8:38 SA
Thứ Tư
24
Tháng Tư
2024

Ngoéo giò ông Sển - Đoàn Xuân Thu.

20 Tháng Giêng 202211:27 SA(Xem: 3950)
Ngoéo giò ông Sển
ben thanh
Sển đây là ông Vương Hồng Sển (1902-1996) Là người Sóc Trăng, ông Sển mang 3 dòng máu: Việt, Hoa, Miên. Cha là Hoa, mẹ là Việt lai Miên. Thế nên tiếng Việt, tiếng Tàu, tiếng Miên, ông Sển đều biết.
Rồi năm 1919, sau 4 năm theo học trường Chasseloup Laubat (mà ổng gọi là trường ‘Xách Lu’), ông đậu được cái bằng Thành Chung. Cái bằng Thành Chung nầy chứng tỏ tiếng Tây ông cũng rành sáu câu vọng cổ.
Ông Vương Hồng Sển sống tới 94 tuổi, gần trọn thế kỷ XX. Tất ông đã chứng kiến biết bao nhiêu là biến cố trong lịch sử Miền Nam Việt Nam.
Là nhà biên khảo, am tường văn hóa, lại khoái sưu tầm đồ cổ nên nhiều lần hai trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn và Huế có mời ông đến thuyết giảng.
Tóm lại ông Vương Hồng Sển là một cây đa, cây đề của cái đất Sài Gòn. Người viết thiệt trong bụng là hổng dám đôi co, cãi cọ với ông Vương Hồng Sển rồi. Nhưng không cãi thì cũng tức ‘anh ách’ trong bụng! Phần cái chuyện bàn luận về văn chương, đâu có cái vụ già trẻ, chiếu trên, chiếu dưới trong cái đình văn học, tùy theo ai nổi tiếng nhiều hay ít chen vô ở đây?
Nên tui đã không ‘kính cụ’ mà còn bạo gan, xăm mình, uống thuốc liều, đưa cái lập luận nầy ra để làm cái cù nèo ngoéo giò học giả Vương Hồng Sển một cái cho vui vậy mà!
Chẳng qua có cái chuyện vầy nè: Bà con mình ở Miền Nam và nhứt là ở cái đất Bến Nghé Sài Gòn chắc ai ai cũng đã từng biết địa danh Bến Thành là:
1. Bến Thành là một bến sông.
2. Bến Thành là một cái chợ.
3. Bến Thành là một cái ga xe lửa Sài Gòn đi Mỹ Tho
Một tên Bến Thành mà đặt cho ba địa điểm có chức năng hoàn toàn khác nhau. Chính vì thế mà đến ngay cả học giả Vương Hồng Sển cũng lẫn lộn cũng là điều dễ hiểu.
Ông Vương Hồng Sển lẫn lộn cái gì?
Ca dao quê mình có câu: “Bên dưới có sông; bên trên có chợ! Ta với mình chồng vợ nên chăng?”
Bà con để ý thử coi Miền Nam của tụi mình cái chợ bao giờ cũng nằm trên một bến sông.
Tại sao vậy? Chẳng qua để tiện giao thông, buôn bán hàng hóa, khi đường bộ còn chưa phát triển, thì đường thủy, đường sông là chọn lựa trước tiên?
Theo các nhà Sử Địa cho biết về Chợ Bến Thành như sau: “Nguyên thủy, chợ Bến Thành đã có trước khi người Pháp xâm chiếm đất Gia Định. Ban đầu, chợ nằm trên bờ sông Bến Nghé, cạnh một bến sông gần thành Gia Định (bấy giờ là thành Quy, còn gọi là thành Bát Quái). Bến này dùng để cho hành khách vãng lai và lính tráng vào thành, vì vậy mới có tên gọi là Bến Thành. Trên Bến cũng có một cái chợ cũng có tên gọi là chợ Bến Thành.”
Tuy nhiên, sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi (1833-1835), thành Quy bị triệt hạ, phố chợ Bến Thành cũng không còn sầm uất như trước nữa.
Tháng Hai, năm 1859, Pháp chiếm thành Gia Định và hai ngày sau, các binh lính người Việt đã tổ chức hỏa công thiêu rụi cả thành phố. Tất nhiên chợ Bến Thành cũng bị thiêu hủy.
Sau khi đã vững chân trên mảnh đất Nam Kỳ, năm 1860, người Pháp đã cho cho xây cất lại chợ Bến Thành ở địa điểm cũ (thời Việt Nam Cộng Hòa là Tổng Nha Ngân khố trên đường Nguyễn Huệ). Ngôi chợ được xây bằng cột gạch, sườn gỗ, và lợp lá.
Đến tháng Bảy, năm 1870, chợ bị cháy mất một gian, phải cất lại bằng cột gạch, sườn sắt, lợp bằng ngói. Chợ có tất cả 5 gian: thực phẩm, cá, thịt, gian hàng ăn uống và gian hàng tạp hóa.
Vào năm 1887, thực dân Pháp cho lấp con kinh và sát nhập hai con đường lại làm một, thành đại lộ Charner. Dân bản xứ gọi nôm na là đường Kinh Lấp (nay là Đại lộ Nguyễn Huệ). Khu chợ càng trở nên đông đúc với các cửa hiệu phần nhiều là của người Hoa, người Ấn Độ và người Pháp làm chủ
Tuy nhiên, khoảng giữa năm 1911, ngôi chợ trở nên cũ kỹ và lâm vào tình trạng có thể bị sụp đổ. Để tránh tai họa, người Pháp bèn lựa chọn một địa điểm khác để xây cất một khu chợ mới, lớn hơn để phục vụ nhu cầu buôn bán sầm uất ngày càng phát triển.
Địa điểm được lựa chọn nằm gần ga xe lửa Mỹ Tho (sau là Bến xe Sài Gòn), tức là địa điểm chợ Bến Thành ngày nay.
Năm 1955, thời Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam, phía trươc mặt là: Bùng binh Chợ Bến Thành. Ba con đường còn lại quanh chợ này được đổi tên thành: đường Lê Thánh Tôn, đường Phan Bội Châu và đường Phan Châu Trinh.
Rồi ông Vương Hồng Sển (1902-1996) có chép lại câu ca dao:
“Mười giờ tàu lại Bến Thành.
Xúp lê vội thổi, bộ hành lao xao”.
Và ông cắt nghĩa là: “Mười giờ có một chuyến xe lửa từ Mỹ Tho lên, đỗ ga ‘Bến Thành’ thì kéo còi ….” (sic). (Tui chép nguyên văn của ổng)
Tui cho rằng ông Vương Hồng Sển cắt nghĩa như vậy là trật lất?
Trật chỗ nào? Thưa bà con đây là lập luận của tui: Ông Vương Hồng Sển là người Sóc Trăng nhưng lại cắt nghĩa chữ tàu đây là tàu hỏa theo kiểu Bắc Kỳ?!
(Tui không có phân biệt vùng miền gì ở đây hết ráo nhe bà con. Tui chỉ nói về từ địa phương mà thôi).
Theo tui, tiếng miền Nam gọi là xe lửa chớ không ai gọi là tàu hỏa cả.
Mười giờ, lúc có đồng hồ, thì chắc câu ca dao này là thời Tây thuộc địa rồi. Nhưng động từ ‘lại Bến Thành’ để chỉ chiếc xe lửa vào ga thì nghe không có lý. ‘Lại’ chỉ chiếc tàu vô, cặp bến thì có lý hơn?!
Còn ‘súp lê’ theo ông nhà văn Hồ Biểu Chánh (1884-1958) cắt nghĩa rất rõ và rất chi tiết rằng: Súp lê, ông Hồ Biểu chánh viết bằng chữ ‘s’ thay vì chữ ‘x’ như ông Vương Hồng Sển.
Súp lê, soufler, thổi còi tàu.
Tàu được phép cho hơi nước thoát qua ống khói nên có âm thanh như tiếng thụt ống bễ của lò rèn.
Síp lê, siffler, thổi còi xe lửa. Xe lửa không được phép cho hơi nước thoát xuyên hết qua ống khói vì sẽ gây ô nhiễm (bụi than) chỉ được một phần thôi nên nó có âm thanh như tiếng huýt sáo.
Như vậy theo ông Hồ Biểu Chánh cắt nghĩa thì ‘súp lê’ là của tàu, ‘síp lê’ mới là của xe lửa.
Thế nên theo ông Hồ Biểu Chánh cắt nghĩa sự khác nhau giữa hai động từ, một dành cho tàu thuyền, một dành cho xe lửa thì câu ca dao nầy có nghĩa là lúc 10 giờ, tàu (thuyền) chạy bằng máy hơi nước mới vừa cặp vô bến Bến Thành. Chưa gì đã vội thổi súp lê, chuẩn bị tách bến; nên bộ hành lao xao hỏi sao kỳ vậy cà?
Còn hiểu theo ông Vương Hồng Sển: “Mười giờ tàu lại Bến Thành. Súp lê vội thổi bộ hành lao xao” là chiếc tàu hỏa (chiếc xe lửa) vô ga Bến Thành là hiểu trật lất.
Còn cái chuyện bộ hành lao xao, theo ý tui đoán, là nó có liên quan tới cuộc binh biến đêm 14, rạng ngày 15, tháng Hai, năm 1916 tại cái đất Sài Gòn.
Khuya đêm đó, có khoảng vài trăm nghĩa quân ở Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, tất cả đều mặc áo đen, quần trắng, cổ quấn khăn trắng, bí mật từ ghe, thuyền cập bến đang neo đậu ở chân cầu Ông Lãnh tràn lên để cứu Phan Xích Long.
(Phan Xích Long là một lãnh tụ hội kín đang bị nhốt trong khám lớn Sài Gòn sau cuộc khởi nghĩa bất thành vào năm 1913).
Vì những nghĩa quân nầy đã từ tàu khách đổ bộ lên bến nước gây binh biến; nên thực dân Pháp sau khi đã dìm cuộc khởi nghĩa trong biển máu hồi rạng sáng, chúng siết chặt an ninh bằng cách đuổi tàu khách không cho vào cặp bến. Chính vì chuyện bất thường như vậy mới làm hành khách lao xao vì không biết chuyện gì đã xảy ra?
Thế nên bà con ơi! Chỉ có một câu lục và một câu bát, một câu ca dao có tổng cộng chỉ 14 chữ mà ông bà mình kể lại một thiên anh hùng ca của những người dân Việt bất khuất. Những nghĩa quân đó thà chết; chớ không chịu sống đời nô lệ ngoại bang vào đầu thế kỷ thứ 20, ở Bến Thành, cái đất Sài Gòn yêu dấu của chúng ta.
Đoàn Xuân Thu.
Melbourne.
Tranh Bảo Huân.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Năm 2011(Xem: 18523)
Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
27 Tháng Tư 2011(Xem: 19672)
Tôi không nói được gì hết, chỉ gục đầu vào vai vợ tôi rồi bật khóc . Vợ tôi chưa biết những gì đã xãy ra nhưng chắc nàng đoán được rằng tôi phải đau khổ lắm mới phát khóc như vậy. Cho nên nàng vừa đưa tay vuốt vuốt lưng tôi vừa nói, giọng đầy cảm xúc :« Ờ…Khóc đi anh ! Khóc đi ! »
23 Tháng Tư 2011(Xem: 18139)
Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước Việt Nam Cộng Hòa thân yêu của tôi. Tôi để hình tôi trên bàn thờ là coi như mình đã chết theo với nước Việt Nam Cộng Hòa của tôi. Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹ, vợ con
03 Tháng Tư 2011(Xem: 19793)
Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc... đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.... *
23 Tháng Ba 2011(Xem: 20242)
tưởng đã được giải quyết, phân tán người Việt Nam tỵ nạn trên nước Mỹ, nhưng không ngờ Xe đò Hoàng đơn thân độc mã mỗi ngày một chuyến kéo hai thành phố đông dân cư Việt Nam lại càng gần với nhau hơn nữa.
21 Tháng Hai 2011(Xem: 19928)
Già thì già, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc – hạnh phúc hơn một tỷ người khác – cho dù hạnh phúc đó vẫn được họ đếm từng ngày sau mỗi buổi sớm mai thức dậy…
10 Tháng Hai 2011(Xem: 18594)
Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ' Bầu bí một giàn'
04 Tháng Hai 2011(Xem: 19538)
Thế đó, họ bán, họ mua vừa như thật, vừa như “chơi” nhưng ai cũng hăm hở, náo nức. Dường như mỗi người đi chợ đang “bán”, đang “mua” cho mình một nỗi nhớ quê nhà vời vợi.
02 Tháng Hai 2011(Xem: 21461)
Hương thơm của gạo, vị ngọt của cơm lẩn với cát sạn tựa như cuộc đời của những quân nhân QLVNCH nói chung, SVSQTĐ nói riêng đã tự hào vào ngày mãn khóa sau mấy tháng quân trường mồ hôi thử thách đó là hương thơm của gạo. Để rồi chuẩn bị dấn thân vào cuộc đời đầy gian khổ hiểm nguy sống chết khó lường
28 Tháng Giêng 2011(Xem: 21079)
Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt.
21 Tháng Giêng 2011(Xem: 19845)
Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng lòng lắm với những gì mình đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.
16 Tháng Giêng 2011(Xem: 20272)
Thành phố lên đèn, tôi vật vờ vô định thoáng nghe bên tai tiếng dương cầm giai điệu bản "Giao hưởng số chin, cung rê thứ" của L.V. Beethoven mà tôi học ngày nào. Hiện tại, tôi chơi nhạc đám ma. Cái chết - quy luật tất yếu giúp tôi sinh tồn, các giá trị nghệ thuật cao quý chỉ còn là hoài niệm!
02 Tháng Giêng 2011(Xem: 21972)
Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du ...
07 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20775)
Trong cuộc chiến Việt Nam, những chàng pilot nổi tiếng hào hoa ở thành phố. Là thần tượng của các cô con gái đẹp. Nhưng có lẽ ít ai biết rằng, những chàng trai trẻ ấy lại là những chiến sĩ rất hào hùng trên khắp các chiến trường. Bao phen xem cái chết tựa lông hồng.
05 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 21797)
Lâu nay, khá đông người cho rằng thi sĩ Hàn Mạc Tử và nhà giáo kiêm cư sĩ Hoàng Thị Kim Cúc từng có một tình yêu đôi lứa. Lắm sách báo ghi nhận như vậy. Ngay cả lối sống khá đặc biệt của Kim Cúc – suốt đời độc thân, làm thơ tặng Hàn, chẳng chuyện trò điều này với người trong nhà… – càng khiến dư luận nghĩ vậy.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20243)
Hầu hết bạn bè tôi, nếu còn sống sót sau cuộc chiến tang thương đó, kẻ đã phải ra đi trong loạn lạc, ly tan, người thì được ông bạn đồng minh phản bội năm xưa, can thiệp với kẻ cựu thù cho "ra đi trong vòng trật tự" sau nhiều năm bị đày đọa ngục tù, vợ con nheo nhóc, để giờ này mỗi người trôi dạt một phương, mang theo những vết thương không lành được ở trong lòng. Biết đến khi nào chúng tôi mới đuợc như những con chim trane đang tụ tập ca hót líu lo ngoài kia, trươc giờ bay xuống phương nam?
17 Tháng Mười Một 2010(Xem: 21043)
Một câu chuyện thật dí dỏm. Câu chuyện phần nào đã gợi nhớ đến một quảng đời thơ ấu thật êm đềm, hoa bướm ở vùng quê . Phải chi không có biến cố tháng tư 75, cuộc sống của những người dân miền nam hiền hòa chắc chắn là mãi mãi thanh bình, thịnh vượng, và an lành như tác giả "Lấy vợ miền quê" đã mô tả rất chân thật trong câu chuyện
11 Tháng Mười 2010(Xem: 19383)
Bây giờ, nhìn chú Ba nằm đó, tôi lại nhớ câu nói cuối cùng của chú: “Cứ để lá cờ ở đó, trong đầu óc của chú sẽ nhớ mãi hình ảnh lá cờ VNCH tung bay trong gió. Sau này, lá cờ sẽ ra sao? Để tương lai trả lời.”
08 Tháng Mười 2010(Xem: 20233)
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa...
08 Tháng Mười 2010(Xem: 21987)
Mọi người đều đến cõi đời nầy với hai bàn tay trắng, thì lúc ra đi cũng chỉ với hai bàn tay trắng mà thôi. Ai ai cũng đều biết như vậy, nhưng hễ sao mỗi khi nghĩ đến chết thì thấy rờn rợn và hơi lo một chút... Sống sao cho đáng sống mới là việc khó. Đời là vô thường!
07 Tháng Mười 2010(Xem: 27944)
Kính nguyện cầu Đấng Thiên Thựợng Đế tối cao và Hồn thiêng sông núi phù hộ cho toàn dân Việt sớm có ngày "đắc lộ thanh vân", đưa nước Việt lên đỉnh đài vinh quang thịnh trị ngàn đời.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 22675)
Chúng ta thường đi tìm một cái gì bên ngoài để mang lại cho mình hạnh phúc như vật chất, nhà cửa, xe hơi, máy móc, tiện nghi, … hoặc tình cảm gia đình, thân quyến, bạn bè, người yêu, … hoặc danh vọng, địa vị, lý tưởng. Ta khát khao tìm kiếm vì tưởng mình nghèo nàn, thiếu thốn, tâm luôn phóng ra ngoài chạy theo trần cảnh. Trong kinh Pháp Hoa kể thí dụ đứa cùng tử suốt đời đi ăn xin vì không biết trong túi mình có viên ngọc quý, đến khi được người bạn nhắc tỉnh ngộ lấy ngọc ra xài liền hết đói khổ.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 18871)
Tháng 8-1999, tôi dọn nhà đến một căn phòng mới mướn. Trên ngăn kệ cao của closet, người mướn trước để sót lại một xấp “hồi ký” dầy 27 trang viết tay. Đêm đầu tiên ở phòng trọ mới, tôi đọc đoạn “hồi ký” bi hùng đó với nỗi niềm thương cảm không tả xiết: Thương cảm cho một danh tướng trong bước đường cùng của vận nước đen tối; thương cảm cho phu nhân và 2 người con của Tướng tuẫn tiết và thương cảm vị sĩ quan trẻ, có lẽ là Chánh Văn Phòng của vị tướng anh hùng, tức tác giả của đoạn “hồi ký” nầy.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19705)
Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận Việt Nam. Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, thì tấm lòng hoài.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 23250)
Người chết lâu rồi , người còn ở lại Từ cuối chân mây đêm bấc lạnh lùng Ngày hiển thánh cả giống nòi mong mỏi Của những linh hồn hữu thủy hữu chung
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19784)
Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ!!
06 Tháng Mười 2010(Xem: 21662)
Cổ nhân cũng đã có câu “ngu si hưởng thái bình”, hay là ta cứ an phận thủ thường, con gái thì mong trời sinh ra đừng quá đẹp, con trai thì đừng có quá tài ba. Còn giàu có bạc muôn không ham, chỉ mong đừng chạy gạo từng ngày. Cứ làng nhàng là xong, không ai thèm muốn, đố kỵ, ganh ghét, nghĩ chuyện đời: “Giàu như người ta cơm ngày ba bữa, đói như mình đây cũng đỏ lửa ba lần.”
05 Tháng Mười 2010(Xem: 19563)
hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được thắp nén hương trang trọng cho chị, thưa chị Nở.