8:07 SA
Thứ Năm
28
Tháng Ba
2024

TRONG VÔ TẬN -Vĩnh Quyền

08 Tháng Mười Hai 201910:27 SA(Xem: 7024)

Đọc thêm, để hiểu thêm, nghĩ lại.

No photo description available.

Sau trích đoạn tiểu thuyết “Mạch nước trong” (Nxb Thanh Niên,1986) liên quan chữ quốc ngữ, tôi gửi đến những người quan tâm lịch sử văn tự nước nhà một trích đoạn khác liên quan chữ Nôm, từ tiểu thuyết “Trong vô tận” (Nxb Trẻ, 2019). Hơn một nghìn chữ, có hai nhân vật “tôi”.
Tôi thứ nhất: “ông Huế” tiến sĩ dân tộc học, hôn mê sâu.
Tôi thứ hai: thanh niên Việt ở Mỹ về nước khi nhận tin báo anh có người cha chưa bao giờ gặp, đang hôn mê. Những ngày ngắn ngủi bên người cha hấp hối trong vương phủ hoang cũ, người con “hầu chuyện” với người cha qua những gì ông đã ghi chép trong laptop…

CHỮ NÔM TRONG TIỂU THUYẾT “TRONG VÔ TẬN”

“Mỗi người Huế xa quê là một con diều giấy. Càng lộng gió bay xa càng nhìn rõ Huế hơn. Diều chỉ bay cao khi sợi dây nối mặt đất chưa đứt. Lại có người Huế cả đời sống ở Huế mà vẫn xa quê, vẫn là con diều khát gió.

Cuối năm âm, tôi thường một mình xếp lại tủ sách chữ Nôm, chọn một cuốn đọc nhẩn nha ba ngày tết. Non nửa thế kỷ tủ sách này không thêm thành viên nào, như thể tự nó đã khép lại một thời, không chỉ là thời của loại văn tự này mà còn là thời đại và cả thời của chính con người chúng tôi.

Trong lúc phủi bụi thời gian cho sách, màu ngả vàng của giấy thường mang lại cho tôi nỗi buồn man mác. Nhưng thỉnh thoảng chúng cũng đem đến niềm vui, như khi bất chợt phơi lộ kỷ niệm đã khuất sâu ký ức.

Tôi thường tự trách mỗi lần làm công việc này. Là lúc nhìn thấy những khoảng trống do mình gây ra. Nhiều sách cất giữ ngót trăm năm tôi đã đánh mất hoặc cho mượn dễ dãi. Giờ chúng lưu tán ở đâu, thuộc về ai, tồn tại hay tan rã? Không nhớ nữa, không biết nữa. Tự trách vì có thời tôi mệt mỏi đến thờ ơ sinh mệnh những cuốn sách vốn câm nín từ lâu và tưởng chừng chúng đã đứng ngoài dòng chảy cuộc sống. Không được bảo quản tốt, một số sách tự mục nát qua những mùa đông ẩm trời hành cơn lụt mỗi năm. Trong đó có sách viết tay độc bản, mất là mất hẳn trong thế giới vật chất cũng như trong đời sống tinh thần.

Đôi khi tôi tìm cách tha thứ cho mình bằng hai lẽ. Chất liệu giấy bồi của sách Nôm có tuổi thọ giới hạn và số người đọc chữ Nôm ngày càng vắng vẻ. Ở Huế này, nơi sách Nôm còn khá nhiều, tuy tản mát trong các tủ sách tư nhân và đình chùa, vẫn khó tìm ra người biết chữ Nôm.

Là người cuối cùng trong gia đình có tiếp xúc chữ Nôm, tôi giật mình xót xa hơn là ngạc nhiên khi nhận thông tin từ một điều tra khoa học: Trên thế giới, tính cả Việt Nam, chỉ khoảng một trăm người đọc thông viết thạo chữ Nôm.

Có những bài nghiên cứu chữ Nôm đọc đã lâu tôi vẫn nhớ nhờ cảm xúc, bởi quá trình hình thành, phát triển và lụi tàn của nó gắn liền với lịch sử dân tộc. Trong quá khứ, với bối cảnh văn tự chính thức là chữ Hán, sự sáng tạo chữ Nôm ban đầu nhằm đáp ứng nhu cầu thuộc về văn bản mà chữ Hán không đủ với thực tế Việt. Từ văn bản nhà nước như sổ đinh, sổ điền đến văn bản tôn giáo, tâm linh như sớ cầu siêu, cầu an đều cần khai đúng tên người, tên địa phương – những cái tên thuần Việt như làng Bưởi, anh Mít, chị Gái chẳng hạn.

Nhưng biểu thị vĩ đại nhất của chữ Nôm là tinh thần Việt, là hạo khí độc lập dân tộc. Từ sau năm 939, khi người Việt thoát ách đô hộ giặc Tàu, chữ Nôm được tôn vinh. Đến thế kỷ 13 đã có dòng văn học chữ Nôm. Và Tây Sơn là triều đại thể hiện đỉnh cao ý thức độc lập văn tự. Trong hai mươi bốn năm cầm quyền, toàn bộ văn kiện dưới triều đại này được soạn thảo và ban hành bằng chữ Nôm.

Nỗi lo tiêu vong văn tự riêng có của dân tộc là có thực. Thứ chữ được cha ông sử dụng gần một nghìn năm, nếu chỉ tính từ năm 939 đến năm 1920, năm chính quyền thực dân Pháp buộc triều đình Huế dùng chữ Việt La tinh hóa trong hệ thống trường học và các khoa thi, thay thế chữ Hán và chữ Nôm, vốn là phương tiện ghi chép, truyền tải một khối lượng khổng lồ tư liệu lịch sử, văn học và tri thức của ông cha trên nhiều lĩnh vực. Có thể nói, việc loại chữ Nôm khỏi đời sống là một đứt gãy trong lộ trình truyền đạt liên tục văn hóa Việt. Và tổn thất do việc này gây ra dường như không thấy rõ, bởi những tiện lợi của chữ quốc ngữ che khuất. Nhưng về lâu dài và từ góc nhìn bảo tồn di sản ngôn ngữ thì tổn thất đó là nghiêm trọng.

Một thứ văn tự phát triển trên đôi cánh hạo khí độc lập, tồn tại nghìn năm bỗng chốc biến mất, chẳng phải là thảm họa văn hóa của một dân tộc? Con cháu muôn đời sau không đọc được chữ, không đọc được sách của tiền nhân viết ra trong nghìn năm chẳng phải là điều khủng khiếp? Thực tế cho thấy chúng ta chỉ có thể dịch một phần rất nhỏ từ gia tài chữ Nôm. Trong khi đó, Triều Tiên và Nhật Bản cũng vận dụng chữ Hán để sáng tạo chữ riêng của mình, nhưng họ đã không phải chịu tổn thất đứt gãy đường truyền văn tự như chúng ta.

Những năm gần đây tôi đã theo dõi hành trình đầy khó khăn và kịch tính của nhóm chuyên gia chữ Nôm và tin học Việt kiều, người Mỹ và người Pháp phối hợp Viện Nghiên cứu Hán Nôm trong nước để đưa chữ Nôm vào bảng mã ngôn ngữ Unicode của Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế ISO-IEC. Với hơn 11.500 chữ đã “nhập kho” và được số hóa, cùng với hỗ trợ của công nghệ thông tin, chữ Nôm đã có một tương lai mới, di sản của cha ông nghìn năm có thể nằm gọn trong laptop, đồng hành cùng những ai quan tâm nghiên cứu Việt học. Con số một trăm người thông thạo chữ Nôm hiện nay rồi sẽ thay đổi theo chiều hướng lạc quan. Tôi cũng sẽ ôn lại chữ Nôm, muốn góp một dấu cộng trong đó, để ít ra cũng đọc được sách cha (nghĩa lớn) trong những ngày xuân về.”

*

Hôm qua theo cô Hạnh vào từ đường của phủ tôi đã chú ý một tủ kính khảm xa cừ có bát hương trên nóc đặt đối diện với mười hai bàn thờ. Cô cho biết tủ này trưng bày toàn sách chữ Nôm, là trước tác của mấy đời gia tiên, nên cũng được thắp hương như một bàn thờ. Nhìn chữ trên các bìa sách, tôi thấy mình chẳng khác kẻ ngoại tộc, thậm chí như người nước ngoài. Cảm giác mất mát dâng cứng ngực.

Giờ ngồi cạnh ba, tay nắm tay ba, đọc bài viết của ba trên laptop của ba, cảm giác ấy trở lại với tôi. Nhưng lần này dịu ngọt như vừa được chia sẻ. Tôi thấy mình giống cô Hạnh khi nghiêng người nói thủ thỉ vào tai ba, người vẫn thiêm thiếp trong cơn mê sâu dài. Tôi nghe lời mình từ bên trong: Con sẽ là một dấu cộng cạnh dấu cộng của ba…
VĨNH QUYỀN

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Năm 2011(Xem: 18429)
Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
27 Tháng Tư 2011(Xem: 19583)
Tôi không nói được gì hết, chỉ gục đầu vào vai vợ tôi rồi bật khóc . Vợ tôi chưa biết những gì đã xãy ra nhưng chắc nàng đoán được rằng tôi phải đau khổ lắm mới phát khóc như vậy. Cho nên nàng vừa đưa tay vuốt vuốt lưng tôi vừa nói, giọng đầy cảm xúc :« Ờ…Khóc đi anh ! Khóc đi ! »
23 Tháng Tư 2011(Xem: 18036)
Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước Việt Nam Cộng Hòa thân yêu của tôi. Tôi để hình tôi trên bàn thờ là coi như mình đã chết theo với nước Việt Nam Cộng Hòa của tôi. Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹ, vợ con
03 Tháng Tư 2011(Xem: 19699)
Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc... đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.... *
23 Tháng Ba 2011(Xem: 20135)
tưởng đã được giải quyết, phân tán người Việt Nam tỵ nạn trên nước Mỹ, nhưng không ngờ Xe đò Hoàng đơn thân độc mã mỗi ngày một chuyến kéo hai thành phố đông dân cư Việt Nam lại càng gần với nhau hơn nữa.
21 Tháng Hai 2011(Xem: 19841)
Già thì già, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc – hạnh phúc hơn một tỷ người khác – cho dù hạnh phúc đó vẫn được họ đếm từng ngày sau mỗi buổi sớm mai thức dậy…
10 Tháng Hai 2011(Xem: 18517)
Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ' Bầu bí một giàn'
04 Tháng Hai 2011(Xem: 19461)
Thế đó, họ bán, họ mua vừa như thật, vừa như “chơi” nhưng ai cũng hăm hở, náo nức. Dường như mỗi người đi chợ đang “bán”, đang “mua” cho mình một nỗi nhớ quê nhà vời vợi.
02 Tháng Hai 2011(Xem: 21361)
Hương thơm của gạo, vị ngọt của cơm lẩn với cát sạn tựa như cuộc đời của những quân nhân QLVNCH nói chung, SVSQTĐ nói riêng đã tự hào vào ngày mãn khóa sau mấy tháng quân trường mồ hôi thử thách đó là hương thơm của gạo. Để rồi chuẩn bị dấn thân vào cuộc đời đầy gian khổ hiểm nguy sống chết khó lường
28 Tháng Giêng 2011(Xem: 20996)
Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt.
21 Tháng Giêng 2011(Xem: 19739)
Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng lòng lắm với những gì mình đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.
16 Tháng Giêng 2011(Xem: 20177)
Thành phố lên đèn, tôi vật vờ vô định thoáng nghe bên tai tiếng dương cầm giai điệu bản "Giao hưởng số chin, cung rê thứ" của L.V. Beethoven mà tôi học ngày nào. Hiện tại, tôi chơi nhạc đám ma. Cái chết - quy luật tất yếu giúp tôi sinh tồn, các giá trị nghệ thuật cao quý chỉ còn là hoài niệm!
02 Tháng Giêng 2011(Xem: 21888)
Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du ...
07 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20690)
Trong cuộc chiến Việt Nam, những chàng pilot nổi tiếng hào hoa ở thành phố. Là thần tượng của các cô con gái đẹp. Nhưng có lẽ ít ai biết rằng, những chàng trai trẻ ấy lại là những chiến sĩ rất hào hùng trên khắp các chiến trường. Bao phen xem cái chết tựa lông hồng.
05 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 21695)
Lâu nay, khá đông người cho rằng thi sĩ Hàn Mạc Tử và nhà giáo kiêm cư sĩ Hoàng Thị Kim Cúc từng có một tình yêu đôi lứa. Lắm sách báo ghi nhận như vậy. Ngay cả lối sống khá đặc biệt của Kim Cúc – suốt đời độc thân, làm thơ tặng Hàn, chẳng chuyện trò điều này với người trong nhà… – càng khiến dư luận nghĩ vậy.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20149)
Hầu hết bạn bè tôi, nếu còn sống sót sau cuộc chiến tang thương đó, kẻ đã phải ra đi trong loạn lạc, ly tan, người thì được ông bạn đồng minh phản bội năm xưa, can thiệp với kẻ cựu thù cho "ra đi trong vòng trật tự" sau nhiều năm bị đày đọa ngục tù, vợ con nheo nhóc, để giờ này mỗi người trôi dạt một phương, mang theo những vết thương không lành được ở trong lòng. Biết đến khi nào chúng tôi mới đuợc như những con chim trane đang tụ tập ca hót líu lo ngoài kia, trươc giờ bay xuống phương nam?
17 Tháng Mười Một 2010(Xem: 20942)
Một câu chuyện thật dí dỏm. Câu chuyện phần nào đã gợi nhớ đến một quảng đời thơ ấu thật êm đềm, hoa bướm ở vùng quê . Phải chi không có biến cố tháng tư 75, cuộc sống của những người dân miền nam hiền hòa chắc chắn là mãi mãi thanh bình, thịnh vượng, và an lành như tác giả "Lấy vợ miền quê" đã mô tả rất chân thật trong câu chuyện
11 Tháng Mười 2010(Xem: 19284)
Bây giờ, nhìn chú Ba nằm đó, tôi lại nhớ câu nói cuối cùng của chú: “Cứ để lá cờ ở đó, trong đầu óc của chú sẽ nhớ mãi hình ảnh lá cờ VNCH tung bay trong gió. Sau này, lá cờ sẽ ra sao? Để tương lai trả lời.”
08 Tháng Mười 2010(Xem: 20132)
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa...
08 Tháng Mười 2010(Xem: 21869)
Mọi người đều đến cõi đời nầy với hai bàn tay trắng, thì lúc ra đi cũng chỉ với hai bàn tay trắng mà thôi. Ai ai cũng đều biết như vậy, nhưng hễ sao mỗi khi nghĩ đến chết thì thấy rờn rợn và hơi lo một chút... Sống sao cho đáng sống mới là việc khó. Đời là vô thường!
07 Tháng Mười 2010(Xem: 27840)
Kính nguyện cầu Đấng Thiên Thựợng Đế tối cao và Hồn thiêng sông núi phù hộ cho toàn dân Việt sớm có ngày "đắc lộ thanh vân", đưa nước Việt lên đỉnh đài vinh quang thịnh trị ngàn đời.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 22568)
Chúng ta thường đi tìm một cái gì bên ngoài để mang lại cho mình hạnh phúc như vật chất, nhà cửa, xe hơi, máy móc, tiện nghi, … hoặc tình cảm gia đình, thân quyến, bạn bè, người yêu, … hoặc danh vọng, địa vị, lý tưởng. Ta khát khao tìm kiếm vì tưởng mình nghèo nàn, thiếu thốn, tâm luôn phóng ra ngoài chạy theo trần cảnh. Trong kinh Pháp Hoa kể thí dụ đứa cùng tử suốt đời đi ăn xin vì không biết trong túi mình có viên ngọc quý, đến khi được người bạn nhắc tỉnh ngộ lấy ngọc ra xài liền hết đói khổ.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 18769)
Tháng 8-1999, tôi dọn nhà đến một căn phòng mới mướn. Trên ngăn kệ cao của closet, người mướn trước để sót lại một xấp “hồi ký” dầy 27 trang viết tay. Đêm đầu tiên ở phòng trọ mới, tôi đọc đoạn “hồi ký” bi hùng đó với nỗi niềm thương cảm không tả xiết: Thương cảm cho một danh tướng trong bước đường cùng của vận nước đen tối; thương cảm cho phu nhân và 2 người con của Tướng tuẫn tiết và thương cảm vị sĩ quan trẻ, có lẽ là Chánh Văn Phòng của vị tướng anh hùng, tức tác giả của đoạn “hồi ký” nầy.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19603)
Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận Việt Nam. Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, thì tấm lòng hoài.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 23151)
Người chết lâu rồi , người còn ở lại Từ cuối chân mây đêm bấc lạnh lùng Ngày hiển thánh cả giống nòi mong mỏi Của những linh hồn hữu thủy hữu chung
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19691)
Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ!!
06 Tháng Mười 2010(Xem: 21538)
Cổ nhân cũng đã có câu “ngu si hưởng thái bình”, hay là ta cứ an phận thủ thường, con gái thì mong trời sinh ra đừng quá đẹp, con trai thì đừng có quá tài ba. Còn giàu có bạc muôn không ham, chỉ mong đừng chạy gạo từng ngày. Cứ làng nhàng là xong, không ai thèm muốn, đố kỵ, ganh ghét, nghĩ chuyện đời: “Giàu như người ta cơm ngày ba bữa, đói như mình đây cũng đỏ lửa ba lần.”
05 Tháng Mười 2010(Xem: 19454)
hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được thắp nén hương trang trọng cho chị, thưa chị Nở.