thở hít của tôi, tôi nghe tiếng người gọi nhau,

“Tù tới! Tù tới!”

 

Qua cửa sổ, tôi thấy ánh mắt tóe lửa của vài người dân đang vội vàng cúi lượm những viên đá xanh lót đường tà vẹt. Thấy không ổn, tôi thụt mũi vào trong toa. 

 

Tôi nói với Thiếu Tá Trần Ngọc Báu, Trưởng Phòng 2 Tiểu Khu Pleiku là người kế phiên hít thở,

“Đừng ló mặt ra, dân nó ném đá đó!”

 

Anh Báu không tin. 

 

Vì tôi ngồi sát cửa với Báu, tôi nghe rõ tiếng reo,

Thằng Mỹ mày ơi!”

 

Rồi anh Báu ôm mặt. Mặt anh đầy máu! Một cục đá xanh đập vỡ mũi anh. Hình như hai cái răng cửa đã nhảy ra khỏi miệng anh. Khuôn mặt Tây lai của anh biến thành cái mặt nạ máu me bầy nhầy. 


Cái cửa được bít lại ngay bởi cái thùng đựng đạn trung liên chứa nước của ông già TĐT/TĐ81/BĐQ. Đoàn xe lửa bị một trận mưa đá tấn công tới tấp. Cho tới khi vài viên đá lạc vào toa của vệ binh thì tôi nghe tiếng súng bắn chỉ thiên, tiếng đá chạm thành toa mới ngưng. 

 

Đoàn xe ra khỏi ga chừng hai trăm mét thì ngừng bánh. Tù được lệnh xuống xe. Tôi là một trong những người đạp đất sớm nhứt. Không đội ngũ, đoàn tù bị lùa lên xe Zin chở về nơi nào đó đã định. Hai bên đường, có những người dân mặc trang phục Dao, Tày, Thái, Mán, Thổ, Mường... ngơ ngác trông theo. 

 

Tới một ngã ba, cứ một xe rẽ về trái, thì xe kế tiếp rẽ về phải. Thì ra, đoàn tù được chia làm đôi, một nửa đi về đông bắc qua hồ Thác-Bà, nửa còn lại qua sông Hồng đi về hướng tây. Chiếc xe chở tôi đi về hướng đông bắc. Anh bạn cùng khóa, cùng binh chủng, Ngô Văn Niếu cũng ngồi trên cùng một xe với tôi. 

 

Đoàn 776 không đủ phương tiện đưa hết đoàn tù đi trong ngày. Chúng tôi được chia ra thành nhiều đợt lên ca nô vượt hồ. Toán của tôi là toán chót, lên ca nô sau toán đầu hai ngày, hai đêm. 

 

Hồ Thác-Bà rộng lắm, mỗi chiều cả chục cây số. Ca nô đưa chúng tôi đi ngược lên đầu nguồn sông Chảy, lướt chậm trên di tích của một thung lũng cổ. Trong đám đọt cây khô giữa làn nước trắng, một gác chuông thánh giá đứng lẻ loi, phần dưới của nhà thờ chìm trong nước. Nắng mai từ đỉnh núi hướng đông chiếu xuống mặt hồ, làm cho những đợt sóng lăn tăn lấp lánh như dát bạc... 

 

Chúng tôi đến cuối hồ Thác-Bà, hạ trại nơi không xa một xã người Tày. Xã đó tên là Cẩm-Nhân. Xã thuộc huyện Yên- Bình, Yên-Bái, tỉnh Hoàng- Liên- Sơn, cách biên giới Việt-Trung gần 50 km. 

 

Bên bờ hồ, nơi một bãi lau sậy được đặt tên là Trại 3 Liên Trại 4, tôi và anh bạn TĐT/ BĐQ Ngô Văn Niếu nằm cạnh nhau. 


Lán trưởng của tôi lại là anh đại úy tên Thu đã có lần tôi gặp cách đó hai ngày, trên chuyến xe lửa Hải-Phòng Yên-Bái. Anh nhìn tôi như kẻ lạ, như chưa từng thấy nhau. Nhìn cái băng trên trán anh tôi nghĩ anh thật là chóng quên.

 

Tối đầu tiên ở đây, anh Nguyễn Tuyên Thùy (K10VB) cho tôi biết một tin buồn: Có ông thiếu tá dược sĩ tên là Duy vừa uống thuốc tự tử. Dược Sĩ Duy được bó chiếu chôn bên cạnh hồ. Như vậy, trong Nam, gia đình anh Duy sẽ là những người đầu tiên biết chồng con họ đang ở đâu. 


Anh Nguyễn Tuyên Thùy đến đây từ tháng trước. Anh còn nói rằng, 

“Nghe đâu, có vài ba người chết ngộp trên chuyến xe lửa từ Vinh ra Yên-Bái hồi tháng trước...”

 

Anh nói chuyện người chết, người sống nghe nhẹ như không. Mà thực vậy, lúc này sinh mạng một người tù thua trận nhẹ như không...

 

Sáng hôm sau anh Thu tập họp đồng đội trước lán để truyền lại nội quy của trại cho những người mới tới. Anh phân tích rõ tội nào sẽ bị hình phạt gì.

 Những tội cải thiện linh tinh sẽ bị cảnh cáo, cúp phần ăn. Tội phát ngôn bừa bãi có thể bị cùm, bỏ đói... Tội vượt trại có thể bị xử bắn...vân vân. Anh cảnh cáo rằng nếu ai đụng vào chai dầu lửa treo ở đầu giường anh thì sẽ biết tay anh. 

 

Tôi đi quanh trại, la cà trò chuyện cùng vài người quen. Những vị này, thời chiến tranh Đông-Dương, đã có dịp qua đây, như Trung Tá Nguyễn Hữu Phú cựu tham mưu trưởng BCH/BĐQ/QLVNCH, Thiếu Tá Hoàng Đình Mẫn Tiểu Đoàn Trưởng TĐ81/BĐQ, Thiếu Tá Bùi Ngọc Long Tiểu Đoàn Trưởng Địa Phương Quân Tiểu Khu Quảng- Đức, Thiếu Tá Nguyễn Tuyên Thùy TCCTCT/TTM.

 Nhưng những đàn anh lớn tuổi này cứ duỗi ra mỗi khi tôi hỏi họ về địa thế, dân tình quanh khu Thác-Bà. 

“Đường xa diệu vợi lắm! Đừng dại mà trốn trại! Mất mạng đó em ơi!” tôi cứ nghe các anh ấy can ngăn như thế mỗi khi tôi tỏ ý muốn...đi. 

 

Cuối cùng tôi gặp Đặng Quốc Trụ, người bạn cùng khóa, anh ta đã từng là tiểu đoàn trưởng của Trung Đoàn 48/SĐ18 Bộ Binh. Nghe tôi ngỏ ý tìm bạn đồng hành để đi Lào, anh Đặng Quốc Trụ hưởng ứng ngay...

 

Chúng tôi chưa biết rõ xã Cẩm-Nhân nằm ở nơi nào trên bản đồ Việt-Nam thì toán trốn trại đầu đã nhổ neo. Bốn đại úy gồm một ông ở Tổng Thống Phủ và ba ông pilots. Đi được ba ngày thì bốn Papillons bị bắt lại. Tòa án giữa đồng được thiết lập. Không có lời buộc tội nào từ phía cai tù, mà chỉ có quân ta kết tội lẫn nhau. 

Nghiêm khắc nhất là một cải tạo viên, nguyên là phi công trực thăng, đã đề nghị xử bắn những người đi trốn để anh ta được yên tâm cải tạo (!) 


Vài người nữa lên phát biểu ý kiến xin trại phạt nặng những kẻ vô kỷ luật để làm gương cho những kẻ khác. Ban chỉ huy trại cũng không ý kiến. Tòa giải tán. Không ai dám hé răng bàn tán về những gì đã xảy ra. Bốn anh trốn trại bị cùm trên đồi, gần ban chỉ huy trại.

 

Hai ngày sau, toán trốn trại thứ hai ra đi. Toán này gồm có hai người và được coi là có “kí lô”. Họ là Đại Úy Biệt Kích Trần Trung Ginh và Đại Úy Nhảy Dù Tôn Thất Ủy (Ủy là tùy viên của Tướng Lưỡng, Tư Lệnh SĐ Dù /QLVNCH). 

 

Sau khi phát giác có thêm một vụ trốn trại nữa, cán bộ Chính Trị Trại 3 tập họp tất cả chúng tôi lại, răn đe,

Các anh sẽ phải trả giá. Không ai thoát khỏi mạng lưới của nhân dân. Cứ trốn đi! Tôi thách các anh đấy!” 

 

Giữa đêm đó Vương Mộng Long và Đặng Quốc Trụ khăn gói lên núi. Cái bật lửa của bác BĐQ già Hoàng Đình Mẫn nằm trong hành trang của tôi, và chai dầu lửa của anh đội trưởng tên Thu cũng nằm trong hành trang của tôi. 

 

Vài ngày sau khi tôi và Trụ vượt trại, Trại 3 Liên Trại 4 bị giải tán, tù nhân được chia cho các trại 5,7,9 kế bên. Một đoàn tù từ bên hướng tây sông Hồng được đưa về đây xây Trại 3 mới.

 

Cái đêm 08/08/1976 tôi và Đặng Quốc Trụ trốn trại lần đầu là một đêm mưa, khởi đầu trận bão số 6 khốc liệt. Trận bão này gây nên mưa gió kéo dài hơn một tuần lễ. Mười ngày sau chúng tôi bị mất hướng, luẩn quẩn trong rừng tre, rồi bị vây bắt lại.

 

Tên Việt-Cộng chấp cung tôi đã thẩm vấn tôi câu đầu, 

“Có phải anh Thu cho anh chai dầu lửa để anh đi trốn hay không?”

 

Tôi “thành khẩn” khai báo,

“Thưa cán bộ không ạ! Tôi ăn trộm nó khi anh đội trưởng còn ngủ.”

 

Tên cán bộ ngạc nhiên lẩm bẩm, 

“Lạ nhỉ? Vậy là anh Thu bị phạt oan, nhưng không hiểu tại sao anh ấy không tự biện bạch?”

 

Từ đêm chui rào khỏi Trại 3, tôi không có dịp gặp lại anh Thu, không rõ đã có hậu quả gì đến cho anh sau khi tôi đi.

 

Tôi và Trụ được đưa về nhốt ở Trại 4 Liên Trại 4. Tại đây đã có 2 “đồng bọn” đang nằm cùm, đó là Trần trung Ginh và Tôn Thất Ủy. 

 

Cuối năm ấy tụi tôi được tha ra khỏi cùm để về đội lao động. Nhiều dân trốn trại đã được qui tụ về đây trước đó. Trong số ấy có một băng Võ-Bị, gồm Trần Tấn Hòa (Dù K20), Nguyễn Văn Nghiêm (Dù K20), Trần Đăng Khôi (Dù K16), Hồ Văn Hòa (BĐQ K16), Chu Trí Lệ (SĐ23 K16), Trần

 

Anh Đặng Quốc Trụ được đưa về Đội 10 dưới quyền đội trưởng Lâm Kỳ Sáng (cựu trung tá), tôi về Đội 11 dưới quyền Đặng Kim Bảng (cựu đại úy).

 

Vừa chui vào lán, tôi đã nghe giọng Bắc Kỳ quen,

Mừng đại ca, đại ca có nhận ra em không?”

 

Dù lúc đó là buổi chiều mùa đông, trong lán tranh tối tranh sáng, tôi vẫn nhận ra ngay Toản Thuốc Lào.

 

“Quên sao được hả chú! Mới tháng trước đây, chúng mình chia tay nhau ở Sáu-Kho...”
 

Ngay lúc ấy người đội trưởng bước vào, anh ta nói tôi sẽ được cử đi gánh gạo tiếp tế chiều nay cùng với đội ở bên Cẩm-Nhân.

 

Sau nhiều ngày nằm cùm, mới đi được hai cây số đường đồi tới chợ Cẩm-Nhân, chân tôi đã muốn rã ra rồi. 

 

Đến Hợp-Tác Xã Nông-Nghiệp tôi gặp hai anh bạn cùng khóa là Nguyễn Xuân Hoè và Minh Vồ, mừng mừng tủi tủi, hai anh này ở trại khác, cũng đi gánh gạo chiều nay.

 

Bên kia đường, có một người vừa đưa tay vẫy tôi.

 

Tôi tìm trong óc xem có phải anh ta cùng khóa với mình không? Không! 

 

Hóa ra đó là anh Thu! Thấy anh, tôi nhớ chuyến tàu hôm nào từ Hải-Phòng đi Yên-Bái. Tôi nhớ ra chai dầu lửa anh cố tình treo trên lối ra vào của lán tù Trại 3. Đêm vượt trại, chỉ cần dơ tay, tôi đã nẫng được chai dầu một cách nhẹ nhàng. 

 

Tôi định đưa tay vẫy lại cái vẫy tay của anh Thu, thì đoàn tù gánh gạo ấy đã đi xa rồi.

 

Hôm đó, tiêu chuẩn chung của trại, trọng lượng cân đo, đúng 150 kg cho một chuyến hai người.

 

Toản cao hơn tôi, Toản đi sau, tôi đi trước.

 

Chúng tôi phải hò “Dô ta!” để lấy đà đứng lên. Toản hò “Dô... ta!” rồi, nhưng Toản không đứng lên. Toản cúi xuống lượm cái gì đó. 

 

Tôi hỏi,

“Sao không đi Toản?”

 

Toản cười,

“Em có quà cho đại ca.”

 

Anh ngước mắt lên, vui sướng đưa cho tôi cục kẹo đường đen,

“Em lượm được cục kẹo, anh ăn cho hồi sức đã mất trong nhà cùm.”

 

Tôi cảm động, nhận cục kẹo đường đen to bằng đầu ngón tay út. 

 

Toản cười,

“Anh có nhớ hôm nay là Noẽl đó không?”

 

Tôi cắn cục kẹo làm hai, đưa cho Toản một nửa,

“Merry Christmas!”

 

Thấm thoắt đã mấy chục năm đi qua. Tôi thấy buồn khi nhìn Noẽl trở lại. Tôi thấy buồn khi nhớ ra, bây giờ tôi không còn sức để gánh chung cùng bạn một gánh gạo nặng 150kg trên đoạn đường đồi dài 2 km nữa rồi! 

 

Noel nào tôi cũng nhớ tới buổi chiều đi gánh gạo, nhớ cái vẫy tay của anh Thu, nhớ chai dầu lửa, nhớ cục kẹo đường đen ở Cẩm-Nhân, và nhớ Trần Gia Toản cùng những người bạn tù thuở ấy...

 

 

Vương mộng Long k20

(Seattle, Noel 2004)

Ý kiến bạn đọc
19 Tháng Ba 20188:33 SA
Khách
Xin cho biết địa chỉ email của ông Vương Mộng Long
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
08 Tháng Tám 2012(Xem: 20853)
bất hạnh thay cho những kẻ ác, những kẻ lúc nào cũng muốn làm cho người khác đau khổ, buồn bực. Họ không bao giờ nhận được Tình Yêu đáp trả mà bên tai chỉ có một tiếng gọi âm vang: Vô Thường! Vô Thường!
07 Tháng Tám 2012(Xem: 18530)
Không khí bỗng lắng xuống. Mọi người đều xúc động. Kiều ngước lên, đúng vào lúc tôi quay mặt đi để giấu những giọt nước mắt của chính mình.
06 Tháng Tám 2012(Xem: 18259)
Anh cố gắng nghe em nói. Em chỉ nói một câu thôi. Em không nói được cho anh nghe thì em đau khổ suốt đời, ân hận suốt đời. Anh có thương em không? Thương em thì nghe em nói. Nghe anh! Tội nghiệp em mà anh...
01 Tháng Tám 2012(Xem: 22008)
Bà nở nụ cười cuối cùng và nhắm mắt... Bà đã có một thiên đường ở trần thế này. Giờ chỉ là đi đến 1 thiên đường khác, và chờ ông ở đó...
31 Tháng Bảy 2012(Xem: 24379)
Người Nghệ Sĩ hiện sống giữa bầu trời, trên mặt đất quê hương, để từ đấy viết nên lời ngợi ca hồn hậu rất hiện thực mà cũng tràn đầy nhân tính..
26 Tháng Bảy 2012(Xem: 18702)
Khi đến phiên tôi vuốt mắt cho ba, nhìn khuôn mặt ba thanh thản, tôi tin là ba đã vui lòng, vì ba biết chắc rằng vợ con đã yêu thương ba, kể cả tôi, đứa con gái gần gũi với ba qua đoạn đường ấu thơ nghèo khó nhất.
26 Tháng Bảy 2012(Xem: 22443)
Tình Mẹ! Một thứ tình cảm luôn chở che, cưu mang, bao dung, độ lượng;... luôn hy sinh, cam chịu trong mọi hoàn cảnh!
26 Tháng Bảy 2012(Xem: 30181)
Chúc cho những người bạn của nhau luôn cảm thấy mình hạnh phúc . Chúc những người bạn của nhau luôn tràn ngập niềm vui và luôn nở những nụ cười tươi trên môi nhé !
23 Tháng Bảy 2012(Xem: 20652)
Hôm nay, ông là một cựu chiến binh cộng sản, cựu kẻ thù của Mỹ, kẻ đã một thời từng mong tiêu diệt những lính Mỹ trên quê hương Việt Nam, theo đúng câu tuyên truyền “Đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào” đang chễm chệ ngồi ngay trong lòng nước Mỹ, vậy mà không hề bị họ để ý, nghi ngờ hay làm khó khăn gì cả, quả là chuyện lạ lùng.
17 Tháng Bảy 2012(Xem: 20673)
Thật ra thì bố cháu đâu có ghét Nam kỳ, ông chỉ phàn nàn rằng dân Nam kỳ được trời đãi, cho sống trên mảnh đất mầu mỡ phong phú, không làm vẫn có ăn, mà lại ăn ngon nữa, nên có tính lè phè, hoang phí, không chăm chỉ hạt bột, không cần cù tiết kiệm như Bắc kỳ
16 Tháng Bảy 2012(Xem: 21327)
Chủ Nhật, 12 tháng Tám 2012, vào lúc 12:00PM, Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh, Người Thương Binh VNCH Kỳ 6 sẽ khai diễn tại sân vận động trường Bolsa Grande, Garden Grove. Xin mời đọc bài viết về những nỗ lực “tiền đại hội” của Philato
15 Tháng Bảy 2012(Xem: 22372)
Chính mỗi người phải tự quyết định phần còn lại của vấn đề mà mình gây nên. Phiên tòa khép lại với tiếng khóc nức nở của cô vợ, sự hối hận của “người anh trai” trong khi người chồng rời phiên tòa như trốn chạy
10 Tháng Bảy 2012(Xem: 24947)
Đến những giây phút cuối cùng, anh em Dù vẫn giữ vững từng tấc đất được giao phó, hoàn thành nhiệm vụ thiêu thân nút chặn để đồng bào ra đi, để được ngã gục trên thân thể của Quê Mẹ nghìn đời.
10 Tháng Bảy 2012(Xem: 20366)
Sau khi đứng lên, tôi trở thành một sĩ quan Biệt Động Quân. Qua bao nhiêu năm xông pha nơi chiến trường, rồi trầm luân trong tù ngục, tôi vẫn ghi tạc trong lòng một lời khuyên, “Thà làm một viên ngọc nát, chứ không làm một viên ngói lành!"
05 Tháng Bảy 2012(Xem: 22918)
Không biết chừng nào người dân xứ tôi làm một chuyện … động Trời - gọi là " Chuyện Bất Bình Thường " – nghĩa là cùng đứng lên đòi hỏi nhà cầm quyền phải làm thế nầy, phải làm thế nọ …
29 Tháng Sáu 2012(Xem: 28400)
thú vị biết bao khi trải chiếc đệm trước sân nhà, cùng bạn bè quây quần thưởng thức chén chè hạt ô môi đậu xanh nóng hổi, thơm ngát. Xa xa đâu đó vọng lại bài ca vọng cổ của soạn giả Viễn Châu nghe buồn da diết
28 Tháng Sáu 2012(Xem: 22673)
bây giờ chính những cảnh nhem nhuốc của quê hương đã kích thích chàng, xúi giục chàng quay về với quê hương và mong mỏi cho quê hương trở nên đẹp đẽ. Đời của đám dân quê đã bao lâu bị chàng thờ ơ, lạnh nhạt, bỏ quên như xác những con vờ bên sông kia, từ lâu chàng sẽ săn sóc tới.
26 Tháng Sáu 2012(Xem: 24190)
Đúng ra tôi phải tìm đến trước để nói chuyện với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn thì mới phải lẽ ! Mong hương hồn Đại Tá xem đây là một lời tạ lỗi cuả tôi, dù có hơi muộn màng.
25 Tháng Sáu 2012(Xem: 21837)
“không có người cha hoàn hảo mà chỉ có người cha luôn dành yêu thương hoàn hảo nhất cho những đứa con của mình”, đó còn là lời nhắn nhủ tới các bạn trẻ biết gạt qua chút ích kỷ cá nhân để quan tâm hơn tới cha mẹ
22 Tháng Sáu 2012(Xem: 18602)
Họ không là những người thật đặc biệt, thật nổi tiếng. Nhưng họ đại diện cho số đông, số đông những người con của các sĩ quan VNCH, từng một thời phải chịu những kỳ thị, bất công, khi còn ở quê nhà.Nhưng giờ đây, họ có quyền hãnh diện về mình lắm chứ. Và chúng ta cũng có quyền hãnh diện về họ.
19 Tháng Sáu 2012(Xem: 20549)
Tôi viết bài này nhân Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19-6 để nói lên lời tri ân các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa những người “… vẫn sống thênh thang trong lòng muôn người biết thương đời lính …”
13 Tháng Sáu 2012(Xem: 19756)
Tôi thương cảm và kính phục họ, trong hoàn cảnh khốn cùng nhất, bằng cách nào đó, họ vẫn đứng vững (không cần chân) và duy trì được tinh thần đồng đội, thái độ bất khuất của những người lính.
10 Tháng Sáu 2012(Xem: 19779)
chắc chắn sẽ không có một ngày trở lại! Họ đã nghĩ đúng, cổng Phi Vân với mây xám lưng trời, sau gần 15 năm xa cách, những người con yêu giờ đây vẫn còn hoài công ngóng đợi…
09 Tháng Sáu 2012(Xem: 21739)
Anh nghĩ đến những thằng bạn đồng ngũ còn lận đận ở tận những phương trời xa xôi và tiếp tục lẩm nhẩm:"Tụi nó đều còn nguyên vẹn hết mà đã mười năm rồi, sao không thấy đứa nào quay trở lại. Trận chiến này chưa chấm dứt đâu mà …"•
09 Tháng Sáu 2012(Xem: 20788)
Hạnh phúc đã trở về trong vòng tay tôi. Tôi sẽ ôm thật chặt lấy nguồn hạnh phúc này, không bao giờ để cho đi đâu xa mất nữa…
08 Tháng Sáu 2012(Xem: 25298)
Xin dạy cho cháu biết phải lắng nghe hết tất cả mọi người, nhưng cũng xin thầy hãy dạy cho cháu biết cần phải sàng lọc những gì nghe được qua một tấm lưới Chân Lý
08 Tháng Sáu 2012(Xem: 20761)
“Đây là cuộc chiến tranh bẩn thỉu, tàn bạo, nhưng tôi tin chắc mọi người sẽ hiểu mục đích của cuộc chiến này, dù rằng nhiều người trong chúng ta có thể không đồng ý”.
07 Tháng Sáu 2012(Xem: 18821)
Đứng trên sân ga Hàng-Cỏ, lòng tôi man mác bâng khuâng. Vừng dương đang lên. Sao Mai mờ dần. Chân trời hừng đông mầu tím nhạt. Có đôi vì sao đang rơi trong không trung mờ ảo mênh mông…
06 Tháng Sáu 2012(Xem: 21126)
Tôi buồn, nhưng thôi, như đã chia-xẻ trong bài "Thế-hệ bánh mì kẹp", chỉ vài mươi năm nữa, vấn-đề này sẽ không còn là vấn-đề nữa, một khi chúng tôi sẽ lũ-lượt rủ nhau đi hết. Lúc đó, chúng tôi sẽ lại được nói lại "tiếng Việt cũ" với bố mẹ, ông bà chúng tôi.
05 Tháng Sáu 2012(Xem: 27948)
Hai mươi năm chinh chiến ... Người Lính VNCH không bao giờ đòi hỏi Tổ Quốc bất cứ một điều gì. Người Lính chỉ mong đem cuộc đời của mình đổi lấy hai chữ Tự Do cho quê hương dân tộc cho dù phải trả cái giá đắt nhất là mạng sống.
29 Tháng Năm 2012(Xem: 22991)
Hôm sau, tôi đến quán hơi sớm, định vừa gặp anh là nói ngay rằng tôi khoái lá sớ của ảnh lắm, móc họng chế độ rất đau mà vẫn giữ được nét trào phúng nhẹ nhàng.Và cũng để nói cho ảnh yên tâm rằng tôi đã đốt lá sớ như ảnh đã dặn. Nhưng rồi, anh ta không đến, mặc dù tôi đã cố tình ngồi đợi tới trưa….
28 Tháng Năm 2012(Xem: 19562)
Bây giờ chị tôi, một người con gái Việt nam về làm dâu muộn màng trên đất Mỹ, đang thay cha mẹ chồng cai quản một nông trại trồng bắp ở Ohio với đứa con duy nhất của một cuộc tình nở vội trong cuộc chiến Việt Nam .
28 Tháng Năm 2012(Xem: 20452)
Còn sống trong một đất nước Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc mà phải đi biểu tình (ké) ở một quốc gia láng giềng thì lại là chuyện khác. Chuyện này (chắc) phải nói cho tới Tết, hoặc – không chừng – tới chết luôn.
26 Tháng Năm 2012(Xem: 20764)
Tôi đã lấy chồng Lính Cộng Hòa rồi, mà tôi lúc nào cũng có cái giọng Bắc Kỳ Hai Nút (75, Bắc kỳ chín nút tức là Bắc kỳ 54) thì ai mà chịu nổi. Bây giờ, tôi không còn... “Xử Lý” nữa, mà tôi phân tích, tôi tìm hiểu từng trường hợp mà giải quyết cho thỏa đáng. Mỗi khi đi ra ngoài đường, nghe tôi nói chuyện, không còn ai quay lại nhìn tôi rồi bỏ đi chỗ khác nữa.
19 Tháng Năm 2012(Xem: 30529)
khi về đến nhà tôi sẽ phải báo tin cho các con tôi là công an Việt Nam đã giữ bố. Chắc Khoa, Trí sẽ buồn nhưng các cháu sẽ hiểu. Và nếu các cháu chia sẻ được những khó khăn với bố mẹ trong lúc này, các cháu cũng biết được những giá trị về trách nhiệm của bố mẹ đối với quê hương, đối với cội nguồn của mình.
18 Tháng Năm 2012(Xem: 20041)
Bởi cái đặc tính của xứ Nam Kỳ là rất cởi mở, rộng rãi, dễ thương, nên dễ dung nạp, dễ cảm hóa người mới đến để họ hội nhập vào đại gia đình Đồng Nai Cửu Long mà nhà văn hóa học có thể xem như một cái tô xà lách (”salad bowl”) của mọi người.
14 Tháng Năm 2012(Xem: 20481)
đem Ba đi chơi cả ba ngàn cây số đường, ăn ở những nơi sang trọng, và cho xem những thắng cảnh danh tiếng nước Mỹ. Nhưng chúng lầm, làm sao mua chuộc được lòng trung kiên của Ba với cách mạng. Ba hẹn khi về sẽ nói cho con nghe nhiều hơn
14 Tháng Năm 2012(Xem: 20191)
Mẹ tôi không cần chiếc sập gụ ấy nữa. Bà xa rời nó như xa rời cuộc đời nhọc nhằn. Bà Cẩm Lợi đã trả xong cái nghiệp mà chúng tôi kính cẩn ghi ơn. Bây giờ nằm vĩnh viễn bên chồng mẹ tôi mãi mãi là bà Tam của chúng tôi.
13 Tháng Năm 2012(Xem: 19835)
Cái cảm giác của sự chia ly sinh tử đó hôm nay lại trở về với tôi. Nặng nề hơn nhiều. Ngày đó tôi mất ba nhưng vẫn còn mạ. Bây giờ thì mất cả mạ, đâu còn ai. Mỗi một cái áo bỏ vào trong thùng như một lời vĩnh biệt, bởi vì tôi sẽ không bao giờ còn nhìn thâý nó nữa.
10 Tháng Năm 2012(Xem: 26885)
Từ ngày lấy vợ, ông mất dần gần hết bạn bè. Bà cho rằng đàn ông gặp nhau nói toàn chuyện trên trời, dưới đất, không bổ ích gì, không lợi lộc gì. Bà ngăn cản ông gặp bạn bè, và bạn bè đến nhà ông, thì chỉ vài lần thôi, thấy thái độ của bà, họ không đến nữa.
02 Tháng Năm 2012(Xem: 20798)
Ông thấy sung sướng hạnh phúc. Ông tội nghiệp cho những người suốt đời than van, nắng không ưa, mưa không chịu, và tự bôi đen ngày tháng đẹp đẽ của họ, và dìm đời vào bất mãn, khổ đau./.
02 Tháng Năm 2012(Xem: 21415)
Saigon bây giờ không thấy có người đẹp nữa! Xưa ra đường cứ thấy người ta vừa chạy xe vừa… ngoái đầu lại nhìn. Bây giờ ra đường người con gái nào cũng trùm kín mặt, mang vớ dài tay, găng tay kín mít, áo khoác sùm sụp, đầu đội mũ bảo hiểm, chỉ chừa hai con mắt lom lom qua kính bảo hộ…
02 Tháng Năm 2012(Xem: 19471)
Tôi ôm lấy Trung : "lâu quá tưởng không bao giờ thày trò mình gặp nhau" . Học trò đang giờ chơi thấy tôi ôm Trung ngơ ngác nhìn, tôi buông Trung cả hai tôi nước mắt chảy từ bao giờ.
02 Tháng Năm 2012(Xem: 19693)
Chỉ có thế thôi mà giông bảo nổi lên trong phòng hội chỉ vì sự khủng hoảng về hiện tượng bám víu thê thảm vào cái tính đồng nhất riêng biệt của hành trang ý thức và tình cảm quê cha đất tổ .
01 Tháng Năm 2012(Xem: 20780)
Anh không là người cầm bút, mà là người cầm quân tôi cảm phục. Có biết bao đồng đội hy sinh ở chiến trường. Nhưng cái chết của Đại tá Hồ ngọc Cẩn lại khác. Một cái chết đi vào lịch sử , biểu tượng bất khuất cô độc.
30 Tháng Tư 2012(Xem: 18398)
Đêm đó, ông Hai ngủ thật ngon, quên luôn rằng mình đang nằm giữa hai lớp drap chớ không có chui vào hai lớp mền như thường lệ !
30 Tháng Tư 2012(Xem: 19052)
Thì ra bao nhiêu năm qua, cuộc sống và tuổi gìa đã vô tình che khuất đi hình bóng cũ, chỉ những dịp như hôm nay hình bóng anh Xuân lại trở về trong lòng cô Hoa, dù hai người đã già.
29 Tháng Tư 2012(Xem: 19918)
Chiến trận đã cuốn Tân đi biền biệt! Những địa danh mịt mùng xa xôi: Bình Định, Bồng Sơn, Tam Quan, Sa Huỳnh, Phá Tam Giang... tiếp nối trên đầu mỗi cánh thư đầy ắp yêu thương của Tân gởi về; một thứ hạnh phúc nhỏ nhoi mà nhiều lần Quỳnh đã mang vào giấc ngủ.
27 Tháng Tư 2012(Xem: 20671)
Và sau cùng, giọt nước làm đầy ly là khi chính quyền bỏ rơi chủ thuyết, chạy theo “định hướng thị trường” và chỉ còn muốn làm giàu. Thật là đau đớn vì sau cùng họ mới thấy là những gì họ hy sinh cả cuộc đời đã chỉ là những cái bánh vẽ.
27 Tháng Tư 2012(Xem: 19658)
Để lên được nơi này nghe anh kể những câu chuyện thần kỳ ấy, tôi phải vượt gần hai trăm cây số đường rừng. Và khi trở về, nhiều lần tôi đưa tay lên đôi mắt sáng của mình và thấy ngượng, mắt sáng như thế mà tôi sống thêm đời nữa e cũng không làm được nhiều tiền như anh Lại. …