7:28 SA
Thứ Sáu
29
Tháng Ba
2024

Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh - Hoàng Yên Lưu

23 Tháng Mười 201312:00 SA(Xem: 11144)

Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh

vanghehy-large-content
Hoàng Yên Lưu

Hai nhà văn có công đầu xây dựng nền văn học quốc ngữ, đặc biệt là báo chí, và có nhiệt tâm cải thiện văn hóa, xã hội của chúng ta trong giai đoạn giao thời giữa Đông và Tây hồi đầu thế kỷ XX là Nguyễn văn Vĩnh (1882-1936) và Phạm Quỳnh (1892-1945).
Cả hai đều uyên thâm hai nền học cổ-kim, đều xuất thân hạng đầu trường Thông ngôn, bước đầu sự nghiệp đều bỏ quan trường sang làm báo và cùng qua đời vào tuổi trung niên, tuy nhiên ông Vĩnh dù lớn hơn ông Quỳnh 10 tuổi nhưng cấp tiến hơn ông Quỳnh trong sinh hoạt cũng như về quan điểm và văn phong.
Sự khác biệt giữa hai nhà văn tiền phong kỳ cựu trên được Giáo sư Nghiêm Toản trong bộ Việt Nam Văn học sử trích yếu so sánh như sau:
“Nguyễn văn Vĩnh nổi tiếng dịch rất nhiều sách Tây và có công hội họp các nhà văn tân, cựu cùng thời, lập nên một cơ quan văn học (Đông dương tạp chí) trong buổi quốc ngữ mới sơ khai, gây thành phong trào yêu mến tiếng Việt trong hàng thanh niên trí thức.
Ông dịch đủ các loại: thơ ngụ ngôn, kịch, truyện dài, truyện ngắn, song hay nhất là mấy bộ: Gil Blas de Santillane, Manon Lescaut (Mai nương lệ cốt), Les Trois Mousquetaires (Ba người ngự lâm pháo thủ), Les Misérables (Những kẻ khốn nạn), toàn là văn phẩm có giá trị và rất nổi danh.
Ông dịch thật tài, chỉ cần thoát ý, không cần đúng từng chữ từng câu; lời văn ông có tính chất Việt nam hoàn toàn, làm cho hứng thú kẻ đọc tăng lên; nhiều đoạn ông dịch sát nghĩa vô cùng và văn linh hoạt tự nhiên; chúng ta không ngờ rằng trước đây 30 năm (kể tới năm cuối tiền-bán thế kỷ XX) chữ quốc ngữ mới ở bước đầu, đã có thể diễn dịch được hết ý nghĩa tinh thần câu văn Pháp.
Phạm Quỳnh khác hẳn Nguyễn văn Vĩnh, vì ông chuyên về mặt tư tưởng và lưu ý khảo các học thuyết Thái Tây để luyện cho quốc văn có thể phô diễn được những ý niệm mới; văn phẩm của ông đều đăng ở Nam Phong tạp chí rồi sau in lại thành sách trong Nam Phong tùng thư.
Phần dịch có: Phương pháp luận của Descartes, Đời đạo lý của Paul Carton… Trứ thuật có: luận thuyết, ký sự (Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam kỳ, Pháp du hành trình nhật ký…).
Song trong văn nghiệp của ông, loại khảo cứu mới là phần quan trọng. Xin tạm kể:
- Về phía Pháp: học thuyết Montesquieu, Voltaire, Rousseau… chính trị nước Pháp, Văn minh luận, Thế giới tiến bộ sử.
- Về phía Á đông và Việt Nam: Người quân tử trong đạo Khổng, Phật giáo lược khảo, Hán Việt văn tự, Ca dao tục ngữ, Việt nam thi ca, Văn chương lối hát Ả đào…
Văn ông Vĩnh giản dị nhẹ nhàng, văn ông Quỳnh chắc chắn trang nghiêm; cho nên ta có thể nói văn ông Vĩnh dễ phổ cập trong đám dân thường, còn văn ông Quỳnh có tính chất đạo mạo của nhà học giả”.
Giữa hai ngôi sao văn học đầu thế kỷ XX, Phạm Quỳnh và Nguyễn văn Vĩnh, thì người đương thời lớp lớn tuổi, có khuynh hướng bảo thủ, trọng ông Quỳnh hơn ông Vĩnh. Nhưng với đám trẻ tuổi của thế hệ 1932 như Vũ Bằng (1913-1984), Nguyễn Vỹ (1912-1971)… lại tỏ ra thích ông Vĩnh hơn ông Quỳnh. Ta hãy thử đọc lại hồi ký Văn thi sĩ tiền chiến (ký ức văn học Khai trí xb-Saigon-1970) của Nguyễn Vỹ khi nhà thơ so sánh hai tay kiệt liệt trên văn đàn đã kể trên, hy vọng biết thêm về họ và ảnh hưởng của họ đối với độc giả và giới cầm bút đương thời:
Tác giả những vần thơ Bạch nga, nhớ lại lần đầu tiên trông thấy Nguyễn văn Vĩnh:
“Hồi hãy còn là một sinh viên bé nhỏ, tôi đã coi Nguyễn Văn Vĩnh như bậc Đại Nhân, siêu quần bạt tụy, tài trí vô song. Chỉ vì tôi đã đọc hết của ông bản dịch bộ sách LES MISÉRABLES của VICTOR HUGO. Trước đó, tôi đã đọc vài bản dịch Chinh Phụ Ngâm ra tiếng Pháp, bài Le Lac ra tiếng Việt, tôi đã không được thỏa mãn. Từ khi đọc mấy bài Fables de La Fontaine của Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra Việt ngữ, và bộ sách dịch “Những kẻ khốn nạn” của ông rất là vĩ đại, thì mỗi lần chỉ thấy cái tên của ông tôi đã cúi đầu khâm phục rồi.
Vào khoảng năm 1930, báo L’Annam Nouveau của ông bằng Pháp văn ra đời. Tôi mua ngay từ số 1, cũng như các bạn trẻ ham học hồi đó. Dù là sinh viên nghèo, chúng tôi cũng ráng mua cho được, mỗi tuần hai kỳ, các số báo L’Annam Nouveau cho đến khi nó tự đóng cửa, vì ông Vĩnh bị vỡ nợ.
Mê Việt văn của ông, thích cả Pháp văn của ông, tôi chỉ ao ước được gặp ông một lần, được hầu chuyện với ông, dù trong một tiếng đồng hồ. Một buổi chiều vào khoảng ba giờ, một người bạn cùng tôi đang đi trên vỉa hè phố Hàng Gai, bỗng người bạn chỉ tôi một ông to béo, mặc âu phục trắng đội mũ trắng bự giống như cái “mũ thuộc địa” (casque colonial của Tây hồi đó), ngồi trên chiếc xe môtô kềnh càng, nổ bình bịch và kêu rầm rầm, từ hàng Bông chạy thẳng xuống hàng Gai. Chúng tôi đứng lại ngó ông. Lúc ông chạy vụt ngang qua chúng tôi, tôi cúi đầu chào. Ông không trông thấy. Nhưng tôi vui sướng vô cùng. Tôi đã thấy mặt nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh.
Trong ba năm còn là cậu sinh viên nhỏ bé, tôi chỉ thấy ông Nguyễn Văn Vĩnh có một lần đó thôi. Nhưng hình ảnh của ông nhà văn to lớn kia đã in sâu vào trong trí nhớ của tôi, và mỗi khi tôi nghĩ đến ông, hay đọc một bài báo, một quyển sách của ông, thì, lạ quá, tôi cứ nghe tiếng xe môtô nổ bình bịch và chạy rầm rầm bên tai tôi”.
Còn chân dung Phạm Quỳnh được Nguyễn Vỹ hồi ức qua lăng kính tình cảm bản thân:
“Một hôm, bọn học sinh chúng tôi, được các giáo sư cho biết là chiều thứ bảy ông Phạm Quỳnh sẽ diễn thuyết tại giảng đường của trường Cao đẳng, chúng tôi nô nức đợi đến chiều ấy để nghe.
Ông chủ nhiệm tạp chí Nam Phong sẽ diễn thuyết bằng tiếng Pháp, về một đề tài rất hấp dẫn: Le Paysan Tonkinois à Travers le Parler populaire (Người dân quê Bắc Việt, xét qua ca dao bình dân).
Kể ra chúng tôi đọc tạp chí Nam Phong đã lâu lắm rồi. Riêng tôi, tôi đã được đọc nó thỉnh thoảng một đôi quyển, của Thầy tôi mượn ở đâu về, vì thời bấy giờ tạp chí Nam Phong ít có bán ở các tiệm sách. Hầu hết độc giả Nam Phong là những quan lại, hoặc một số “trí thức thượng lưu” và “trung lưu” mua năm. Khuynh hướng chính trị gác hẳn ra một bên, chỉ đứng về phía văn học mà thôi thì chúng tôi, tất cả thanh niên trí thức lúc bấy giờ, đều phục cái tài cao học rộng của ông Phạm Quỳnh.
Chữ Pháp, ông viết rất trôi chảy, với một lối hành văn rất bóng bẩy văn hoa, vừa giản dị, khúc chiết, vừa dồi dào ý tưởng.
Việt văn của ông cũng thế. Câu văn rất được săn sóc, điêu luyện theo như hành văn Pháp, rất thận trọng trong việc dùng chữ. Ông đưa đẩy ngòi bút dịu dàng, chững chạc, không dây dưa rườm rà, hoặc nặng nề theo kiểu một số nhà Nho, như ông cử Dương Bá Trạc hay ông Lê Dư, cũng không cứng rắn và đôi khi quá giản dị, thực tế, như cú pháp của ông Nguyễn Văn Vĩnh.
Văn của Phạm Quỳnh là lối văn quí phái, “lối văn hàn lâm viện” như người Pháp nói.
Không thể nào không nhìn nhận rằng thời bấy giờ, ai đọc văn của Phạm Quỳnh cũng đều phải phục văn tài của ông.
Nhất là tụi thanh niên chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi cuốc bộ trên vỉa hè phố Hàng Da, thấy ông Phạm Quỳnh ngồi chễm chệ trên chiếc xe kéo nhà, sơn màu gạch bóng loáng, từ trong cổng nhà ông đi ra, hoặc đi đâu về.
Đi xe kéo nhà như thế, là sang nhất lúc bấy giờ. Ông mặc quốc phục Việt, áo dài the đoạn, hoặc Satin. Không bao giờ Phạm Quỳnh mặc Âu phục, chân luôn luôn mang giày Escarpin (một kiểu giày của những người trưởng giả thời ấy), đầu chít khăn đóng, mắt đeo kính trắng. Vì điệu bộ quí phái ra vẻ bệ vệ của ông mà đám thanh niên trí thức chế nhạo ông, đặt cho ông cái biệt hiệu là “Kính trắng tiên sinh”. Tiếng Bắc, kính tức là kiếng trong tiếng Nam…
Hôm chiều thứ bảy ấy, ông Phạm Quỳnh diễn thuyết bằng tiếng Pháp tại giảng đường Cao đẳng Đông Dương ở Hà Nội, đường Bobillot, sinh viên đến nghe rất đông. Ở từng dưới, là các dãy ghế danh dự, có ông Thống sứ Bắc Kỳ chủ tọa, với tất cả các nhân vật cao cấp Pháp Việt ở Hà Nội, đa số là Tây và Đầm. Còn chúng tôi là sinh viên thì chen nhau đứng chật bao lơn từng trên, – theo tiếng thông dụng các rạp hát lúc bấy giờ gọi là trên “chuồng gà” (poulailler). Tôi đứng với một đám nam sinh và nữ sinh trường Thuốc và Sư phạm, phía bên trái. Có một cô bạn cứ ho từng cơn, khiến chúng tôi rất bực mình.
Sau lời giới thiệu của viên Giám đốc Học Chánh Bắc Kỳ, ông Phạm Quỳnh từ phía sau giảng đường ung dung bước ra diễn đàn. Ông rất bình tĩnh, thong thả, bệ vệ.
Lúc bấy giờ không có micro, nhưng Phạm Quỳnh cất tiếng nói rõ ràng, chững chạc, êm ái. Chúng tôi ở trên “chuồng gà” nghe rất rõ. Đứng nói mấy lời cảm ơn các quan khách, rồi ông thong thả ngồi xuống ghế, trước chiếc bàn gỗ gụ lớn, trải tấm khăn nhung xanh màu da trời.
Ông đủng đỉnh gỡ cặp kiếng trắng gọng bạc để xuống bàn, lấy cặp kiếng trắng gọng vàng đeo vào, và rút trong túi áo ra một xấp giấy đánh máy.
Ông cất tiếng nói. Ông không chúi mũi xuống giấy như nhiều diễn giả khác đọc như đọc bài văn tế. Ông cũng không nói lung tung lộn xộn như một số diễn giả khác không theo một dự thảo hoạch định trước. Ông đã viết sẵn bài thuyết trình, rồi theo đó mà nói, thỉnh thoảng mới ngó vào giấy, nói rất tự nhiên, rất lưu loát, văn hoa… Tất cả đều phục ông Phạm Quỳnh có tài hùng biện, hoạt bát, duyên dáng mà vẫn nghiêm nghị. Lần đầu tiên chúng tôi được nghe một người Việt Nam diễn thuyết trước công chúng tri thức Việt Pháp trên 500 người, bằng tiếng Pháp lưu loát hấp dẫn như thế. Hôm ấy, ông Phạm Quỳnh đã gây được lòng khâm phục hoàn toàn của toàn thể thính giả Pháp và Việt.
Tôi ra về thỏa mãn. Từ đó về sau, cũng như hầu hết các bạn trẻ sinh viên, tôi đã đọc tất cả các sách của Phạm Quỳnh xuất bản. Tác phẩm của ông đều là những bài ông đã viết đăng trong Nam Phong, và gom góp in ra thành sách. Dù nghèo túng đến đâu, chúng tôi cũng ráng để dành tiền mua sách của Phạm Quỳnh. Chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều trong các sách của ông. Chúng tôi cũng chịu ảnh hưởng nhiều trong lối hành văn và cách diễn đạt tư tưởng của bậc văn sĩ tài hoa ấy”.
Trong phần cuối của hồi ức về hai nhà văn tiền phong, thi sĩ Nguyễn Vỹ so sánh:
“Giới trí thức Hà Nội Tiền chiến thường so sánh hai nhân vật này, vì họ hoàn toàn trái ngược nhau. Trên bình diện chính trị, ông Phạm Quỳnh chủ trương Bảo Hoàng, yêu cầu chính phủ thuộc địa áp dụng đúng đắn Hiệp ước Patenôtre (1884), trao trả quyền hành chánh cho Bảo Đại ở cả Trung và Bắc Kỳ, theo một hiến pháp do Phạm Quỳnh soạn thảo, và được các báo Pháp đương thời gọi là “Constituion Pham Quynh”.
Nguyễn Văn Vĩnh, trái lại, đòi thực hành cho Trung Bắc Kỳ một chính sách mà ông gọi là Administration Directe (trực trị), nghĩa là dẹp bỏ ngôi vua, để Pháp trực tiếp cai trị với sự tham gia hành chánh trực tiếp của nhân dân do Thượng, Hạ Nghị Viện của nhân dân bầu cử. Người Pháp dĩ nhiên ủng hộ Phạm Quỳnh.
Chủ trương “trực trị” của Nguyễn Văn Vĩnh bị Phạm Quỳnh đả kích kịch liệt trong các bài xã thuyết của ông đăng trong nhật báo Pháp France-Indochine ở Hà Nội. Để “an ủi” Nguyễn Văn Vĩnh, Chủ nhiệm kiêm Chủ bút báo L’Annam Nouveau, Chính phủ Pháp tặng ông Bắc Đẩu Bội Tinh (Légion d’Honneur) là huy chương cao quý nhất của Pháp, nhưng ông Vĩnh không nhận.
Vụ huy chương này hoàn toàn giữ kín, dư luận dân chúng không hay biết gì, nhưng các giới trí thức và cách mạng ở Hà Nội đều biết rõ, và sự khí khái của ông Nguyễn Văn Vĩnh cương quyết từ khước “Légion d’Honneur” của Pháp, được các giới ấy, nhất là giới trí thức thanh niên, nhiệt liệt hoan nghênh.
Uy tín của Nguyễn Văn Vĩnh càng được tăng cao từ vụ này.
Về phương diện thuần túy văn học, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh cũng hoàn toàn trái ngược nhau.
Nam Phong Tạp chí, nguyên là do tiền trợ cấp của Chính phủ thuộc địa Pháp, và người sáng lập là Giám đốc Chánh trị vụ của Phủ Toàn quyền Đông Dương, tức cũng như Tổng Giám đốc Mật thám Phủ Toàn quyền.
Phạm Quỳnh có một lối văn Hàn lâm (style académique) rất văn hoa, nhưng chững chạc, nghiêm nghị, bệ vệ, văn Pháp cũng như văn Việt; khác hẳn lối văn giản dị thiết thực hoàn toàn bình dân của Nguyễn Văn Vĩnh, văn Pháp cũng như văn Việt của ông Chủ nhiệm L’Annam Nouveau và cựu Chủ bút Trung Bắc Tân văn, Đông Dương Tạp chí, thật là lưu loát, và thường châm biếm, đúng với truyền thống hài hước của tinh thần dân tộc Việt Nam. Văn Phạm Quỳnh có rất ít điểm hài hước hóm hỉnh đó.
Thanh niên Tiền chiến ưa tìm học hỏi nơi tri thức uyên thâm và văn chương hoa mỹ của Phạm Quỳnh, gác ngoài lập trường chính trị của ông, cũng như họ thích những kinh nghiệm về văn hóa tổng hợp, khoáng đạt, cởi mở, bình dân của Nguyễn Văn Vĩnh. Cho đến nếp sống cá nhân, gia đình, xã hội của hai người cũng cách biệt nhau xa.
Phạm Quỳnh đeo kính trắng gọng vàng, ngồi chiếc xe kéo nhà quí phái, đi đứng thong dong, nói cười mực thước, chỉ giao thiệp với hạng thượng lưu, vì vậy mà các giới thanh niên trí thức Hà Nội gọi ông là “Kính trắng Tiên sinh” và “Học phiệt”.
Trái lại, Nguyễn Văn Vĩnh thích mặc sơ mi, quần “short”, cỡi xe môtô, giao du với đủ các giới, nói to, cười lớn, ưa đánh tổ tôm, săn bắn và có óc phiêu lưu.
Ông Vĩnh có hai vợ, một bà Bắc, một bà Đầm lai, cả hai đều phải lo giúp đỡ ông, và gia đình ông tuy thuộc về giới thượng lưu nhưng luôn luôn túng thiếu.
Công việc kinh doanh của ông về sách báo, xuất bản, rất là rộng lớn mà phương diện tài chánh lại không được dồi dào.
Phạm Quỳnh, trái lại, được sung túc, ra vẻ danh gia thế phiệt, đại trưởng giả.
Kết cuộc số phận, hai ông đều là nạn nhân của hai thái cực: Phạm Quỳnh ra làm quan, lên bực Đại thần được tín dụng bên cạnh ngai vàng, quyền cao chức cả tột bực, để rồi, sau cùng, bị chết thê thảm… Nguyễn Văn Vĩnh bị phá sản, vì sự nghiệp văn chương rủ một người bạn Pháp, cũng có óc phiêu lưu văn nghệ như ông, đi qua Lào để tìm mỏ vàng! Sau cùng, ông chết ở Lào vì bệnh sốt rét rừng, xa quê hương, gia đình, bạn hữu, như một “bôhêmiên” bất cần định mạng”.
Hoàng Yên Lưu
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
20 Tháng Chín 2015(Xem: 13134)
Các bạn có thể chuyển cho bất cứ ai cũng là điều nên làm, vì may ra có thể giúp những người chưa bệnh sẽ không bệnh.
14 Tháng Chín 2015(Xem: 11197)
Quý vị có biết Tuần lễ Giáo Dục về Medicare với tầm mức quốc gia từ 15 tháng chín - 21 Tháng Chín?
23 Tháng Tám 2015(Xem: 12727)
Vai trò của người Bác Sĩ chỉ chiếm 30% phần còn lại là thuốc men và những quyền lợi rộng rải của các chương trình bảo hiểm cung ứng
16 Tháng Tám 2015(Xem: 13460)
nhưng cuối cùng cũng phải tự lực: “Tự mình thắp đuốc mà đi, tự mình là hòn đảo của chính mình”.
09 Tháng Tám 2015(Xem: 11736)
Đó là hành động khẩn cấp cứu nguy Đất nước trong lúc nầy, trước khi việt gian việt cọng ĐẦU HÀNG, giao Đất nước vào tay tàu khựa!
02 Tháng Tám 2015(Xem: 18075)
được nhiều người hát trong suốt 40 năm qua ở hải ngọai mỗi lần sinh họat cộng đồng là ca khúc “ Cờ Ta Bay Trên Quảng Trị Thân Yêu “
11 Tháng Bảy 2015(Xem: 12564)
Các chuyện này tuy còn xa vời nhưng điều gì cũng có thể xảy ra được. Và thời gian sẽ cho chúng ta câu trả lời rõ ràng nhất!
24 Tháng Sáu 2015(Xem: 13194)
Bắt đầu 3 tháng trước tháng quý vị tròn 65 tuổi, tính cả tháng quý vị tròn 65, và 3 tháng sau sau tháng quý vị tròn 65.
05 Tháng Sáu 2015(Xem: 11517)
Những kẻ tham nhũng trên toàn thế giới hẳn cũng đang lo.
02 Tháng Sáu 2015(Xem: 12972)
Thay đổi một thể chế chính trị cần vài năm. Cải tổ một nền văn hóa cần vài thế hệ cho đến vài thế kỷ để trở thành một nước vĩ đại.
09 Tháng Năm 2015(Xem: 11284)
Khả năng tuyệt vời của trực thăng 4 cánh KHÔNG NGƯỜI LÁI Sẽ ra sau khi 1 cái máy trở thành Vận Động Viên
01 Tháng Tư 2015(Xem: 13455)
Mất đất mà được lòng người là thắng Chiếm được đất mà mất lòng người là thua
31 Tháng Ba 2015(Xem: 14487)
ngày 30-04-1975 không thể gọi là ngày miền Bắc cộng sản giải phóng miền Nam tự do được, mà phải gọi ngược lại là ngày miền Nam đã giải phóng miền Bắc
31 Tháng Ba 2015(Xem: 16075)
Cho đến nay, những thông tin trên vẫn chưa được xác thực và chỉ lưu truyền như một trong nhiều giai thoại về nhà lãnh đạo lừng danh
30 Tháng Ba 2015(Xem: 11705)
Cựu Thủ Tướng Fraser, vị Đại Ân Nhân của CĐNVTD Úc Châu, là người đã thay đổi chính sách di trú của Úc và đã đón nhận gần 56000 Người Việt tỵ nạn
21 Tháng Ba 2015(Xem: 13426)
Đối với chúng tôi, đặt bút ký vào một hiệp ước tương đương với sự đầu hàng là chấp nhận một bản án tử hình, vì cuộc sống không có tự do là sự chết
13 Tháng Ba 2015(Xem: 12399)
Trận Ban Mê Thuột đã đưa tới sụp đổ Quân đoàn II và những sụp đổ kế tiếp lớn lao hơn thế, đó là một khúc quanh bi thảm trong cuộc chiến tranh dài nhất của thế Kỷ
12 Tháng Ba 2015(Xem: 11913)
Đàn ông cả đời đi tìm không phải là Vợ, cũng không phải là Người Tình mà là Hồng Nhan Tri Kỷ .
03 Tháng Ba 2015(Xem: 13490)
Đây là bài viết của tác giả Nguyễn Lộc từ trang báo Xây Dựng trong nước vào ngày 12 tháng 11 năm 2014, không biết đầy là niềm vui hay nỗi buồn của người Biên Hòa?
02 Tháng Ba 2015(Xem: 10500)
là phương châm đầu tiên của cả dân tộc này để rồi những người di dân sau tiếp tục phát triển, bồi đắp triết lý nhân văn ấy.
01 Tháng Ba 2015(Xem: 11275)
Ước mong nhiều Trung Tâm Sinh Hoạt như thế, sẽ được những mạnh thường quân yểm trợ xây dựng nhiều nơi tại hải ngoại.
25 Tháng Hai 2015(Xem: 13164)
Sen mọc ra từ bùn sình dơ dáy, nhưng lại có cái đức thanh cao của người quân tử
13 Tháng Hai 2015(Xem: 13554)
Gần 40 năm qua, đã có khá nhiều bài viết của người Việt bàn tán và nhận xét về cái chết nầy.
09 Tháng Hai 2015(Xem: 13239)
Tuổi Mùi là con dê chà, Có sừng có gạc, râu ria um tùm
08 Tháng Giêng 2015(Xem: 11943)
Mời các bạn xem qua để mở rộng sự hiểu biết về kỹ thuật mới mà Hoa Kỳ đã làm thay đổi giá dầu trên thế giời, và làm thay đổi cán cân quyền lực thế giới về sức ép của xăng dầu
03 Tháng Giêng 2015(Xem: 11815)
Riêng đối với chúng tôi nó là phần quan trọng nhất trong cuộc đời phóng viên của mình.
18 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 11439)
Tôi đã không hôn một người đàn ông trong một thời gian dài. Tất cả chúng tôi đều có ước mơ chung về tình yêu và gia đình
14 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 10476)
Hàng ngàn hình ảnh chọn lọc khó quên và gây nhiều cảm xúc xin đừng bỏ qua
12 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 10774)
Mai sau nếu trở về quê cũ Hy vọng ta còn tiếng khóc chung.
11 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 11376)
Kennedy Center là nơi xứng đáng nhất để vinh danh và tri ân quân cán chính Việt Nam Cộng Hoà vào đúng năm thứ 40 người Việt tị nạn và định cư ở Hoa Kỳ.
06 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 12454)
Mất nguồn thu từ dầu mỏ, ngày tàn của chế độ cộng sản Việt Nam có thể nhìn thấy. Tình hình có thể sẽ bị đảo ngược trong một hai năm tới.
05 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 24033)
Của người mẹ buồn héo hắt khổ đau Nhận xác con nhờ áo lem mực tím
02 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 11677)
chân thành cầu nguyện cho mọi người đều tốt đẹp, họ thường rải tâm từ bi đến muôn loài, từ con người, con thú đến tận cây cỏ lá hoa.
28 Tháng Mười Một 2014(Xem: 11411)
Mà sự thật khi tìm được sức sống từ nơi chính mình rồi thì ta sẽ không còn coi là quan trọng những giá trị bên ngoài nữa
28 Tháng Mười Một 2014(Xem: 10614)
Câu chuyện này chỉ được kể bằng ngôn ngữ quê mình. Kể cho nhau nghe để rút kinh nghiệm chứ cũng không cần phải dịch ra các ngôn ngữ khác làm gì cho …mệt và nhục
25 Tháng Mười Một 2014(Xem: 9698)
Nếu mọi người không quá coi trọng cái "tôi" vay mượn của mình thì sự xung đột ý thức hệ giữa cá nhân sẽ vơi bớt đi
22 Tháng Mười Một 2014(Xem: 10396)
Khi thời điểm chín mùi, các bạn sẽ là những kẻ đánh bại bọn bán nước, vì sự thực và lẽ phải thuộc về chúng ta, tất cả những người dân VN yêu nước.
22 Tháng Mười Một 2014(Xem: 9977)
Vì hiểu sai về hạn dùng, 90% người Mỹ ngay cả người VN cũng vậy! Họ đã phạm sai lầm là vứt bỏ thực phẩm và thuốc quá sớm.
20 Tháng Mười Một 2014(Xem: 12672)
The cost of freedom is always high but Americans have always paid it
16 Tháng Mười Một 2014(Xem: 10380)
Chỉ với một phương cách đào dầu tân tiến, Hoa Kỳ đã làm thay đổi hẳn những thế tính toán chiến lược địa dư trên toàn cầu.
14 Tháng Mười Một 2014(Xem: 10769)
một người đúng dưới đất không thể nhìn thấy nó được nên mặc dù tìm kiếm mãi mà vẫn không ai thấy... trừ khi họ đứng trên trần nhà nhìn xuống.
28 Tháng Mười 2014(Xem: 10661)
Chúng ta đang sống trong một thời đại XẠO HẾT CHỖ NÓI. Nga cũng xạo, Mỹ cũng xạo, Trung Cộng cũng xạo và Việt Nam cũng… rứa.
25 Tháng Mười 2014(Xem: 13632)
Ngày Quốc hội Lập hiến chính thức ban hành Hiến pháp (26/10/1956) được xem là ngày quốc khánh của nền cộng hòa
24 Tháng Mười 2014(Xem: 11061)
Đã đến lúc người dân Việt, trước hết là giới trẻ và trí thức nêu gương hy sinh, dẫn dắt đồng bào các giới vùng lên tranh đấu
22 Tháng Mười 2014(Xem: 10107)
người Việt Nam trước tiên phải hy sinh, phải tranh đấu cụ thể cho đất nước của chính mình trước khi mong đợi người ngoài giúp đỡ.”
21 Tháng Mười 2014(Xem: 10239)
Càng ngày càng tiến bộ, khoa học kỷ thuật tân tiến sẽ phục vụ con người t