7:23 CH
Thứ Năm
28
Tháng Ba
2024

THÔNG DỊCH PHIÊN DỊCH - THUẦN NGỌC

06 Tháng Năm 201412:00 SA(Xem: 9594)
blank

Trong Nam, to interpret là thông dịch. còn ngoài Bắc là phản dịch 1 . Chữ phản ở đây giống như chữ phản trong phản ảnh, tiếng Nam, hay phản ánh, tiếng Bắc. Phản dịch không hề hàm ý như trong câu tiếng Pháp Traduire, c'est trahir -- dịch tức là phản, vì chữ phản trong sau này có cùng nghĩa với chữ phản trong phản bội hay phản trắc. Phải dài dòng như thế vì thông dịch hay phản dịch rất phức tạp, khó khăn và rắc rối. Thông dịch hay phản dịch, nghĩa là dịch miệng, nói ra bằng lời ngay, tuy tiếng Anh không mấy phân biệt giữa interpretation và translation 2. Tiếng Việt dùng chữ phiên dịch để chỉ các bài dịch được viết ra hay in ra. 

Trong văn chương Việt Nam, phiên dịch đã có từ lâu lắm 3. Suốt một ngàn năm bị Tàu đô hộ, người Việt Nam học chữ Nho, tức là chữ viết của Tàu từ thời Khổng Tử và các môn đệ của Ngài. Nhưng dần dần người Việt đọc chữ Nho theo âm Việt, thành ra khi Việt Nam đạt đến thời kỳ tự chủ, sứ giả Việt Nam chỉ có thể bút đàm với quan lại người Tàu, nghĩa là viết ra giấy thì hiểu nhau được, còn nói thì khác hẳn âm với nhau. Dần dần người Việt kiện toàn chữ Nôm, là thứ chữ dựa trên chữ Nho, nhưng được đơn giản hóa phần nào để dùng chỉ các âm tiếng Việt, từ đó có sự phiên dịch từ chữ Nho ra chữ Nôm, mà trong văn chương gọi là diễn Nôm. Như Chinh phụ ngâm khúc do ông Đặng Trần Côn viết bằng chữ Nho, bà Đoàn Thị Điểm dịch ra chữ Nôm thành Chinh phụ ngâm khúc diễn Nôm

Bà Đoàn Thị Điểm có thể được xem như tổ ngành phiên dịch vì bản dịch của bà rất sát với bản chính, lột hết ý nghĩa, tình tiết, mà văn rất trôi chảy, khi đọc không hề biết là văn dịch. Bà lại không nệ theo đúng mẫu bản chính, mà vẫn lột được tinh thần cũng như tư tưởng của tác giả. Tám câu đầu bản chính và hai khổ song thất lục bát do bà Đoàn Thị Điểm diễn Nôm (dịch ra) vừa sát nghĩa, vừa tràn đầy thi vị: 

Thiên địa phong trần 
Hồng nhan đa truân 
Du du bỉ thương hề 
Thùy tạo nhân. 

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi 
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên 
Xanh kia thăm thẵm từng trên 
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Cổ bề thanh động Trường thành nguyệt 
Phong vũ ảnh ám Cam Toàn vân 
Cửu trùng án kiếm khử dương tịch 
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân 
Trống Trường thành lung lay bóng nguyệt 
Khói Cam Toàn mờ mịt thức mây, 
Chín tầng, gươm báu trao tay 
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh. 

. Một người có tài phiên dịch nữa là Nguyễn Du. Trong truyện Kiều, đoạn Thúy Kiều khảy đàn cho Kim Trọng nghe khi tái hợp sau mười lăm năm lưu lạc, tác giả đã dịch bốn câu trong bài thơ Cẩm Sắt của Lý Thương Ẩn: 


Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp, 
Thục đế đan tâm thác đỗ quyên, 
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ, 
Lam điền khí noãn ngọc sinh yên. 

Khúc đâu đầm ấm dương hòa, 
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh ? 
Khúc đâu êm ái xuân tình, 
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên ? 
Trong như châu nhỏ duềnh quyên, 
Ấm như hạt ngọc Lam điền mới đông. 

Một áng văn dịch tuyệt vời nữa là bản dịch bài thất ngôn trường thiên Tỳ Bà Hành từ nguyên tác chữ Nho của Bạch Cư Dị ra chữ Nôm. Ông Phan Huy Vịnh đã khéo léo dùng 22 khổ song thất lục bát để dịch đúng 88 câu của nguyên tác, vừa sát nghĩa, vừa đầy thi vị, lại giữ đúng y nguyên số câu và số chữ. Khổ thứ hai dịch câu năm đến câu tám trong nguyên tác: 

Túy bất thành hoan, thm tương biệt 
Biệt thời mang mang giang tm nguyệt 
Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh 
Chủ nhân vong qui, khách bất phát. 
Say những luống ngại khi chia rẽ, 
Nước mênh mông dằm vẻ gương trong. 
Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông, 
Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi.

không gò ép, không dư, cũng không thiếu. Nhất là câu thứ bảy, giữa khoảng trời nước mênh mông, mà biến 
Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh ! 
thành một câu diễn được cái đột ngột, bất chợt, nhưng không có chút nào ngập ngừng, lạc lõng : 
Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông, 
Dịch giả lại chuyển thành thái độ, lời kể trong nguyên tác mà không làm lạc ý : 
Chủ nhân vong qui, khách bất phát 
nghĩa đen là "Chủ nhân quên về, khách không đi," bằng câu 
Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi. 
để cho ta thấy rõ hơn thái độ và tư thế sống động của chủ và khách, chuyển dịch rất êm và không đi ngược lại, hay xa rời nguyên tác. 
Trọn bài dịch đáng khen nhất là câu 
Cùng một lứa bên trời lận đận 
đã vượt hẳn nguyên tác 
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân 
và do đó rất được nhiều người biết đến và khen thưởng. (Nếu có dịp xin đọc nguyên tác và bản dịch trong Việt Nam Văn Học Sử -- Giản ước Tân biên, của ông Phạm Thế Ngũ, quyển hai, trang 331 đến 335.) 

blank

Việc phiên dịch ở Việt Nam sau đó, nghĩa là từ cuối thế kỷ thứ 19 đến giờ đã chia ra hai ngành chánh: một là phiên dịch sách Tàu, hai là phiên dịch sách Pháp. Sau này mới có phiên dịch sách viết bằng các thứ tiếng khác . 
Phiên dịch sách Tàu có hai khuynh hướng. Một là đem các điều mới mẻ, tiến bộ, có tính cách thức tỉnh quốc hồn, có ý duy tân và khuyến khích quốc dân đứng lên đòi độc lập, tự do, theo gương Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu vào cuối nhà Thanh bên Tàu, như Nguyễn Hữu Tiến đã dịch Gương đức dục (1930) và Học thuyết tư tưởng nước Tàu (1931), hai nguyên tác của Lương Khải Siêu 4. Khuynh hướng thứ hai là dịch truyện Tàu ra chữ quốc ngữ để làm giàu thêm cho ngữ vựng Việt ngữ, vì chữ quốc ngữ lúc đó còn phôi thai, cần được phát triển và phổ thông hóa trong nhân dân. 

Trong những người phiên dịch truyện Tàu lúc đầu có Phan Kế Bính dịch Tam quốc chí, Trần Tuấn Khải dịch Thủy Hử, sau đến Trần Phong Sắc, Nguyễn An Cư, Tô Chẩn, Nguyễn Chánh Sắt 5, Trương Minh Chánh dịchPhong Thần, Đông Châu Liệt Quốc (dịch chung), Thất Quốc Chí, Xuân Thu Oanh Liệt, Tây Hán Chí hay Hán Sở tranh hùng, Đông Hán diễn nghĩa, Tam Quốc Chí, Thuyết Đường, Tây Du, Chinh Đông, Chinh Tây, Phản Đường, Tàn Đường, cho đến các bộ Bắc Tống diễn nghĩa, Ngũ Hổ bình Liêu, Ngũ Hổ bình Tây và Ngũ Hổ bình Nam, Bao Công kỳ án, Thủy Hử, Tống Nhạc Phi, Tái sinh duyên, Đại Minh Hồng Võ ... và Càn Long du Giang Nam. Sau này Mộng Bình Sơn và vài người khác cũng dịch lại các truyện trên. 
Về văn học, trong thời kỳ này, Tản Đà và Ngô Tất Tố dịch nhiều bài thơ Đường đăng báo. Trần Trọng Kim gom vào tập Đường Thi, nhiều bài thơ dịch rất hay 6. Nhượng Tống dịch Tây Sương Ký ra kịch bản Mái Tây, vừa thi vị, vừa đậm đà. Nhiều người tiếp nhau dịch truyện Liêu Trai của Bồ Tùng Linh, trong đó có Tản Đà, Đào Trinh Nhất, Hiếu Chân ... Tiếp đó nhiều người khác đã dịch và giải nghĩa Tứ Thư , Ngũ Kinh sang tiếng Việt, tiếp nối công trình dịch thuật mà Trương Vĩnh Ký đã đề xuất khi dịch Trung dung (1875), Đại học(1877), và Minh tâm bửu giám (1893) khi trước 7

Ngoài những người phiên dịch sách, thơ và truyện Tàu, còn có nhóm thứ hai chuyên phiên dịch sách, thơ và truyện tiếng Pháp 8. Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của là những người đi trước, khai phá nền văn chương quốc ngữ, dùng chữ Pháp, tra cứu chữ La tinh, cùng Hán tự để vun bồi chữ quốc ngữ. Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh ngay sau đó, đã dịch truyện, kịch và thơ Pháp ra tiếng Việt. Lúc đầu, việc dịch thuật còn mới, cách dùng chữ quốc ngữ vẫn có cái gượng ép và theo sát cách dùng chữ của nguyên tác. Ta thử đọc vài câu thơ Nguyễn Văn Vĩnh dịch một chuyện ngụ ngôn của La Fontaine: 

Ve sầu kêu ve ve. 
Suốt mùa hè, 
Đến kỳ gió bấc thổi; 
Nguồn cơn thật bối rối. 
Một miếng cũng chẳng còn, 
Ruồi bọ không một con, 
Vác miệng chịu khúm núm, 
Sang chị kiến hàng xóm ... 

và so với mấy câu dịch về sau (không nhớ tên tác giả) 

Con ve mùa hạ kêu ran 
Qua dông lạnh lẽo tấm thân cơ hàn 
Đến cùng chị kiến thở than ...

Lúc ban đầu, người dịch có khuynh hướng chuyển âm tên trong tựa sách hoặc dịch thật sát tựa nhưManon Lescault dịch là Mai Nương Lệ Cốt, (1918); Le malade imaginaire (1915) do Nguyễn Văn Vĩnh dịch là Bệnh tưởng, tuồng Lôi Xích, tức Le Cid, năm 1920, và tuồng Hòa Lạc, tức Horace, năm 1923, (đều do Phạm Quỳnh dịch). Nhưng cũng có những bản dịch thoát ra ngoài khuôn đó, như Tartuffe, (1915) mà Nguyễn văn Vĩnh dịch là Giả đạo đức; La porte étroite, Đỗ Đình Thạch dịch ra là Tiếng đoạn trường (1937), thay vì Khung cửa hẹp như sau này một người khác đã dịch. Trong thời gian từ 1948 đến 1954, cũng có nhiều người tiếp tục dịch hay phóng tác các tác phẩm Anh, Pháp 9. Tiếc là đôi khi người dịch, hoặc chuyển tên nhân vật và địa danh sang Việt Nam như truyện Tượng vua Lê (bên Hồ Hoàn Kiếm, Hà nội) dịch The Happy Prince của Oscar Wilde, hoặc vẫn dùng tên nhân vật và địa danh trong nguyên tác như truyện Con cánh cam vàng dịch truyện The Gold Bug của Edgar A. Poe, hay là truyện Người có bộ óc vàng dịch từL'homme à la cervelle d'or của Alphonse Daudet, đều không hề ghi là truyện dịch, không đề tên nguyên tác và tác giả 10. Âu cũng là một thiếu sót trong thời ấy. 
Từ 1950 đến 1975, việc dịch thuật phát triển nhiều hơn, nhưng vẫn theo hai ngành, một là dịch sách, truyện và thơ Tàu, hai là dịch sách, truyện Âu châu và Hoa kỳ. Sở dĩ phân như thế vì dịch sách hay truyện Tàu thường chỉ chuyên chú về vài tác giả mà thôi, như trong các năm 1958, 1959 đến suốt thập niên 1960, Quỳnh Dao và Kim Dung là hai tác giả Tàu được dịch nhiều nhất, sau này mới có thêm La Lan. Dịch sách truyện Âu và Mỹ châu tương đối rộng hơn, bao gồm nhiều tác giả quốc tế. Rất hiếm người dịch ra Việt văn thơ Anh hay Pháp. 
Việc dịch truyện kiếm hiệp đã mang nhiều chữ mới cho ngữ vựng Việt ngữ. Đành rằng có những chữ như hảo chiêu, nữ hiệp, giang hồ hành hiệp ... đã có sẵn, nhưng trước đó vẫn ít dùng, nay nhờ các bản dịch các pho truyện kiếm hiệp mà được nhắc đến thường hơn 11. Những chữ mới như truyền âm nhập mật, nhất dương chỉ, lăng ba vi bộ... lúc đầu tuy có hơi khó hiểu, nhưng nghe, đọc riết thành quen. Điều đáng tiếc là các nhà chuyên dịch truyện kiếm hiệp thường thiếu ngày giờ, vì phải dịch cho kịp với các ấn bản của báo Hương Cảng gởi qua. Do đó họ ít chú trọng đến văn từ, văn phạm, không trau chuốt, uốn nắn câu văn dịch như ý muốn, và có khi lại phải dịch bừa cả tựa pho truyện 12
Các tiểu thuyết của Quỳnh Dao may mắn hơn, vì thường không dài quá 300 trang, văn viết lại gọn gàng, sáng sủa, mạch lạc, nên người dịch có thời giờ đọc đi, đọc lại tác phẩm, rồi sửa chữa, thay đổi chữ dùng trong câu văn dịch. Nhờ đó mà bản dịch ít có lỗi chính tả, ít thiếu sót hay bỏ khuyết vài đoạn ngắn trong nguyên tác. 

Dịch sách Tàu có công phu hơn là các bản dịch của Nguyễn Hiến Lê 13, vì tác giả, ngoài việc dịch thuật, còn có ý giới thiệu, phổ biến, và chia sẻ cái hay, cái đặc biệt của văn chương, văn học Tàu. Tuyển tập truyện của Lỗ TấnSử ký Tư Mã Thiên ... là những sách dịch rất công phu. Cùng làm việc này, nhưng trong lãnh vực thơ và từ khúc có Trần Trọng San (1993-94), đã cho xuất bản ở hải ngoại hai quyển Thơ Đường, vàĐường, Tống Từ Tuyển, soạn dịch rất công phu. Ngoài ra còn có nhiều người (một phần lớn là các tu sĩ Phật giáo) sau khi đi du học ở Nhật Bản, đã dịch nhiều tác phẩm Nhật bản. 
Dịch sách Âu châu và Mỹ châu có Bàng Bá Lân, dịch Thầy giáo làng đã chuyển đạt được lối văn kể truyện (gần như tự thuật) giản dị, bình dân trong nguyên tác tiếng Anh The thread that runs so true của Jesse Stuart mà vẫn giữ được vẻ duyên dáng, thanh lịch, nói về giáo dục mà không có sự răn đời cứng ngắc. Chỉ tiếc là Bàng Bá Lân dịch sách này từ một bản dịch của nguyên tác sang tiếng Pháp Les cahiers d'un maĩtre d'école nên có chỗ không được như trong nguyên tác 14. Hà Mai Anh đã dịch tác phẩm danh tiếng Grand Coeur của Edmond de Amicis thành tác phẩm Tâm hồn cao thượng rất được phổ thông trong những thập niên 1950, 1960. Trong những năm 1956 đến 1960, Phạm Đình Tân và Phạm Đình Khiêm đề xướng Tinh Việt văn đoàn, có dịch sang tiếng Việt một số tác phẩm Pháp văn có tính cách triết lý của Lecomte de Nouye và của bác sĩ Alexis Carel. Đỗ Khánh Hoan 15 cũng bỏ ra rất nhiều công sức dịch thuật và giới thiệu các tác phẩm tiếng Anh sang Việt ngữ. Ông dịch rất công phu, chịu khó tra cứu, tìm tòi văn bản nguyên tác, giới thiệu tác giả, dùng chữ rất chọn lọc, dịch thật đúng và thật đầy đủ. Ông cũng có dịch nhiều tác phẫm tiếng Nhật. Ngoài ra, loại sách gián điệp của Ian Fleming, kể lại những chiến tích của điệp viên 007, James Bond, cũng được Hoàng Hải Thủy dịch gẫy gọn và lưu loát. 

Trên phương diện kịch, vào những năm 1973, 1974, Lê Tuấn (bút hiệu Luân Tế) và Duane E. Hauch đã dịch và đưa ra trình diễn các vở kịch Mưa (Rain) của Somerset Maugham, Chuyến xe Dục vọng (A Street Car Named Desire) của Tennessee Williams và Ước vọng dưới tàn du (Desire under the Elms) của Eugene O'Neill. Diễn viên gồm các sinh viên văn khoa và các kịch sĩ danh tiếng như Vũ Đức Duy, Bà Năm Sa đéc và cô Đỗ Anh. 

Trong những năm Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được phát triển, Tổng Cục Quân Huấn thuộc Bộ Tổng Tham Mưu và hai Khối Quân Huấn Hải Quân và Không Quân cũng dịch các sách kỹ thuật quân sự từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Riêng Hải Quân, ngoài Ban Dịch thuật thuộc Phòng Trợ Huấn, còn giao sách không thuộc loại kín, hay phổ biến hạn chế cho các cơ quan dịch thuật ngoài. Do đó Hải quân đã có được rất nhiều sách dịch từ tiếng Anh sang, từ các sách hoàn toàn quân sự như Hải pháo 127 ly, 76,2 ly, Không trợ tiếp cận ... hoặc có tính cách kỹ thuật như Phòng tai, Bảo trì dự liệu, hoặc thuộc loại tìm hiểu, khảo cứu nhưQuốc tế công pháp dành cho sĩ quan đi biển và Quyền lực trên biển. Khối Quân Huấn Hải quân cũng đưa ra tiêu chuẩn dịch và duyệt nâng phẩm chất các sách dịch được chuẩn nhận vào tủ sách huấn luyện của Hải quân. 

Sinh hoạt phiên dịch trong văn đàn Việt Nam tương đối dồi dào . Nhưng đã nói về phiên dịch cũng nên nhắc đến một trường hợp đặc biệt trong văn chương Việt Nam. Hồ Biểu Chánh 16 đọc xong tác phẩm tiếng Pháp, sắp xếp lại một cách gọn ghẽ, rồi viết lại thành một truyện hoàn toàn Việt Nam, tuy cốt truyện theo đúng cốt truyện Pháp. Ông khéo léo thay các địa danh, nhân danh Pháp, bằng địa danh, nhân danh Việt Nam, như Paris trong Les Misérables trở thành Gia Định trong truyện Ngọn cỏ gió đùa, còn Rémi trong truyện Sans famille thành thằng Được trong truyện Cay đắng mùi đời. Ông lại xuất sắc trong việc thay luôn sự kiện lịch sử của Pháp như vụ nổi loạn ở Paris bằng một sự kiện thuần túy Việt Nam, vụ Lê văn Khôi nổi loạn chiếm thành Gia định. Ông chuyển dịch rồi phóng tác rất công phu, và nhờ thế mà đọc các truyện của ông, có thể nghĩ là truyện do ông trước tác chứ không phải là truyện dịch, hay mô phỏng. Trường hợp các truyện nói trên của Hồ Biểu Chánh phải chăng cũng giống như trường hợp các truyện Hoa Tiên, dựa theo Đệ bát tài tử Hoa tiên ký, hay truyện Kiều dựa trên truyện Thanh tâm tài nhân, hoặc Lục Vân Tiên, theo truyện Tây Minh ? 
Phiên dịch còn có nghĩa là dịch sách, truyện, thơ từ tiếng Việt ra tiếng Anh, tiếng Pháp. Trên lãnh vực này, Trương Vĩnh Ký đã đi trước, khi dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp (1875). Ông đã thành công trong việc giới thiệu áng văn chương sáng giá của Việt Nam với người Âu châu. Nguyễn văn Vĩnh cho in bản chú dẫn Truyện Kiều bằng chữ quốc ngữ năm 1925, nhưng đến 1942 bản dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp của ông mới được in (ông mất năm 1936). 
Ngoài ra còn có Nguyễn văn Tố (1936) và Nguyễn Tiến Lãng (1938) giới thiệu truyện Hoa Tiên bằng tiếng Pháp, Hoàng Xuân Nhị dịch Chinh phụ ngâm khúc (1939) ra tiếng Pháp, Dương Đình Khuê (1965) dịchTruyện Kiều vân vân. Đỗ Vạng Lý (1959) dịch sang tiếng Anh các truyện cổ tích như Tấm Cám, Thằng Cuội ... Huỳnh Sanh Thông dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh, và cùng với Nguyễn Ngọc Bích, góp phần rất lớn trong việc quảng bá văn, thơ Việt Nam với độc giả Bắc Mỹ. Cũng có nhiều người ngoại quốc dịch thơ văn Việt nam, trong đó có Abel des Michels (1884) và René Crayssac (1927) dịch Truyện Kiều, George Cordier (1929) dịch Cung oán ngâm khúc... Gần đây có Burton Raffel (1968) dịch thơ Lý Thánh Tôn, Trần Nhân Tôn, Ngô Chi Lan, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Huy Cận... Keith Bosley (1972) dịch vài đoạn Chinh phụ ngâmCung oán ngâm khúcKiều, thơ Hồ Xuân Hương (Đánh đu, Cây quạt), thơ Tản Đà (Vào thu), Nguyễn Vỹ (Sương rơi), Nguyễn Nhược Pháp (Sơn Tinh Thủy Tinh), Thâm Tâm (Tống biệt hành), T.T. Kh. (Hai sắc hoa ti-gôn), Hữu Loan (Màu tím hoa sim), và 18 bài ca dao. John Balaban (1974) dịch khoảng 50 bài ca dao Việt Nam qua tiếng Anh. Gail Graham dịch một số chuyện cổ tích Việt Nam (Giết chó khuyên chồng, Quan Âm Thị Kính, Sự Tích ba vợ chồng Táo quân, Tấm Cám . . .) và Mark Taylor dịch Trương Chi, Mỵ Nương. 
Sau 1975, chúng tôi có dịp đọc ba quyển "Thép đã tôi thế đấy," "Con đưởng đau khổ," và "Truyện cổ tích của Hans Anderson," không được biết tên người dịch và cũng không biết dịch theo ấn bản nào. Đọc trong hoàn cảnh lén lút và đói khát, thiếu thức ăn vật chất lẫn tinh thần, (tù cải tạo không được phép đọc sách) lại thêm không có nguyên tác để đối chiếu, thành ra chúng tôi không thể có ý kiến. Mấy năm gần đây, có nhiều sách dịch được in ấn ở Việt Nam (xin xem phụ bản: một số sách thấy ở thư viện), nhưng không biết là dịch theo nguyên bản nào, thành ra cũng khó đối chiếu. Đành để việc phê bình lại cho những người có được nhiều tài liệu hơn. Chỉ xin ghi ra trong phụ bản một vài tựa sách để độc giả tiện tra cứu. 
Thông dịch, phản dịch và phiên dịch sẽ mãi mãi gắn liền với người Việt Nam, nhất là trong tình trạng hiện nay có gần một triệu người Việt sống ở hải ngoại. Nhờ có sự phiên dịch mà nhiều người trẻ tuổi trong cộng đồng biết thêm được kho tàng văn hóa Việt Nam, nhiều người có tuổi biết thêm được cách suy nghĩ, cách diễn đạt tư tưởng của các sắc dân khác, và suy ra được tính đồng quy của nhân loại. Thiết nghĩ đây cũng là một vấn đề cần cộng đồng Việt Nam hải ngoại để ý đến để khuyến khích con em trau dồi tiếng Việt, học hỏi tiếng Anh, tiếng Pháp, hay một ngoại ngữ khác, vừa để làm giàu thêm cho kho tàng tiếng Việt, vừa để giới thiệu với bạn bè và người ngoại quốc các sách, truyện, thơ có giá trị trong văn chương Việt Nam. 

Ghi Chú

1. Nguyễn văn Khôn , 1986. Anh-Việt Tân Tự-Điển. Glendale, CA: DaiNamCo. 
Các tự điển in ở Hà nội, Đà nẵng ... về sau này (1994, 1996 ...) đã bỏ chữ phản dịch. 
2. Trong bài này, chúng tôi không đề cập đến ba nhóm người có liên quan ít nhiều đến vấn đề thông dịch. Một là thông ngôn, là những người được đào tạo hoặc ở trường thông ngôn, hoặc ở Nhà Dòng hay trường đạo để làm việc thông dịch cho Pháp trong những năm Việt Nam bị Pháp đô hộ. Hai là các hạ sĩ quan thông dịch viên, có trình độ trung học, và sau một khóa thi, được học thêm Anh ngữ và mang cấp bậc trung sĩ đồng hóa, làm thông dịch cho các đơn vị hành quân Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam. Thứ ba là các sĩ quan cộng sản Hà nội mang danh hiệu sĩ quan liên lạc tên lửa, làm thông dịch viên cho các quân nhân Trung Cộng điều khiển các giàn hỏa tiễn ở Bắc Việt -- chúng tôi có được gặp những người này sau 1975. 
3. Trong tiếng Việt, phiên dịch là dịch một văn bản từ một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác. Trong tiếng Pháp, sự phân biệt kỹ hơn khi nói về dịch thuật cho học sinh, sinh viên. Dịch một bài văn từ tiếng mẹ đẻ sang một ngôn ngữ khác là thème, còn dịch từ một ngôn ngữ khác sang tiếng mẹ đẻ là version. Phiên dịch nói chung là traduction. Trong bài này chúng tôi cũng không đề cập đến việc dịch thuật do các giáo sĩ đã dịch Kinh Thánh, sách giảng ... từ tiếng La-tinh, hay Bồ-đào-nha ra Việt ngữ. 
4. Cũng cần ghi thêm là ông Nguyễn Hữu Tiến đã dịch và giải thích hai quyển Mạnh Tử (1932) và Luận ngữ (1935). Trước đó, ông Nguyễn Trọng Thuật dịch Tả truyện và Đại học (1928-30). 
5. Riêng ông Nguyễn Chánh Sắt, trong các bản dịch như Tam Quốc Diễn Nghĩa, Tống Từ Vân, Ngũ Hổ Bình Liêu ..., lâu lâu ông có thêm vào một, hai câu phê bình dí dỏm, lột trần được cá tính của nhân vật, hay bình phẩm thắm thía mà nhẹ nhàng về cảnh huống trong truyện. Có hai nữ dịch giả là bà Trần thị Sĩ và bà Phạm thị Phượng. Về các ông Nguyễn Chánh Sắt, Trần Phong Sắc, cùng các dịch giả truyện Tàu xin xem: Các giai thoại Nam Kỳ Lục tỉnh của ông Hứa Hoành (1997). 
6. Sự nghiệp văn học, biên khảo và dịch thuật của ông Trần Trọng Kim rất quan trọng. Từ những năm 1914 trở về sau, ông đã dịch và diễn giải các danh từ triết học từ tiếng Pháp sang tiếng Việt, trước cả ông Phạm Quỳnh, đồng thời ông cũng làm công tác phổ biến tư tưởng Khổng Tử qua bộ sách Nho giáo, đạo thuyết của Thích Ca Mâu Ni qua quyển Phật học, triết lý của Lão Tử qua sách Đạo giáo 
7. Cũng có người dịch các tác phẩm bằng chữ Nho do người Việt viết, như ông Phan Kế Bính dịch Đại nam Nhất Thống Chí, ông Nguyễn Hữu Tiến dịch Vũ trung tùy bút ... 
8. Ngoài sách Pháp, còn có các ông Nguyễn Giang dịch từ tiếng Anh các kịch Midsummer Night's dream (Giấc mộng đêm hè), Hamlet (Hăm Liệt), Macbeth (Mặt biệt) của William Shakespeare, Vũ Ngọc Phan dịch Ivanhoe (Y văn hoa) của văn sĩ Anh Walter Scott, và Anna Karénine (An-na Kha lệ Ninh) của văn sĩ Nga Léon Tolstoi. 
9. Trong khoảng 1948-1950 nhóm các ông Vũ Đình Long (nhóm Tiểu Thuyết Thứ Bảy ở Hà Nội) có dựa vào vỡ kịch này, và chuyển tác (như ông Hồ Biểu Chánh đã làm với Ngọn cỏ gió đùa ... ) thành một bi kịch thuần túy Việt Nam. Bối cảnh là cuộc chiến giữa ba anh em họ Chế của Chiêm Thành chiến đấu với ba anh em họ Lý của Việt Nam. Kịch được rất nhiều người khen ngợi, cổ xúy -- trong đó có cả ông Phạm Hoàng Hộ, lúc đó đang là sinh viên ở Pháp viết thư khích lệ. 
10. Tượng vua Lê in trong Tiểu thuyết thứ bảy, hai truyện còn lại in thành sách. 
11. Thật ra trước đó có rất ít truyện dịch từ kiếm hiệp Tàu (như Long hình Quái khách, Hỏa thiêu Hồng Liên Tự ...). Các truyện "kiếm hiệp" như Lục Kiếm Đồng, Chu Long Kiếm, Võ Hiệp Kỳ Án là những truyện do ông Phạm Cao Củng viết ra (không phải dịch) và dùng các danh từ trên. 
12. Như pho truyện kiếm hiệp của Kim Dung "Ỷ Thiên Kiếm, Đồ Long Đao," mà dịch giả chỉ đoán mò rồi đặt tựa là Cô Gái Đồ Long trong suốt hai quyển đầu , không ăn nhằm gì đến cốt truyện. 
13. Ông Nguyễn Hiến Lê cũng dịch sách tiếng Anh như loại sách học làm người - hai bộ của Dale Carnegie - Đắc nhân tâm, và Quẳng gánh lo đi . Sau ông còn dịch quyển Kiếp người từ một ấn bản Of Human Bondage của Somerset Maugham (vì có nhiều ấn bản dài hay thu ngắn), và vài tác phẩm khác như Chiếc cầu trên sông Drina. 
14. Dịch giả bản tiếng Pháp là Claude Lévy. Cũng như bản dịch bài thơ If của Rudyard Kipling. André Maurois dịch bài này ra tiếng Pháp, thành ra tuyệt phẩm Si, đọc không biết là thơ dịch, nhưng ông đã phải thay đổi thứ tự các khổ thơ trong nguyên tác. Triều Dương dịch ra bài Nếu, rất hay, nhưng theo sát bài Si, nên khi so sánh, bài dịch ra tiếng Việt không theo thứ tự của nguyên tác If của Kipling. 
15. Ông Đỗ Khánh Hoan nguyên là giáo sư Anh văn, và trong những năm 1972-1973, là trưởng ban Anh văn, trường Đại Học Văn Khoa Sàigon. Bản dịch Đường kỷ niệm, từ nguyên tác Rue d'Archambaut của Gabrielle Roy, nữ văn sĩ Québec, đăng trong Thời Báo, rất được ưa chuộng. 
16. Xin xem "Chân dung Hồ Biểu Chánh" của Nguyễn Khuê, Lửa Thiêng xuất bản năm 1974, Xuân Thu (Los Alamitos, CA. in lại, không đề năm. 

Vài tài liệu tham khảo (ngoài các sách dịch có nêu tựa): 

Dương Quảng Hàm, 1968. Việt Nam Văn Học Sử Yếu. Westminster, CA: Sống Mới in lại 1979. 
Dương Quảng Hàm, 1968. Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển. Westminster, CA: Sống Mới in lại 1979. 
Marr, David. 1992. Vietnam. Santa Barbara, CA: Clio Press. 
Phạm Thế Ngũ, 1965. Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên. Glendale CA: DaiNamCo in lại. 
Trần Trọng Kim, 1971. Việt Nam Sử Lược. Glendale CA: Đại Nam in lại.

Thuần Ngọc

quehuongngaymai.com
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
09 Tháng Tám 2013(Xem: 9919)
Như thế không phải là chống đối nhà cầm quyền, mà là thức tỉnh họ phải trở lại con đường đồng hành cùng nhân dân xây dựng một nền dân chủ, tự do, đất nước toàn vẹn lãnh thổ và giàu mạnh.
06 Tháng Tám 2013(Xem: 10296)
Phải đợi đến khi tự thân sống trong cảnh áp bức, bất công, nghèo đói mới biết thương nhau. Cho nên nhân sĩ mà thiếu lòng nhân hậu thì chỉ có địa vị xã hội mà thiếu tình người.
06 Tháng Tám 2013(Xem: 10947)
Đây là một bài báo cũ trích từ tuần báo Le Monde Illustré [số 1665 ra ngày 23 tháng 2 năm 1889 tại Paris] nhan đề “Le Roi d’Annam” từ trang 118-120 do ký giả Jean Locquart tường thuật
05 Tháng Tám 2013(Xem: 9164)
Cọng sản đổi màu vẫn là cọng sản, nghĩa là “ cọng sản huờn cọng sản “. Người quốc gia không ai đi “ hợp tác “ với quỉ ma cọng sản.
30 Tháng Bảy 2013(Xem: 10004)
" Điều thiện nguyện vâng làm Điều ác nguyện dứt trừ Tự thanh lọc thân tâm Đó là lời Phật dạy
29 Tháng Bảy 2013(Xem: 10211)
Phước đức dù cực khổ gieo tạo nhiều đời, nhưng do cái miệng tạo nghiệp, phê bình, chỉ trích, nói lời ác... thì trong giây phút cũng có thể tiêu tan.
26 Tháng Bảy 2013(Xem: 10010)
Trong khi người nước ngoài có chí cao dám chết vì việc nghĩa, vì lợi dân ích nước, thì người nước mình tham sống sợ chết, chịu kiếp sống nhục nhã đọa đầy.
24 Tháng Bảy 2013(Xem: 14602)
Dẫu sao nó cũng là một kinh nghiệm đáng ghi, đáng nhớ trong lịch sử, một bài học tốt cho tương lại tại một nơi nào đó trên mặt địa cầu nếu như lịch sử tái diễn.
23 Tháng Bảy 2013(Xem: 10291)
Chúng ta dường như cấm kỵ không hề nhắc đến cái thất bại có thể tránh được đó chỉ vì hội chứng say sưa với chiến thắng. Thắng đế quốc Mỹ ta có thể lướt thắng được mọi thứ khác.
20 Tháng Bảy 2013(Xem: 16234)
Tình yêu nước, yêu đồng bào đâu phải tự nhiên mà có được. Phải chắt chiu, vun bồi từ thuở bé thơ. Giáo dục và nung đúc, rèn luyện cần mẫn mới có được
16 Tháng Bảy 2013(Xem: 10590)
mọi nỗ lực trong cơn khủng hoảng lại do những bộ mặt diễn xuất cũ xì, không còn gạt gẩm ai được nữa. Nước lũ dơ dáy nầy rồi sẽ trôi tuột vào ống cống mất tăm mất tích chẳng vấy bẩn được ai.
15 Tháng Bảy 2013(Xem: 10085)
thì lẽ nào không xảy ra cho Tàu Cộng và CS Việt Nam. Khi đó người ngồi xử tội bán nước của quí vị sẽ là những người hiện đang ngồi bên cạnh quí vị.
27 Tháng Sáu 2013(Xem: 10683)
Chúng tôi cương quyết thực thi điều 4 Hiến Pháp ở hải ngoại cho tới khi giới trẻ và đồng bào trong nước vùng lên đánh đổ xong ách nạn toàn trị cộng sản.
19 Tháng Sáu 2013(Xem: 17005)
Rồi sẽ có một ngày đánh tan loài sói lang cộng sản, xóa tan mây mờ bao phủ non sông, nước Viêt Nam lại rạng rở dưới trời Đông.
18 Tháng Sáu 2013(Xem: 14023)
khi không còn nhìn thấy nhà nguyện Đức Mẹ Hiển Linh nữa thì người ta lại trở lại với cái “thật” con người, bao nhiêu nụ cười mất đi cả, bao nhiêu nhân nhượng thân thiện yêu thương trả lại cõi trên.
13 Tháng Sáu 2013(Xem: 13534)
viết bài này trong mục đích làm sống lại sự phong phú của nền văn chương, văn hóa Việt Nam chúng ta, nhất là đối với những thế hệ trẻ hiện đang lưu lạc trên xứ người.
13 Tháng Sáu 2013(Xem: 10649)
Như trên đã nói, nếu như tầng lớp trí thức trưởng giả, công thần cách mạng, vì ươn hèn bạc nhược chỉ dám kiến nghị cải lương thì giới trẻ hãy tự mình đứng lên hành động, đừng trông chờ nơi họ nữa.
06 Tháng Sáu 2013(Xem: 11547)
Do sự phổ biến của YouTube ngày càng tăng cao, NBC bắt đầu nhận ra khả năng của trang web, và tuyên bố, vào tháng 6 năm 2006, một sự hợp tác chiến lược với YouTube.
05 Tháng Sáu 2013(Xem: 14230)
Dĩ nhiên tôi rất ý thức là gia đình tôi đến Hoa Kỳ vì sự lựa chọn chính trị, với tư cách là Người Tỵ Nạn, nạn nhân của chế độ Cộng Sản Việt Nam, chứ không phải vì lý do kinh tế vật chất.
03 Tháng Sáu 2013(Xem: 14382)
ĐÁNH ĐỔ CỘNG SẢN BÁN NƯỚC TRƯỚC ĐÁNH ĐUỔI TÀU KHỰA CÚT KHỎI BIỂN ĐÔNG SAU Như lời nguyền của tuổi trẻ Phương Uyên
30 Tháng Năm 2013(Xem: 10303)
chợt thấy cố đô Thăng Long treo rặt cờ tàu 6 ngôi sao. Cháu chắt chúng ta rồi đây không còn cắp cặp đệm học trường làng, ê a đọc Quốc văn Giáo khoa thư mà sẽ sắm bút lông cặm cụi vẽ chữ tàu!
23 Tháng Năm 2013(Xem: 9799)
Giải trừ hoạn họa cs cho Đất nước và Dân tộc Thực hiện lời nguyền Long An - Đồng Tháp Hoàn thành trách nhiệm cha ông di huấn
21 Tháng Năm 2013(Xem: 9620)
dõng dạc tố cáo bạo quyền, không hề khiếp nhược. Gương chiến đấu chống bạo quyền cộng sản của tuổi trẻ Việt Nam mai nầy lịch sử khắc ghi.
20 Tháng Năm 2013(Xem: 10381)
Đến bao giờ Việt Nam mới có dân chủ? Câu trả lời đơn giản: Nhìn vào người bán vé số và lao động nghèo, chưa cần nói đến chuyện gì lớn hơn.
20 Tháng Năm 2013(Xem: 10172)
Quyết nối chí tiền nhân: “ Lấy “ Đại Nghĩa “ để thắng hung tàn Đem “ Chí Nhân “ mà thay cường bạo “
05 Tháng Năm 2013(Xem: 9895)
Tôi lại viết về ngày Quốc Hận 30 tháng 4 - như một nén hương lòng kính dâng lên anh linh các chiến sỹ, quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã vị quốc vong thân.
04 Tháng Năm 2013(Xem: 10144)
Bây giờ những người suốt đời tận tụy cho “lý tưởng cộng sản” nhìn nhận rằng Ngày 30 Tháng Tư là ngày Miền Nam giải phóng Miền Bắc ra khỏi sự u tối, tôi nhận thấy mình đồng ý với lời tiên tri của Tướng Moshe Dayan trước 1975 là đúng
02 Tháng Năm 2013(Xem: 10267)
Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một
02 Tháng Năm 2013(Xem: 11578)
Viết đến đây để hồi tưởng lại, những người sống cũng như những người chết oan nghiệt, chiến hữu, bạn bè thân hữu đã hy sinh vì chính nghĩa Quốc Gia Dân Tộc,
26 Tháng Tư 2013(Xem: 10310)
Cho nên là con dân nước Việt, những ai còn chút huyết thống Lý, Lê, Trần, Nguyễn hãy cùng nhau sớm liệu toan, hô hào, cổ võ, nắm tay nhau siết chặc hàng ngũ vùng lên
21 Tháng Tư 2013(Xem: 11098)
dù Mỹ thắng hay bại, sau biến cố tháng 4/1975, miền Nam vẫn là nạn nhân. Trên phạm vi quốc tế, ngoài miền Nam Việt Nam, Đài Loan là một nạn nhân khác, tuy không đến nỗi bất hạnh như chúng ta.
18 Tháng Tư 2013(Xem: 10447)
cứ sống cho người khác, vì sợ người ta bị tổn thương, để rồi khi ngoảnh mặt người đáng thương nhất lại chính là mình
17 Tháng Tư 2013(Xem: 12105)
Thật là một cái nhìn khiếp đảm, cả một sự hủy diệt chỉ trong nháy mắt. Thiếu tá Luân cho trực thăng bay sà xuống đường và bắn hết tất cả rốc kết dọc theo hai bên đường. Không có một tiếng súng bắn trả
16 Tháng Tư 2013(Xem: 11867)
Xin ngả mũ tri ân những người lính VNCH - Những người anh hùng - Những người đã đặt nền móng cho ý chí không chịu khuất phục cộng sản khát máu
15 Tháng Tư 2013(Xem: 10412)
Hành động, hành động, chỉ có hành động mới xoay chuyển được tình thế! Tôi đoan chắc với quý cụ rằng nếu quý cụ nghe lời đề nghị của tôi thì toàn thể nhân dân sẽ đồng loạt đứng lên tiếp tay với quý cụ.
14 Tháng Tư 2013(Xem: 10474)
Ba mươi tháng Tư: Ngày Quốc hận! Đâu phải vì mất giàu sang, danh vọng mà hận. Chỉ vì cộng sản tàn phá Đất nước, đẩy Dân tộc vào chỗ diệt vong, truyền thống dân tộc tự ngàn xưa đành mai một cho nên mới hận!
11 Tháng Tư 2013(Xem: 10953)
Tuy nó có vẻ mộc mạc, nhưng trong đó gởi gấm chút lòng hoài bão thiết tha về một quê hương Việt Nam sạch bóng Việt Cộng, tự do dân chủ và phú cường.
09 Tháng Tư 2013(Xem: 10374)
Trước khi TT Nga Yeltsin nói câu bất hủ “ Cọng sản là bất trị. Phải loại trừ tận gốc” thì từ non nửa thế kỷ trước, Hiến pháp VNCH đã xác quyết trong điều 4 kể trên.
07 Tháng Tư 2013(Xem: 11722)
Câu hỏi là, nếu Bắc Kinh gài người dày đặc như thế, vậy thì Hà Nội đã gài người ra sao? Đây quả nhiên là một mặt trận tưởng như rất là lặng lẽ vậy.
05 Tháng Tư 2013(Xem: 10531)
Ơn chúa tối cao, hãy đừng bao giờ như vậy. Tôi không biết những người khác sẽ chọn con đường nào. Nhưng với tôi, hãy cho tôi tự do hay là chết”
01 Tháng Tư 2013(Xem: 13287)
Những cái chết của 15 vị Tướng QLVNCH từ 1955 đến trước và sau Quốc Hận: 30/4/1975. Một Nén Hương cho Những Người Nằm Xuống!
30 Tháng Ba 2013(Xem: 10933)
30 Tháng tư từ nay là ngày HỘI LỚN DÂN TỘC Ngày chấm dứt 68 năm độc tài toàn trị cs trên Đất Bắc Ngày chấm dứt 38 năm ách cs độc tài xâm chiếm Miền Nam
27 Tháng Ba 2013(Xem: 10420)
Tóm lại, các lực lượng chống “Cường hào, ác bá,” “chống Sở hữu toàn dân,” chống “Tham nhũng” hiện đang tiềm tàng, sôi sục trong lòng xã hội, chỉ chờ một thời cơ kích động là bộc phát.
21 Tháng Ba 2013(Xem: 12911)
Là người cầm bút ai cũng phải thận trọng với văn chương và ngôn ngữ vì nó là bộ phận văn hóa tiêu biểu của dân tộc. Do đó tôi mong mỏi các bạn đang phụ trách các trang Việt Ngữ của Đài VOA và BBC nếu có đọc bài này nên coi lại vốn liếng Việt Ngữ của mình
17 Tháng Ba 2013(Xem: 11089)
Trong cuộc hổn loạn những người Lính VNCH không chỉ lo cho riêng bản thân mình mà còn giúp đở bảo vệ sự sinh tồn của người dân nhất là những em bé
13 Tháng Ba 2013(Xem: 10714)
Xin dành vinh quang nầy cho những người đi tiên phong đã và đang bị trả giá trong nhà tù và cho tất cả những người bạn đồng hành của tôi đã giúp đỡ và tạo đà cho tôi.
11 Tháng Ba 2013(Xem: 10635)
Khuyến khích mọi người nhận được thông tin hãy tiếp sức lan truyền thông tin cho láng giềng của mình và khuyên mọi người hãy tiếp tục lan truyền những thông tin ấy ra cho đồng bào VN khắp nơi trên toàn quốc được biết
10 Tháng Ba 2013(Xem: 10926)
Nếu Trí thức Việt Nam còn đáng mặt sĩ phu Đất Việt sẽ liều chết tiến hành cuộc CÁCH MẠNG DÂN TỘC đánh đổ chế độ cộng sản bán nước, buôn dân, giành lại QUYỀN TỰ QUYẾT cho DÂN TỘC.
09 Tháng Ba 2013(Xem: 12350)
nhất là về chủ trương của những người tự nhận ‘bên thắng cuộc’.Để hòa giải, hòa hợp dân tộc như đã tuyên truyền, trước hết hãy biết hòa giải với những người khác chính kiến, nhất là đối với những người đã khuất.
07 Tháng Ba 2013(Xem: 24328)
Trong đêm này, không biết có bao nhiêu gia đình tan hoang, bao nhiều người bị chết oan, đánh đập, hoặc bị đấu tố mang thương tích hay tàn khuyết, mà vợ con, thân nhân, bạn bè chỉ đứng nhìn mà không dám kêu van.