1:50 CH
Thứ Năm
28
Tháng Ba
2024

MỘT VÀI NÉT VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM - TS Lê Thiện Phúc

29 Tháng Tám 201411:58 SA(Xem: 9521)


Một vài nét về văn hóa Việt Nam

Ts. Lê Thiện Phúc

(Ngôn ngữ học)

Mặc dù "văn hóa" là ý niệm rất trừu tượng mặc dù hàng ngày chúng ta vẫn thường đề cặp tới trong sinh hoạt đời sống cũng như trong các lãnh vực văn học nghệ thuật.

Sau năm 1975, ở Việt Nam không hiếm xảy ra những lạm dụng cụm từ "văn hóa" trong nhiều tình huống chẳng hạn như "gia đình văn hóa" hay "lời nói thiếu văn hóa", nhưng ít ai để ý tới cái ý nghĩa của "văn hóa" là gì cả!

Văn hóa, theo định nghĩa của một từ ngữ tương đương trong tiếng Anh "culture" là một tổng hợp đặc tính của một nhóm người nào đó trong xã hội. Theo một nghiên cứu khoa học, văn hóa được ăn sâu trong mỗi cá nhân (Mey 2004: 32); nhưng nó thường được bàn thảo như là thực thể dựa theo sự hiểu biết chung của một xã hội, quốc gia hay dân tộc, chẳng hạn như văn hóa Trung Quốc, văn hóa Nhật Bản hay văn hóa Việt Nam. Nói khác đi, khi nói đến văn hóa Việt Nam là người ta nói đến những đặc thù của người Việt. Tuy nhiên những đặc thù nầy có được sự chấp nhận hay không là do quan niệm của những người liên hệ trong cuộc, hay tùy theo cấp độ ý nghĩa muốn được áp dụng.

Thí dụ, trong một nghiên cứu về ngôn ngữ xã hội, văn hóa Việt Nam được phân biệt xa hơn đó là nền văn hóa dựa trên nền tảng Nho giáo và văn hóa theo định hướng chủ nghĩa Cộng sản (Nguyen 2008: 275). Nếu văn hóa Việt Nam được áp dụng hay định nghĩa dựa theo định hướng chủ nghĩa Cộng sản thì một trong những nét đặc thù của văn hóa Việt Nam là lá cờ đỏ ngôi sao vàng, là "nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý và đảng lãnh đạo". Liệu cộng đồng người Việt tỵ nạn hải ngoại có chấp nhận những nét văn hóa Việt Nam như vậy hay không là một chuyện khác! Chính vì vậy mà khi người Việt hải ngoại về Việt Nam thăm thân nhân không tránh khỏi bỡ ngỡ, lúng túng trước những bảng hiệu "gia đình văn hóa", "nhà văn hóa" hay "trung tâm văn hóa". Người Việt hải ngoại lúng túng trước các bảng hiệu như vậy là điều tất nhiên, bởi vì họ đâu có biết gì về văn hóa Việt Nam theo định hướng chủ nghĩa Cộng sản!

Như vậy cái ý nghĩa đích thực của văn hóa Việt Nam là gì?

Muốn quán triệt cái ý nghĩa đích thực của văn hóa Việt Nam là gì thì ta nên tách rời mọi ý niệm hay thành kiến chính trị để quay về nguồn gốc văn hóa Việt Nam dựa trên tinh thần nhân bản tự nhiên chứ không phải bị áp chế bởi bất cứ hình thức chính trị nào. Lẽ tất nhiên muốn được độc lập trong tư duy hay cách suy nghĩ của mình thì người suy nghĩ phải được sống trong một môi trường tự do, nơi đó nhân quyền được triệt để tôn trọng.

Dù sao, văn hóa Việt Nam có thể nói là đã gắn liền với tư tưởng nho giáo từ hơn một ngàn năm lịch sử của dân tộc. Như vậy, trong bài viết nầy khi bàn về văn hóa Việt Nam tôi căn cứ vào tư tưởng nho giáo, bởi vì đây chỉ là một bài viết ngắn, không có tầm vóc nghiên cứu sâu xa trước một ngàn năm lịch sử dân tộc Việt Nam của chúng ta.

Do đó, khi bàn về văn hóa Việt Nam chúng ta không thể không nhắc đến năm ý niệm Nhân, Lễ Nghĩa, Trí, Tín, mà theo nho giáo thì được gọi là "Ngũ Thường". Nó chính là năm yếu tố luân lý căn bản để trở thành nhân cách một con người. Nói khác đi, người có nhân cách phải có đủ năm yếu tố: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.

Nhân là cách đối nhân xử thế, là tấm lòng yêu thương con người, yêu quê hương đất nước, là thái độ biết gắn cái riêng của mình vào cái chung của xã hội, với sự ràng buộc giữa người và người, bằng những mối liên quan gắn kết với nhau. Nó còn được gọi chung là luân thường đạo lý: Vua – tôi, cha – con, vợ - chồng, anh – em và bằng hữu.

Lễ là nghi thức thể hiện qua cách hành xử, ứng xử hợp lòng người trong cuộc sống; qua đó, xã hội hay người khác đánh giá sự hiểu biết của một cá nhân. Chữ lễ vì vậy là lễ phép, đức độ kính trên nhường dưới trong đạo vua – tôi, cha – con, vợ - chồng, anh – em. Nó còn thể hiện qua những hình thức lễ nghi theo các truyền thống để rồi trở thành một nét văn hóa của dân tộc.

Nghĩa thể hiện vai trò, trách nhiệm của con người với con người, giữa người với đời, với xã hội. Cũng chính vì vậy mà ở đời trong thời nào cũng cần có nghĩa, hay có trách nhiệm với quê hương đất nước, với gia đình dòng họ, ông bà cha mẹ, vợ con, anh em bằng hữu. Biết ơn khi mình đã nhận được những điều may mắn trong cuộc sống. Nhiều người biết quan tâm giúp đỡ mọi người trong xã hội, làm từ thiện, chính là để tỏ lòng tri ân với đời. Nghĩa cũng là biết sống cho mọi người chứ không chỉ sống cho riêng cá nhân mình.

Tuy nhiên, nếu muốn làm được việc nghĩa thì phải có trí, phải có một sự hiểu biết căn bản: Biết khi nào cho, cho như thế nào. Có nhân, có nghĩa mà không có trí thì nhiều khi cái nghĩa cử cao đẹp của mình trở thành vô nghĩa; cái hành động đạo đức của mình có thể trở thành vô đạo đức; bởi vì vô hình chung ta lại đi tiếp giáo cho giặc, và rốt cuộc ta gây ra thảm họa cho nhiều người hiền lương vô tội. Tóm lại, trí là một sự hiểu biết, người không trí tức là không có sự hiểu biết thì không làm được gì hữu ích cả. Ngày xưa đánh giá chữ trí của một con người qua sự hiểu biết về đạo quân tử; ngày nay, ngoài sự hiểu biết về lĩnh vực văn hóa xã hội, triết học thì cần có một sự hiểu biết về khoa học tự nhiên cần thiết cho cuộc sống hiện đại. Hiểu biết nhiều có thể làm được nhiều việc có ích với đời nếu người đó có nhân, có nghĩa trong tâm.

Có có đủ bốn yếu tố: nhân, lễ, nghĩa, trí, mà không có tín thì cũng chưa vẹn toàn. Một người không có uy tín hay không có lòng tin đối với người khác thì cũng chẳng được ai tôn trọng. Chữ tín trong cuộc sống hàng ngày rất quan trọng, bởi vì sống ở đời ai cũng cần có một uy tín nhất định trong quan hệ với mọi người xung quanh. Có được uy tín với bạn bè, với người chung quanh thì sẽ tạo được sự tin tưởng của họ, và nhờ đó sẽ dễ dàng được họ giúp đỡ, hỗ trợ trong cuộc sống. Uy tín là giữ lời hứa - nói thì phải làm.

Có được nhân, lễ, nghĩa, trí, tín chính là có được năm yếu tố kết hợp thành nhân cách của con người để có được sự hài hòa trong mối quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội, hay trong gia đình.

Theo truyền thống Việt Nam thì đơn vị cơ bản của xã hội là gia đình chứ không phải là cá nhân. Do đó, sự hài hòa trong mối quan hệ giữa các cá nhân được đánh giá cao hơn thành tích cá nhân (Phạm 2008: 79). Vẻ đẹp thể chất và dáng điệu bề ngoài được coi là quan trọng đối với cả nam giới và phụ nữ, nhưng đức hạnh của người phụ nữ luôn luôn được ca ngợi. Hiếu nghĩa, tình huynh đệ, và lòng trung thành vợ chồng cũng được đánh giá cao. Người Việt Nam có khuynh hướng nội tâm. Đức hạnh của một người thường được giữ kín trong lòng; do đó sự mong muốn của họ được thể hiện gián tiếp bằng cách nói gợi ý, vòng vo, và họ suy nghĩ cẩn thận trước khi nói (Nguyễn 1987: 103).

Các khái niệm về gia đình, sự hòa hợp, đạo đức, hiếu nghĩa, tình huynh đệ, và lòng trung thành vợ chồng được ăn sâu trong văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Hầu hết các giá trị văn hóa cho thấy Nho giáo có mặt trong xã hội Việt Nam từ hàng ngàn năm (Marr 1981: 101-135; Duiker 1995: 81). Văn hóa Việt Nam đã bị ảnh hưởng chủ yếu của Trung Quốc trong nhiều thế kỷ vì sự gần gũi về địa lý và liên lạc phát sinh từ xung đột chính trị và kinh tế (Nguyễn 1995: 56). Theo ông Dương Quảng Hàm (1968: 1) thì xã hội Việt Nam đã trải qua sự thống trị của Trung Quốc trong hơn một ngàn năm, giữa 207 TCN và 939 AD.

Trước khi giành được độc lập vào năm 939 AD, người dân Việt Nam đã bị ảnh hưởng sâu sắc của Trung Quốc trong mọi khía cạnh của cuộc sống từ thời gian đó. Ví dụ, trong giáo dục, người Việt Nam đã học chữ Trung Quốc, theo lời dạy của Khổng Tử và thông qua tư tưởng và văn hóa Trung Quốc. Trong gần một ngàn năm độc lập đến cuối thế kỷ XIX, qua nhiều vương quốc trong đó có Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn, ký tự Trung Quốc vẫn còn được sử dụng bởi tất cả các tổ chức chính phủ (Dương 1968,1-2). Khi hệ thống giáo dục Việt Nam chủ yếu dựa vào Nho giáo, hệ thống chữ viết Trung Quốc được dùng để giảng dạy và dần dần được biết đến như chữ nho (kịch bản Nho giáo), và các học giả trong Nho giáo được gọi là Nhà nho hoặc Thầy nho (giáo viên Nho giáo).

Sự ảnh hưởng của Nho giáo đã đạt đỉnh cao trong xã hội Việt Nam vào năm 1075, khi vua Lý Nhân Tôn tuyển dụng viên chức trong những người có học (Dao 1951: 254, Dương 1968: 81, Defrancis 1977: 14). Theo Jamieson (1993: 11), bắt đầu vào cuối thế kỷ mười lăm, Nho giáo đã trở thành một ảnh hưởng lớn, chi phối xã hội Việt Nam. Từ quan điểm này, Jamieson (1993: 16-17) cho rằng, trước hết, trẻ em Việt Nam được giảng dạy lòng hiếu thảo (Hiếu), vâng lời và kính trọng cha mẹ, không chỉ trong hành vi, mà còn trong ngôn ngữ.

Trọng tâm của Nho giáo là dạy về sự áp dụng cho đúng danh vị của đối tượng bằng phương tiện ngôn ngữ. Theo đó, mỗi người cần chọn những từ thích hợp để làm hài lòng, thuyết phục hoặc ảnh hưởng đến người khác (Vũ 1997: 58). Những gì Khổng Tử gọi là "chính danh" cũng theo ý niệm nầy, chủ yếu có tác dụng đạo đức để các cá nhân duy trì một trật tự xã hội tốt (Lương 1988: 241). Theo Khổng Tử thì một trật tự xã hội tốt có nghĩa là duy tất cả các tầng lớp xã hội đúng theo vị trí thích hợp của họ (Feibleman 1976: 95).

Theo ông Nguyễn Xuân Thu (1986: 67) thì những người có học thức cao thì được đánh giá cao trong xã hội Việt Nam. Trong quá khứ có nhiều học giả từng là các nhà lãnh đạo trong xã hội, là động lực phát triển xã hội và tấm gương luân lý để mọi người noi theo. Các phân tầng xã hội cũ được xếp theo thứ tự giá trị từ cao: sĩ, nông, công, thương, và sự đáng giá như vậy vẫn còn ăn sâu trong tâm trí của nhiều người Việt Nam, đặc biệt là những người trong thế hệ cũ, tức những người lớn tuổi. Tuy nhiên, mặc dù "sĩ" đứng ở vị trí đầu tiên trong phân tầng xã hội, trong giáo dục truyền thống Việt Nam, "lễ" vẫn được xếp ưu tiên thứ nhất. Như vậy, trước khi được xếp hàng "sĩ", hay "học giả", người ta phải được giáo dục tốt về "lễ", với trọng tâm có thể được liên kết với lịch sự, một đặc tính văn hóa được nhiều người quí trọng.

Từ một góc độ khác, Wangdao (1997: 75) cho rằng một trong những ưu điểm lớn của Khổng Tử là "phép tắc" (một thuật ngữ thay thế cho "nghi lễ" hoặc "lễ" bằng tiếng Việt) được áp dụng trong các nghi thức nhằm hướng dẫn và hạn chế trong mối quan hệ giữa những người trong gia đình và xã hội, thí dụ như quan hệ giữa hoàng tử và các bộ trưởng, giữa người cha và con cái, và sự minh định thứ bậc giai cấp như vậy là nhằm bảo đảm trật tự và ổn định xã hội.

Theo truyền thống, trong xã hội có thứ bậc của Việt Nam, sự diễn tả lòng biết ơn hay sự xin lỗi thường không được thể hiện qua lời nói như "cảm ơn" hay "Tôi xin lỗi", nhưng nó được thể hiện qua hành vi phi ngôn ngữ (ví dụ như sự im lặng hoặc một nụ cười). Người trong một địa vị xã hội cao hơn, chẳng hạn như cha mẹ và giáo viên, thường không trực tiếp nói ra lời cảm ơn với người ở cấp thấp hơn họ (như trẻ em hoặc học sinh) để tỏ lòng biết ơn về một việc nhỏ, chẳng hạn như đóng cửa sổ hoặc đưa hộ một cuốn sách (Huỳnh 1987: 30). Vì vậy, khi trong văn hóa Âu Tây, việc sử dụng các cụm từ "xin vui lòng" và "cảm ơn" được coi là qui ước thực dụng xã hội, thích hợp với ngôn ngữ lịch sự trong các tình huống khác nhau. Trong văn hóa Việt Nam, bài tỏ "cảm ơn" với thân trong gia đình khi được giúp một công việc thường lệ nào đó có thể được coi là hành vi xúc phạm (Yates 2004: 5). Điều này là bởi vì nó mâu thuẫn với đức hạnh trong học thuyết Nho giáo trong năm mối quan hệ con người (Ngũ Luận), trong đó phân bổ một vai trò cho từng thành viên trong gia đình (Marr 1981: 58). Những mối quan hệ tạo thành năm quy tắc đạo đức, cụ thể là "thứ dân trung thành với nhà vua, trẻ em vâng lời và hiếu thảo với cha mẹ, vợ phụng sự cho chồng, người trẻ thì vâng lời người lớn tuổi hơn, còn bạn bè thì trung thành với nhau (Phạm 2008: 103). Theo đó, hành vi ngôn ngữ lịch sự xuất phát và gắn liền từ văn hóa Việt Nam, và như vậy, ngôn ngữ lịch sự được xác định bởi văn hóa (Holmes 1992: 285). Điều còn giải thích một phần nào rằng trong nền văn hóa Nho giáo Châu Á hay Việt Nam nói riêng, sử dụng quá nhiều lời cảm ơn và xin lỗi thường tạo ra cảm giác khó chịu đối với người nghe (Phạm 2008: 78).

Tóm lại, trọng tâm của văn hóa Nho giáo Việt Nam là những ý niệm chính danh qua ngôn ngữ để xác nhận vị trí của một cá nhân trong xã hội và gia đình nhằm để làm xin vui lòng và thuyết phục hoặc gây ảnh hưởng đến người khác. Cần nói thêm, ý niệm chính danh khuyến khích mọi người hành xử thích hợp với vai trò hay vị thế của họ theo từng thời điểm và tình huống liên hệ. Điều nầy rất cần thiết để không gây ra xung đột với người khác, nhưng không dễ dàng áp dụng bởi vì người ta thường hay lầm lẫn vai trò và trách nhiệm của mình trong từng thời điểm và tình huống; thí dụ một người đàn ông có thể là cha, là anh, là em, là bạn, là thầy hay là học trò v.v.

(Những bài kế tiếp tôi sẽ trình bày về Ngôn Ngữ Việt Nam)

Tài liệu tham khảo

Dao, Duy Anh (1951). Việt Nam Văn Hoá Sử Cương. (Vietnamese History). Bon Phuong. Saigon.

DeFrancis, John (1977). Colonialism and Language Policy in Viet Nam. The Hague. Paris. New York: Mouton Publishers. .

Duiker, William J. (1995). Vietnam: Revolution in Transition. Boulder. San Francisco. Oxford: Westview Press.

Duong, Quang Ham (1968). Việt Nam Văn Học Sử Yếu [Vietnamese Literary Brief History], 10th edition, Trung Tam Hoc Lieu (in Vietnamese). Dai Nam Publisher, California. USA.

Feibleman, J. K. (1976). Understanding Oriental Philosophy: A Popular Account for the Western World. New York: Horizon Press.

Holmes, Janet (1992). An Introduction to Sociolinguistics. New York: Longman (1992). An Introduction to Sociolinguistics. New York: Longman.

Huynh, Dinh Te (1987). Vietnamese Culture. California State Department of Education

Jamieson, N. (1993). Understanding Vietnam. University of California Press.

Luong, Hy V. (1988). Discursive Practices and Power Structure: Person-Referring Forms and Sociopolitical Struggles in Colonial Vietnam. In American Ethnologist, Vol. 15, No. 2 (May, 1988), pp. 239-253.

Marr, D. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. University of California Press. Berkeley. Los Angeless. London.

Mey, Jacob L. (2004). Between Culture and Pragmatics: Scylla and Charybdis? The Precarious Condition of Intercultural Pragmatics. Intercultural Pragmatics 1, 1; 27–48

Nguyen Dang Liem (1987). Cross-Cultural Adjustment of the Vietnamese in the United States. In Truong Buu Lam (ed.), Borrowings and Adaptions in Vietnamese Culture. University of Hawaii. Honolulu. Hawaii, pp.100-114

Nguyen Xuan Thu (1986). Vietnamese Refugees in Australia: Some Tentative Answers. In Nguyen Xuan Thu and Desmond Cahill (eds.) Understanding Vietnamese Refugee in Australia. School of Community Studies, Phillip Institute of Technology. Australia. pp. 67-83.

Nguyen, Duc Hoat (1995). Politeness markers in Vietnamese Requests (manuscript). Thesis (PhD). Monash University, Department of Asian Language and Studies.

Nguyen, Ngoc Tuan (2008). Socialist Realism in Vietnamese Literature: An Analysis of the relationship between literature and politics. VMD Verlag Dr. Muller Aktiengesellschaft & Co. KG. Saarbrücken, Germany.

Pham, Thi Hong Nhung (2008). Vietnamese Politeness in Vietnamese - Anglo-Cultural Intactions: A Confucian Perspective. A thesis submitted for the degree of Doctor of Philosophy at The University of Quensland in Ausgust, 2008.

Vu Thi Thanh Huong (1997). Politeness in Modern Vietnamese: A Sociolinguistic Study of a Hanoi Speech Community. (PhD Thesis) Department of Anthropology, University of Toronto.

Wangdao, D. (1997). Understanding Confucius. Beijing: Chinese Literature Press.

Yates, Lynda (2004). The ‘secret rules of language’:Tackling Pragmatics in the Classroom. Prospect Vol. 19, No. 1 (April 2004)
Phụ Đính:
Luận án Tiến Sĩ Lê Thiện Phúc, lưu trữ tại Australian National University

Title:  Variation in linguistic politeness in Vietnamese: a study of transnational context
Author(s):  Le, Phuc Thien
Publisher:  Asia-Pacific Linguistics (SEAMLES)
Description:  This work is a revised PhD dissertation comparing Politeness in Vietnamese spoken in Vietnam and Australia, hence the “transnational context”. The study uses naturalistic speech data recorded in everyday public contexts, including shops and markets, where the Vietnamese vernacular. The data corpus for each national context are more than 1000 turns at talk, and was transcribed and analysed in relation to four independent variables: national context, gender, role and generation. Through the data analysis, 21 categories of politeness marker are identified, defined and discussed in conjunction with general linguistic politeness theory concerning the interlocutor's “face wants” and two concepts of politeness in Vietnamese: (1) strategic politeness (lịch sự) and (2) respectful politeness (lễ phép). The main findings emerging from the analysis are that Vietnamese living in Australia are more linguistically polite than those living in Vietnam, using significantly more politeness markers (7 of 10) across 21 categories. Further in-depth exploration reveals how the usage of specific categories of marker is similar and different across the national contexts, and possible explanations for these differences in relation to intercultural contact and socio-political change are presented.
Citation:  Le, P. T. (2013). Variation in linguistic politeness in Vietnamese: A study of transnational context. Asia-Pacific Linguistics Open Access Monographs, A-PL 007; SEAsian Mainland Languages E-Series, SEAMLES 006. Canberra, ACT: Asia-Pacific Linguistics (SEAMLES)
Type:  Book
URI:  http://hdl.handle.net/1885/10093
ISBN:  9781922185068
Appears in Collections: Open Access Research


Files in This Item:

FileDescriptionSizeFormat
Le_VariationLinguistic2013.pdf 2.32 MB Adobe PDF Thumbnail
View/Open

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
31 Tháng Năm 2014(Xem: 9162)
MỘT NGÀY VIỆT NAM TRONG CHIẾN TRANH" VỚI NHỮNG CỰU CHIẾN BINH HOA KỲ TẠI TANK FARM 8819 BURKE ROAD VIRGINIA 22015
27 Tháng Năm 2014(Xem: 8538)
tưởng nhớ các quân nhân ngã xuống trong khi phục vụ đất nước nhân ngày Chiến sĩ trận vong.
17 Tháng Năm 2014(Xem: 9414)
Đó là hành động khẩn cấp cứu nguy Đất nước trong lúc nầy, trước khi việt gian việt cọng ĐẦU HÀNG, giao Đất nước vào tay tàu khựa!
14 Tháng Năm 2014(Xem: 8782)
Nhân một bước đi hố của Tàu khựa, đem giàn khoan vào thềm lục địa Việt Nam “ khiêu khích” làm dấy lên tinh thần Dân tộc yêu nước, chống xâm lăng của dân Việt.
13 Tháng Năm 2014(Xem: 8521)
Giờ đây, sau 70 năm trên Miền Bắc, 40 năm ở Miền Nam, người công nhân Việt Nam bị lợi dụng, áp bức, bốc lột đã nhiều, vùng lên phát khởi cách mạng đổi đời, tự cứu mình thoát khỏi gông cùm cọng sản
13 Tháng Năm 2014(Xem: 10244)
Một bài học chung: trong cái xứ tuyệt đối tự do này, hãy uốn lưỡi 7 lần trước khi mở miệng. NSA theo dõi, bạn gái cũng rình rập. Rất dễ nổi tiếng qua Facebook, Tweeter
06 Tháng Năm 2014(Xem: 11094)
Việt Nam Cộng Hoà có thể gọi là một thời khó quên -- một loại vũ trụ riêng tư và tha thiết của rất nhiều người. Thời đại đó giúp tạo ra lớp người chánh trực, hết lòng phụng sự quốc gia
06 Tháng Năm 2014(Xem: 9592)
khuyến khích con em trau dồi tiếng Việt, học hỏi tiếng Anh, tiếng Pháp, hay một ngoại ngữ khác, vừa để làm giàu thêm cho kho tàng tiếng Việt,
05 Tháng Năm 2014(Xem: 9311)
Tinh thần Dương Nội là một nguồn động viên và cổ vũ lớn lao cho hàng trăm ngàn dân oan trong khắp cả nước, vượt qua mội nỗi sợ hãi, quyết tâm đứng lên, chống lại bạo quyền
28 Tháng Tư 2014(Xem: 9824)
Nhân cuối tháng 4 ,xin kính cẩn chào một anh hùng "làm tướng không giữ được thành thì chết theo thành" như các tiền nhân Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương.
24 Tháng Tư 2014(Xem: 16542)
Nếu phải làm lại từ đầu, thì tôi cũng vẫn làm như thế. Tôi biết rằng làm như thế là tôi mất tất cả, mất tất cả trừ DANH DỰ.
22 Tháng Tư 2014(Xem: 9454)
Nhận được tập tài liệu rất đáng chú ý từ nguồn ẩn danh, theo nhận định thì đây đều là những văn bản có xuất xứ từ Tổng cục 2 – Bộ Quốc Phòng Việt Nam (tức Tổng cục Tình Báo). Nội dung các tài liệu liên quan đến nhiều vấn đề thời sự mà dư luận đang rất quan tâm.
19 Tháng Tư 2014(Xem: 8650)
Nhân bản là tình thương Không đương cự được súng đạn Nhưng súng đạn rồi sẽ hết Tình người còn dài lâu
12 Tháng Tư 2014(Xem: 9328)
Fonda đã phản bội không chỉ ý thức hệ của đất nước chúng ta mà còn rõ nét đã phản bội các người đàn ông đã phục vụ và hy sinh trong Chiến tranh Việt Nam.
12 Tháng Tư 2014(Xem: 8890)
Những kẻ tự nhận là trí thức, có phần nắm vận mệnh đất nước, lại đem đất nước dâng cho một chế độ không tổ quốc, không gia đình...
08 Tháng Tư 2014(Xem: 8515)
miền Trung California, có trữ lượng dầu lửa lớn nhất toàn quốc, ít nhất là 15 tỷ thùng và có thể trên 30 tỷ thùng, nhưng rất khó khai thác có lợi về mặt kinh tế.
07 Tháng Tư 2014(Xem: 9597)
Có ai trả lời cho người dân Việt Nam biết được đến bao giờ thì câu chuyện của cụ Edith Macefield sẽ xãy ra tại thiên đường XHCN Việt Nam này?
07 Tháng Tư 2014(Xem: 9197)
(Tướng bại trận thì không thể nói mình anh dũng. Bậc trí sĩ đại phu khi đã mất nước thì không thể nói mình có mưu lược). Thâm thúy, thật thâm thúy.
03 Tháng Tư 2014(Xem: 9836)
xin gửi đến các bạn như là 1 bản báo cáo và 1 lời ân tình, xin mời đến dự.Bên cạnh bức tường tưởng niệm, còn có 1 biểu tượng hết sức ý nghĩa.
29 Tháng Ba 2014(Xem: 9282)
Tháng tư buồn, dỏi mắt trông vời về Quê cũ bên kia bờ Đại Dương đang chìm đắm trong đêm trường cọng sản, ngậm ngùi cất lời ca.
21 Tháng Ba 2014(Xem: 23264)
Những trang phục, lá cờ của Tàu phải trả lại cho Tàu vì nhân dân Việt Nam không bao giờ chấp nhận nó cũng như không bao giờ chấp nhận một đảng tay sai như đảng cộng sản Việt Nam.
14 Tháng Ba 2014(Xem: 9418)
Thanh niên là NGƯỜI CHỦ TƯƠNG LAI của Đất nước Vận mệnh Đất Nước là ở trong tay các Bạn. Hãy hành xử đúng tư cách là NGƯỜI CHỦ
12 Tháng Ba 2014(Xem: 9176)
hoà nhập vào cuộc sống hài hoà của đất nước Úc, đó cũng là một niềm hãnh diện của CĐNVTD/VIC nói riêng và của CĐNVTD Úc Châu nói chung.
07 Tháng Ba 2014(Xem: 9056)
đừng cho rằng chẳng ai đủ khả năng hỏi tội quí vị khi quí vị đem đất đai tổ tiên dâng cho giặc Tàu để đổi lấy chỗ ngồi cai trị nhân dân.
04 Tháng Ba 2014(Xem: 8538)
Đất nước tôi, còn gió Độc lập Trường Sơn Còn lúa tràn đồng Phương Nam Còn rửa được hờn Quê hương “
25 Tháng Hai 2014(Xem: 8925)
Cháu chắt chúng ta rồi đây không còn cắp cặp đệm học trường làng, ê a đọc Quốc văn Giáo khoa thư mà sẽ sắm bút lông cặm cụi vẽ chữ tàu!
25 Tháng Hai 2014(Xem: 7805)
Cho nên chỉ còn có con đường CÁCH MẠNG LẬT ĐỔ chế độ ĐỘC TÀI TOÀN TRỊ VC khi người dân quá nghèo đói vì ách áp bức, bất công mà vùng lên tìm đường sống!
24 Tháng Hai 2014(Xem: 14371)
Ukraine cũng là bài học để mà họ có thể nhìn, nếu học tích cực hơn, thì họ nhìn theo một quan điểm tích cực, tức là quan hệ nhân - quả, "Tôi muốn nói tới quan hệ ai bắn vào nhân dân...
23 Tháng Hai 2014(Xem: 10634)
Trong bất cứ hoạch định nào, luôn có hai nhân vật trọng yếu quyết định sự thành bại của công cuộc. Đó là người lãnh đạo và người chấp hành.
18 Tháng Hai 2014(Xem: 11327)
Câu chuyện Babylift mang âm hưởng một chuyện cổ tích giữa đời thực với đầy đủ “Hỷ - Nộ - Ái - Ố”. Tuy nhiên, câu chuyện có đoạn kết “có hậu”, rất hiếm gặp giữa đời thường.
11 Tháng Hai 2014(Xem: 9340)
nên tin tưởng vào tuổi trẻ Việt Nam với dòng máu Việt tiềm tàng trong huyết quản, một khhi thức tỉnh, sẽ vùng lên như giao long đất Việt,
10 Tháng Hai 2014(Xem: 9821)
Đó chính là vầng trăng toả sáng cái Tết trăng tròn khỏi sự cho đêm rằm đầu tiên của năm mới: Rằm tháng Giêng!
07 Tháng Hai 2014(Xem: 9945)
Lịch sử rất sòng phẳng. Thời gian trôi qua, dân tộc sẽ có cái nhìn khách quan hơn, đánh giá công, tội một cách rõ ràng; sự kính trọng đối với từng nhân vật lịch sử không cần phải áp đặt, cưỡng chế.
06 Tháng Giêng 2014(Xem: 9277)
Những chiến sĩ VNCH đã hy sinh trong cuộc bảo vệ Hoàng Sa là những anh hùng của dân tộc Việt Nam này. Tôi nghĩ là bất luận chính thể nào cũng phải trân trọng và tôn vinh những người như thế
02 Tháng Giêng 2014(Xem: 9957)
Nhưng tôi thất vọng vô cùng khi về lại VN và gặp toàn những ông cụ non mới trên 20 tuổi đời: Nhút nhát, cầu an, thụ động, chỉ biết ăn nhậu, và đua đòi theo thời thế
31 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 8746)
Đã 60 năm rồi kể từ ngày đất nước Việt Nam thoát khỏi ách nô lệ thực dân Pháp, xin hỏi người dân Việt chúng ta đã được những gì và đã bị mất đi mất những gì?
26 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 6421)
Vì thế, bên cạnh “Great Men” - Benjamin Franklin, một “Little Women” - Jane Franklin xứng đáng được nhắc nhớ trong tiểu sử của người anh hùng dân tộc Mỹ.
22 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 16024)
Hy vọng một ngày nào đó, dòng sông An cựu cũng sẽ được chỉnh trang đẹp hơn, đầy đủ hơn và du khách có thể du thuyền trên dòng sông An Cựu thăm những địa danh quen thuộc
19 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 11301)
Khi lịch sử xoay vần thì tất yếu chuyện phải xảy ra sẽ xảy ra. Có điều chúng ta vẫn cần cái tia lửa khơi mào cho biến cố nó xảy ra. Và nhất quyết phải tin rằng thời cơ đã chín mùi,
19 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 9402)
Bạn sẽ không bao giờ nuối tiếc vì chắc chắn bạn sẽ có được cái Tâm An - viên ngọc quý mà không bạc tiền nào có thể mua được...
19 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 9552)
Xin được tạ ơn, hàng trăm ngàn đồng bào tôi xác phơi trong rừng hoang đảo vắng hay chìm sâu dưới lòng đại dương cô quạnh giữa tiếng nấc nghẹn ngào
16 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 9057)
Không giống như quan hệ với Trung Quốc, Hoa Kỳ có đòn bẩy thực sự với Việt Nam, mà chủ yếu dựa vào một mối quan hệ song phương bền vững
15 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 10582)
Cư trần lạc đạo?… mấy ai làm được. Biết tự tại là một ước mơ. Cho nên phải rèn tập, phải quán tưởng… Có phải đó là thực sự "hành thâm", từ bi hỷ xả chăng?
08 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 9927)
Nay, tôi thà phản bội lời thề trung thành với Đảng còn hơn phải theo Đảng mà phản bội lại quyền lợi dân tộc, dân sinh, dân chủ, dân quyền mà lẽ ra dân tộc tôi phải được hưởng từ 38 năm về trước
08 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 10602)
Do bưng bít, dư luận ít biết đến các cuộc thanh trừng nội bộ, nhưng việc này như một quy luật phổ biến trong chế độ CS để bảo vệ quyền lợi cá nhân và phe nhóm.
08 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 21943)
Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng”:làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa
06 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 10480)
Chính sách của Mỹ như dòng thác mạnh từ trên cao đổ xuống, CSVN như chú cá hồi lội ngược dòng trong mệt mỏi. Bây giờ là thời điểm chú cá hồi cộng sản mặc “áo cưới” lần cuối cùng và vĩnh viễn ra đi.
05 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 16843)
Tại miền nam thuở bấy giờ có khoảng 20 làng Chiêu Hồi. Mỗi gia đình được cấp 3 mẫu đất canh tác, nông cụ và hạt giống, và lương ăn trong 6 tháng. Hầu hết các làng Chiêu Hồi được cấp máy phát điện.
04 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 10059)
trong thời đại truyền thông điện tử, nông dân, công nhân không đơn thuần là cơ bắp. Huống chi các giới nầy đã trải qua bao nhiêu kinh nghiệm bị cọng sản lọc lừa nên tự thân đã biết tổ chức đấu tranh.