7:36 SA
Thứ Bảy
25
Tháng Giêng
2025

Louis Pasteur (1822 – 1895) Vị Ân Nhân Của Nhân Loại - Phạm văn Tuấn

14 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 14075)


1. Chữa trị bệnh chó dại

Sáng ngày thứ Hai, 6 tháng 7 năm 1885, em trai 9 tuổi tên là Joseph Meister cùng với mẹ tới phòng thí nghiệm của Giáo Sư Louis Pasteur. Em Joseph đã bị một con chó dại trong làng cắn 14 vết vào tay, đùi và chân. Nếu không được chữa trị đúng cách, em trai này sẽ chết trong vài tuần lễ.

Em Joseph không phải là người đầu tiên bị chó dại cắn. Kể từ năm 1885 trở về trước, không hề có một phương thuốc nào chữa trị bệnh chó dại cả. Các bác sĩ thời đó chỉ biết dùng một loại axít mạnh đổ vào vết thương nhưng cách chữa này không hiệu quả. Mẹ của em Joseph được khuyên nên đưa em trai này về thành phố Paris, cách xa hàng trăm dậm.

blank

Tại phòng thí nghiệm, Giáo Sư Pasteur lắng nghe kể về bệnh trạng của em Joseph. Hai vị bác sĩ điều trị trình bày cho Giáo Sư biết em trai Joseph chắc chắn sẽ chết vì nhiễm độc và sau mỗi giờ trôi qua, chất độc vẫn lan tràn qua cơ thể của em. Em Joseph cần được điều trị gấp.

Gần đây, nhà bác học Pasteur mới thử cách điều trị bệnh dại. Ông đã chích một liều độc chất của bệnh dại được làm cho yếu đi vào các con chó khỏe mạnh và các con vật này không cho thấy dấu hiệu bị bệnh dại. Rồi qua nhiều tuần lễ, Giáo Sư Pasteur dùng các liều độc chất mạnh hơn và các con chó thí nghiệm không những có thể qua khỏi liều bệnh dại mạnh nhất mà còn có thể không mắc bệnh dại khi bị chó dại khác cắn.

Điều khám phá của Giáo Sư Pasteur cho thấy rằng có thể phòng ngừa cho một người trước khi bị chó dại cắn, nhưng sau khi người đó đã bị nhiễm độc vì bệnh dại, thì cách điều trị kể trên có còn hữu hiệu không? Trước sự việc em Joseph Meister đã bị chó dại cắn, cách chữa trị này liệu sẽ giúp ích cho em nhỏ hay sẽ giết em nhỏ này? Chính các vị phụ tá của Giáo Sư Pasteur cũng cho rằng phương pháp chữa trị bằng cách chích liều độc chất quá nguy hiểm nhưng cuối cùng, Giáo Sư Pasteur quyết định rằng đó là cách duy nhất dùng để cứu sống em Joseph.

Chiều ngày 6-7-1885, em Joseph Meister nhận mũi chích đầu tiên. Trong 10 ngày kế tiếp, em nhận thêm mỗi ngày một liều chích với độ mạnh của độc chất tăng dần và nhà khoa học Pasteur đã để em Joseph nghỉ ngơi tại một nơi tiện nghi. Mỗi ngày, ông quan sát cẩn thận em này để nhận biết từng dấu hiệu của bệnh dại và cuối cùng, các vết thương đã lành, em Joseph Meister thoát khỏi chứng điên dại do chó dại truyền qua. Giáo Sư Pasteur đã tin rằng nếu em Joseph Meister không được miễn dịch bằng phương pháp chích ngừa kể trên thì các lần chích độc chất sau này càng làm sớm phát hiện bệnh dại.

Sau trường hợp của em Meister, tới em chăn cừu thuộc miền Jura tên là Jean Baptiste Jupille. Em Jean này đã bị chó dại cắn do bảo vệ các em nhỏ khác. Sáu ngày sau, vào ngày 20-8-1885, em thứ hai này cũng nhận được thuốc chích của nhà khoa học Pasteur và kết quả rất tốt đẹp.

Tin tức về cách chữa trị bệnh chó dại đã được loan đi khắp nơi và rất nhiều nạn nhân đã tới phòng thí nghiệm của Giáo Sư Louis Pasteur. Tới năm 1886, 2,500 người đã được tiêm chích vì bệnh chó dại. Thế nhưng vẫn có nhiều người chỉ trích nhà bác học Pasteur vì cũng có một số người bị chết, dù rằng đã được chích ngừa. Nguyên do tử vong vì những người này đã tới quá trễ phòng thí nghiệm của nhà bác học Pasteur.

Cách chữa trị bệnh chó dại của nhà bác học Pasteur đã cứu sống được 99.5 phần trăm nạn nhân khiến cho Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp phải cử ra một ủy ban cứu xét và theo đề nghị của ủy ban này, phải tạo ra các ngân khoản tư để lập nên một viện nghiên cứu gọi tên là Viện Pasteur và Viện này đã được khánh thành vào ngày 14-11-1888 tại thủ đô Paris.

blank

2. Thuở thiếu thời của Louis Pasteur

Tuổi trẻ của Louis Pasteur đã không cho thấy các dấu hiệu của một nhà khoa học, một nhà khảo cứu tìm hiểu về các bí ẩn căn bản của đời sống con người. Khi lên 13 tuổi, Louis Pasteur là một cậu bé có tài về hội họa với các bức chân dung bà mẹ và các người chị, các bức vẽ giòng sông chảy gần nhà. Louis Pasteur ra đời vào ngày 27-12-1822 tại Dôle, một tỉnh nhỏ nằm bên giòng sông Doubs, trong một căn nhà nhỏ trên đường “Các thợ thuộc da” (Rue des Tanneurs). Cha của Louis là ông Jean Pasteur, trước kia là một trung sĩ trong đạo quân của Hoàng Đế Napoléon Bonaparte, nay làm thợ thuộc da. Năm 1827, ông Jean Pasteur đem gia đình dọn qua tỉnh Arbois và căn nhà mới ở gần giòng sông Cuisance và sau nhà là một hố lớn để ngâm các bộ da bò và da cừu.

Trong thời gian theo bậc trung học, Louis Pasteur đã không tỏ ra là một học sinh xuất sắc nhưng lại là một con người kiên nhẫn với thói quen làm việc cần mẫn. Hai năm trước khi tốt nghiệp trung học, Louis Pasteur được ông hiệu trưởng Romanet khuyên nên thi vào Trường Cao Đẳng Sư Phạm (Ecole Normale Supérieure), một ngôi trường danh tiếng chuyên đào tạo các giáo sư về Khoa Học, Lịch Sử, Văn Chương và Nghệ Thuật.

Mùa thu năm 1838, khi 15 tuổi, Louis Pasteur đã cùng với người bạn tên là Jules, lên xe ngựa để đi Paris, cách Arbois 250 dậm (400 km). Sống trong một ký túc xá tại Paris, Louis cảm thấy quá nhớ nhà nên một tháng sau, ông Jean Pasteur phải lên Paris, đón con trở về. Louis Pasteur tiếp tục học trung học tại Arbois rồi theo Đại Học Besancon cách nhà 25 dậm (40 km). Vào thời gian này, cậu Louis nổi tiếng về vẽ chân dung nhưng cậu vẫn không quên ước mơ thi vào Trường Cao Đẳng Sư Phạm.

Tháng 8 năm 1842, Louis Pasteur tốt nghiệp đại học Besancon với các hạng ưu về vật lý, toán học và tiếng La Tinh rồi thi đậu vào Trường Cao Đẳng kể trên, với hạng 15 trên tổng số 22 sinh viên được tuyển chọn trên toàn nước Pháp. Louis đã không vừa lòng với kết quả này nên đã từ chối, không theo học và đây là một điều khác biệt với các sinh viên cùng lứa tuổi. Năm sau, 1943, trong kỳ dự tuyển lần thứ hai, Louis Pasteur đứng hạng 4, theo học phân khoa Khoa Học để sau này trở nên một giáo sư về Vật Lý và Hóa Học.

Vào thời kỳ này, Paris là nơi cung cấp các cơ hội học hành tốt đẹp nhất cho giới thanh niên, và các sinh viên ưa thích các bài giảng của Jean Baptiste Dumas, một Giáo sư Hóa Học danh tiếng. Louis Pasteur đã viết thư về cho gia đình, cho biết: “rất đông sinh viên tới nghe các buổi diễn giảng của Giáo Sư Dumas. Giảng đường rất lớn mà luôn luôn hết chỗ. Chúng tôi phải đến trước nửa giờ để chiếm chỗ ngồi tốt, như thể trong rạp hát…”. Ngoài Giáo Sư Dumas, các sinh viên còn mến phục các nhà khoa học khác như nhà vật lý Jean Baptist Biot, nhà hóa học Antoine Jerome Balard…

Năm 1845, Louis Pasteur là một trong bốn sinh viên tốt nghiệp và các giáo sư giảng dạy đã ghi chú về Pasteur như sau: “… sẽ trở nên một giáo sư xuất sắc”. Sau đó Louis Pasteur chỉ xin được một việc làm tại phòng thí nghiệm của Giáo Sư Balard và bắt đầu nghiên cứu về bản chất của các tinh thể (crystals).

Vào đầu thế kỷ 19, giáo sư Biot đã khám phá thấy rằng các tinh thể của vật chất có đặc tính làm lệch tia sáng chiếu đến, và có loại làm lệch qua bên phải, lại có loại làm lệch qua bên trái. Louis Pasteur bắt đầu khảo sát một loạt các hợp chất gọi là axít tartaric và các muối tartrate. Có hai loại tinh thể axít tartaric được tạo thành bên trong thùng rượu nho khi nước nho lên men, thế nhưng đã có một bí ẩn vì một loại dung dịch axít kể trên làm lệch ánh sáng trong khi loại thứ hai không có đặc tính đó. Sau cả ngàn lần quan sát qua kính hiển vi, Louis Pasteur đã nhận ra rằng trong số các mặt nhỏ của hai loại tinh thể axít tartaric, chỉ có một mặt nhỏ khác nhau về độ dốc. Khám phá mới của Louis Pasteur đã là căn bản cho một thứ hóa học mới của thời kỳ bấy giờ, đó là “ngành hóa học ba chiều” (stereo chemistry).

Tháng 1 năm 1849, sau khi tốt nghiệp văn bằng Tiến Sĩ Khoa Học, Louis Pasteur nhận chức vụ giảng sư về hóa học tại trường Đại Học Đường Strassbourg và vào tuổi 26, Louis Pasteur quen cô Marie Laurent, ái nữ của vị viện trưởng đại học. Họ cử hành hôn lễ vào ngày 29-5-1848 và từ đây, bà Marie đã lo lắng mọi công việc gia đình, để chồng chuyên tâm nghiên cứu Khoa Học. Tại Strassbourg, 3 trong 5 người con đã ra đời: cô gái Jeanne sinh năm 1850 rồi một năm sau là người con trai Jean Baptiste và hai năm sau nữa là cô gái Cécile.

blank

3. Nghiên cứu vi trùng

Vào tháng 9 năm 1954, Louis Pasteur được Bộ Trưởng Giáo Dục Pháp bổ nhiệm làm Giáo Sư Hóa Học và Khoa Trưởng Khoa Học tại Đại Học Lille. Đây là một ngôi trường mới được thành lập tại trung tâm kỹ nghệ rất giàu có thuộc miền bắc của nước Pháp. Louis Pasteur với tuổi 32, đã được giao trọng trách là giáo dục các sinh viên làm sao đáp ứng được các nhu cầu thực tế của địa phương. Giáo Sư Pasteur đã khởi đầu một quan niệm giáo dục rất tiến bộ đối với thời bấy giờ, đó là lập ra các lớp học buổi tối dành cho các công nhân trẻ của thành phố kỹ nghệ, đồng thời ông cũng dẫn các sinh viên ban ngày đi thăm viếng các nông trại và các nhà máy lớn. Pasteur đã từng nói: “không có hai loại Khoa Học mà chỉ có Khoa Học và các áp dụng của Khoa Học. Hai thứ này liên kết với nhau như trái cây mọc ra từ cành cây”.

Tại vùng Lille, có rất nhiều nhà máy nấu rượu. Người ta đã cho men vào nước nho và sau tiến trình lên men, nước nho trở thành rượu chát. Nhưng vào thời kỳ đó, không ai biết rõ tại sao đã có những biến đổi này. Các nhà khoa học chỉ nói về tiến trình lên men là “lạ lùng và còn bí ẩn”.

Vào một ngày mùa hè năm 1856, ông Bigo là chủ của một lò nấu rượu đã tới trường đại học, thăm viếng Giáo Sư Pasteur. Ông Bigo đã trình bầy rằng một dung dịch củ cải đường thường được chuyển thành rượu nhưng lần này, nó đã trở thành dấm chua. Các nhà sản xuất rượu khác cũng báo cáo cùng một trở ngại và đây là một điều xấu cho nền kỹ nghệ trong vùng bởi vì sự lên men dấm đã gây thiệt hại hàng ngàn quan tiền trong một ngày. Không ai biết rõ nguyên do đã sinh ra sự lên men rượu, tại sao rượu trở thành dấm chua. Ông Bigo hi vọng rằng vị Giáo Sư Pasteur dạy người con trai của ông, sẽ cho các lời khuyên. Vì vậy Louis Pasteur đã tới thăm nhà máy nấu rượu và đã lấy các mẫu dung dịch của cả loại tốt lẫn loại đã bị hư hỏng.

Qua kính hiển vi, Louis Pasteur nhận thấy rằng các tế bào men rượu (ferments) ở dạng hình tròn rất nhỏ, nhưng trong dung dịch bị hư hỏng, các tế bào tròn đó đã bị các tế bào hình que lấn át. Louis Pasteur gọi các tế bào men rượu là “wee germs” (vi trùng) (sau này được gọi là các vi sinh vật = microorganisms). Ông nhớ lại công trình khảo cứu của nhà khoa học Charles Cagniard-Latour theo đó các tế bào men rượu đã sinh sản bằng cách mọc mầm (budding). Pasteur đặt giả thuyết rằng nếu các tế bào này sinh sản được thì chúng có sự sống và đã sống nhờ đường trong dung dịch củ cải đường và biến dung dịch này thành rượu. Louis Pasteur đã cấy men trong nhiều loại dung dịch đường và đã nhìn thấy qua kính hiển vi các tế bào men rượu sinh sôi nẩy nở, ngay cả trong một môi trường nhân tạo thiếu khí oxygen, quan niệm này trở thành “hiệu ứng Pasteur” (the Pasteur effect).

Khi nghiên cứu về dung dịch sữa là thứ dễ bị hư hỏng, Louis Pasteur cũng thấy sữa trở thành chua khi có nhiều loại tế bào hình que, loại đã thấy trong dung dịch củ cải đường bị hư hỏng của ông Bigo. Do sự khám phá của mình, Giáo Sư Pasteur đã khuyên các nhà nấu rượu nên dùng kính hiển vi để khám xét các thùng rượu đang lên men.

Năm 1857, sau hai năm khảo cứu về dung chất củ cải đường, ông Pasteur phổ biến một báo cáo về sự lên men theo đó có hai loại men, một loại có ích đã biến dung dịch củ cải đường thành rượu và một loại có hại, hình que, chỉ dài bằng 0.001 mm. Báo cáo về sự lên men do các vi sinh vật gây nên, đã tạo ra một cơn bão phản đối trong giới khoa học vì một số nhà khoa học thời đó tin rằng sự lên men là do phản ứng giữa các chất thành phần. Nhiều nhân viên của Hàn Lâm Viện cũng không chấp nhận các chứng cớ nêu ra. Tuy thế, Giáo Sư Louis Pasteur vẫn tiếp tục nghiên cứu.

Cuối năm 1857, Louis Pasteur được gọi về Trường Cao Đẳng Sư Phạm tại thủ đô Paris và làm giám đốc khảo cứu khoa học. Vào thời gian này, Louis Pasteur đã gặp các khó khăn mà các nhà khoa học đương thời cùng phải chịu đựng: phòng khảo cứu không được trang bị đầy đủ dụng cụ, không có ngân khoản và các tiện nghi khác. Ông Pasteur phải dùng tiền riêng của mình để biến đổi hai phòng trên lầu của nhà trường thành một nơi khảo cứu. Louis Pasteur tìm cách bác bỏ lý thuyết về sự sinh sản tức thời (spontaneous generation). Ông tin rằng trong không khí có các vi trùng, vì vậy ông đã nghĩ ra một cách thí nghiệm theo đó dung dịch nước đường được đun sôi và chứa trong hai bình thủy tinh khác nhau, một bình được gắn kín còn bình kia để mở ra không khí. Sau vài ngày, dung dịch trong bình thông với không khí đã bị hư hỏng, trái với dung dịch kia. Louis Pasteur cũng làm thí nghiệm với các loại dung dịch khác như sữa, nước canh… và đã chứng minh được rằng vi trùng từ bên ngoài không khí xâm nhập vào các dung dịch. Nhưng các nhà khoa học phản đối vẫn cho rằng việc gắn kín bình đã làm ngưng lại sự sinh sản tức thời.

Ông Pasteur bèn nghĩ thêm một cách khác, dùng tới loại bình chứa dung dịch có cổ dài uốn theo hình chữ S nhờ đó dung dịch bên trong vẫn tiếp xúc với không khí mà không bị bụi chứa vi trung xâm nhập. Louis Pasteur còn khảo sát ảnh hưởng của không khí có chứa vi trùng tại nhiều địa điểm như trong hầm rượu, trên đồi miền Arbois và trên miền núi cao Mont Blanc. Chính vào thời kỳ ông Pasteur bận tâm khảo cứu thì người con gái đầu lòng của ông tên là Jeanne mắc bệnh sốt thương hàn và qua đời vào tháng 9 năm 1859.

Tháng 11 năm 1860, Giáo Sư Louis Pasteur báo cáo trước Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp về các kết quả thí nghiệm của mình theo đó, bụi trong không khí là nguyên do làm hư hỏng các dung dịch. Louis Pasteur đã nghĩ ra một phuong pháp làm sạch vi trùng mà ngày nay được gọi là cách khử trùng Pasteur (pasteurization). Nhờ phương pháp này, các thực phẩm có thể lưu trữ được lâu hơn và được chuyên chở mà không bị hư thối.

Ngày 8-12-1862, Louis Pasteur được bầu vào Hàn Lâm Viện Khoa Học, một danh dự cao quý nhất của các nhà khoa học người Pháp. Các công trình nghiên cứu của ông Pasteur đã mở đường cho nhiều sinh viên và nhà khoa học khác tìm kiếm các vi trùng tại các phạm vi khác nhau.

4. Nghiên cứu về các bệnh truyền nhiễm

Do yêu cầu của Bộ Trưởng Canh Nông, Giáo Sư Dumas đã khẩn khoản nhờ ông Louis Pasteur xuống miền Nam nước Pháp để nghiên cứu về bệnh tầm, một bệnh dịch đang tàn phá nền kỹ nghệ tơ lụa của địa phương. Miễn cưỡng phải nhận lời, nhà khoa học Pasteur đã ra đi cùng với người học trò giỏi nhất là Emile Duclaux và vài sinh viên khác. Nhóm nhà nghiên cứu này cư ngụ tại làng Alais.

Louis Pasteur đã tìm đọc tất cả các tài liệu viết về con tầm, cách nuôi tầm cũng như dùng kính hiển vi để quan sát các mầm bệnh đã giết hại loài tầm. Ông đã làm việc không ngừng trong khi hoàn cảnh gia đình của ông gặp các bất hạnh liên tục: ông Jean Pasteur qua đời rồi tới lượt người con gái Camille, 2 tuổi, thiệt mạng vào tháng 9-1865 vì bệnh sốt thương hàn. 10 tháng sau tới lượt người con gái Cécile, 13 tuổi, cũng chết vì bệnh sốt kể trên. Do bị căng thẳng và buồn phiền, ông Pasteur đã bị tai biến mạch máu não vào đêm 19-10-1868. Nhiều người đã tưởng nhà bác học qua đời, thế nhưng chỉ 3 tháng sau, mặc dù bị liệt một phần thân thể, Giáo Sư Pasteur vẫn trở lại với các công trình nghiên cứu.

Năm 1870, Louis Pasteur cho phổ biến một báo cáo về bệnh tầm do một loại vi trùng ký sinh. Ông đã chỉ dẫn cách tìm ra các con tầm mắc bệnh và cách dùng loại trứng tầm tốt để tạo nên các con tầm khỏe mạnh, và phương pháp này đã được các nhà chăn nuôi khắp châu Âu xử dụng. Cũng vào năm này, bùng nổ cuộc chiến tranh giữa nước Pháp và nước Phổ khiến cho ông Pasteur phải rời khỏi thành phố Paris. Ông trở lại nơi này vào cuối năm 1871, khi chiến tranh chấm dứt với các bệnh viện tràn ngập các binh sĩ bị thương. Nhà bác học Pasteur vì vậy đã nghiên cứu các vết thương và đã khuyên các bác sĩ phải chú tâm về vấn đề vệ sinh khi chữa trị bệnh nhân.

Mấy năm về trước tại xứ Tô Cách Lan, Giáo Sư về khoa Giải Phẫu Joseph Lister của Đại Học Đường Edinburgh, đã đọc các luận chứng của Louis Pasteur về vi trùng rồi tìm hiểu nguyên do các bệnh nhân bị nhiễm trùng. Từ năm 1867, ông Joseph Lister đã dùng dung dịch axít carbolic để khử trùng các dụng cụ y khoa, các vết thương và các bàn tay của bác sĩ giải phẫu nhờ đó đã làm giảm số tử vong của các bệnh nhân được 97 phần trăm. Năm 1874, trong bức thư gửi cho Louis Pasteur, Joseph Lister xác nhận rằng nhờ lý thuyết về vi trùng của nhà bác học người Pháp mà ông đã thực hiện được hệ thống diệt trùng (antiseptic system).

Louis Pasteur không phải là một bác sĩ y khoa nhưng các khảo cứu của ông về vi trùng, về các bệnh truyền nhiễm đã khiến cho nhà bác học được bầu vào Hàn Lâm Viện Y Học của nước Pháp vào năm 1873. Nhà bác học Pasteur lại có các phụ tá trẻ tuổi tài giỏi: bác sĩ Jules-Francois Joubert, bác sĩ Emile Roux và bác sĩ Charles Chamberland… và phòng nghiên cứu của ông vẫn tìm kiếm nhiều phương pháp kiểm soát các vi trùng gây bệnh.

Sau 20 năm nghiên cứu, các khám phá về vi trùng và bệnh truyền nhiễm của Louis Pasteur đã được phổ biến qua tác phẩm “Lý thuyết về vi trùng và áp dụng trong Y Khoa và Giải Phẫu” (The Germ Theory and its Application to Medicine and Surgery). Tác phẩm này cắt nghĩa sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm và từ nay, các nhà khoa học bắt đầu tìm hiểu về các bệnh dịch như đậu mùa, dịch tả…

Vào thời kỳ đó, tại miền đông của nước Phổ có bác sĩ Robert Koch đang tìm hiểu nguyên nhân gây ra bệnh than, một thứ bệnh giết hại rất nhiều cừu và các gia súc khác. Tháng 4 năm 1876, bác sĩ Kock đã dùng kính hiển vi, tìm ra loại vi trùng gây bệnh than, được đặt tên là “bacillus anthracis”. Như vậy bác sĩ Koch đã chứng minh lý thuyết về vi trùng của nhà bác học Pasteur.

Năm 1878, Louis Pasteur khởi đầu nghiên cứu vi trùng gây ra bệnh dịch tả gà (chicken cholera). Nhà bác học đã nuôi vi trùng trong nước dùng gà (chicken broth) rồi dùng các liều độc chất từ yếu đến mạnh chích dần vào các con gà và đã thấy cơ thể gà chống cự được sự xâm nhập của vi trùng. Louis Pasteur đã gọi phương pháp này là chủng ngừa (vaccination) và ngày nay, kỹ thuật miễn dịch (technique of immunization) của nhà bác học vẫn còn được xử dụng.

Luôn luôn nhà bác học Pasteur muốn chia xẻ các khảo cứu và khám phá của mình với các nhà khoa học khác. Năm 1881, Louis Pasteur thuyết trình về phép chủng ngừa trước Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp thế nhưng, ông vẫn gặp các nghi ngờ và chống đối. Một số người thắc mắc làm sao một nhà hóa học lại hiểu rõ về các bệnh tật của súc vật. Viên chủ nhiệm tạp chí Thú Y (the Veterinary Journal) đề nghị một công cuộc thử nghiệm công khai về thuốc chủng ngừa bệnh than (anthrax vaccine). Louis Pasteur nhận lời.

Vào ngày 31-5-1881 tại nông trại Pouilly-le-Fort thuộc vùng Melun gần thủ đô Paris, các nông gia, các bác sĩ thú y, các nhà khoa học và nhân viên chính phủ đã chứng kiến Louis Pasteur cùng các cộng sự viên là Roux, Chamberland và Louis Thuillier chích ngừa nhóm 1 gồm 25 con cừu bằng các liều thuốc chủng từ yếu đến mạnh, còn nhóm thứ 2 cũng gồm 25 con cừu, được nuôi riêng để kiểm chứng. Sau đó, cả 50 con cừu đều được chích bằng liều vi trùng bệnh than cực mạnh. Kết quả là 25 con cừu của nhóm 2 đã chết và nhóm 1 đã được chủng ngừa không bị ảnh hưởng. Sự thành công thực là rực rỡ. Như vậy nhà bác học Pasteur đã khám phá ra một thứ võ khí hữu hiệu để chống lại một số bệnh truyền nhiễm.

Tới cuối thập niên 1870, Louis Pasteur lại nghiên cứu về bệnh chó dại (rabies). Đây là một trong các bệnh khủng khiếp của nhân loại với hình ảnh các con chó điên, miệng sùi bọt, tấn công các người qua đường. Bằng các phương pháp tương tự khảo cứu về bệnh dịch tả gà, nhà bác học Pasteur đã không tìm ra được vi trùng bệnh chó dại trong máu của các con chó và thỏ mắc bệnh.

Vào thời kỳ đó, các nhà khoa học như Pasteur chưa biết rằng các bệnh như bệnh than, bệnh dịch tả gà là do vi trùng (bacteria) nên có thể nhận ra qua kính hiển vi, còn nguyên nhân gây nên bệnh chó dại là các vi khuẩn (virus), chỉ nhìn thấy được bằng các kính hiển vi cực mạnh mà các nhà khoa học thuộc cuối thế kỷ 19 chưa có. Thế nhưng, do thấy người mắc bệnh chó dại bị co giật, Louis Pasteur đã cho rằng bộ óc và hành tủy (medulla oblongata) là nơi trú ẩn của các vi trùng bệnh chó dại. Nhà bác học Pasteur sau đó đã tìm ra loại thuốc chủng nhưng chưa có cơ hội áp dụng, cho tới ngày 6-7-1885, liều thuốc chủng đầu tiên của Louis Pasteur đã cứu sống em Joseph Meister.

blank

5. Di sản của nhà bác học Louis Pasteur

Vào năm 1888, một ủy ban khoa học độc lập đã trắc nghiệm thuốc chủng ngừa bệnh chó dại của Louis Pasteur và xác nhận thứ thuốc này an toàn. Một nhân viên trong ủy ban đã viết: “chúng tôi tin tưởng vào giá trị của khám phá do ông Louis Pasteur, và khám phá này còn có thể áp dụng cho các bệnh tật khác”.

Sau đó, Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp cổ động một chương trình gây quỹ để thành lập một viện nghiên cứu. Mọi người trên toàn thế giới đã gửi tới các đóng góp. Ngày 14-11-1888, Viện Pasteur được mở cửa để phục vụ cho sức khỏe công cộng và nhà bác học Pasteur đã mời nhiều nhà khoa học thuộc các bộ môn khác cùng nhau nghiên cứu. 15 bác sĩ và khoa học gia đã cộng tác với Viện Pasteur. Giáo Sư Pasteur cũng huấn luyện một số nhà khảo cứu trẻ, đáng kể là bác sĩ Roux và bác sĩ Alexandre Yersin đã tìm ra độc tố và cách chữa trị bệnh yết hầu (diphtheria), một căn bệnh đã giết hại hàng ngàn trẻ em mỗi năm, và một vị phụ tá xuất sắc nhất của Louis Pasteur là Elie Metchnikov đã phát hiện ra các cách cơ thể chống lại vi trùng, rồi nghiên cứu về tính miễn nhiễm.

Ngày 27-12-1892, các nhà khoa học thuộc nhiều quốc gia đã họp mặt tại Đại Giảng Đường của Trường Đại Học Sorbonne ở Paris để kỷ niệm lần sinh nhật thứ 70 của Louis Pasteur. Nhà bác học Pasteur vì bị liệt nửa người bên trái, được Tổng Thống Pháp Sadi Carnot dìu vào Hội Trường. Rất nhiều nhân vật lừng danh trên thế giới đã lên tiếng ca ngợi ông Louis Pasteur, kể cả Giáo Sư Joseph Lister. Vì không đủ sức khỏe, nhà bác học Pasteur đã không đọc nổi bài diễn văn và người con trai của ông phải đọc thay ông. Sau đó các người ngưỡng mộ đến viếng thăm căn phòng thí nghiệm mà nhà bác học đã làm việc trong 6 năm cuối đời, trong số này có ông Charles Chappuis, người bạn cũ 50 năm và hiện là Viện Trưởng Danh Dự của Hàn Lâm Viện Dijion.

Vào tháng 4 năm 1895, Louis Pasteur được đưa tới thăm phòng thí nghiệm của bác sĩ Roux và được mời coi qua kính hiển vi thứ vi trùng của bệnh dịch “plague bacillus” mới được tìm thấy một năm về trước và nhà bác học Pasteur đã phải thốt lên: “A ! thì ra còn quá nhiều việc phải làm”.

Ngày 28-9-1895, nhà bác học Louis Pasteur qua đời, linh cữu được quàn tại giáo đường mà ngày nay là Nhà Bảo Tàng của Viện Pasteur ở Thủ Đô Paris. Vào buổi tang lễ, một số công trình nghiên cứu của Louis Pasteur đã được trình bày trước dân chúng, gồm các tác phẩm: “Hóa học phân tử bất đối xứng” (Molecular dissymmetry, 1848), “Sự lên men“(Fermentations, 1857), “Về sự sinh sản tự nhiên”(Spontaneous generation, 1862), “Các khảo sát về rượu nho” (Studies of wine, 1863), “Các bệnh của loài tầm”(Silk worms diseases, 1865), “Các khảo sát về rượu bia” (Studies of beer, 1871), “Các bệnh truyền nhiễm” (Infectious diseases, 1877), “Thuốc chủng ngừa” (Vaccines, 1880), “Ngừa bệnh chó dại” (Prevention of rabies, 1885)…

Theo phương pháp khảo sát của Louis Pasteur, các nhà khoa học của phòng nghiên cứu của bác sĩ Robert Koch đã tìm ra độc tố của vi trùng bệnh uốn ván (tetanus toxin) vào năm 1890 rồi qua đầu thế kỷ 20, nhiều liều thuốc chủng ngừa hữu hiệu đã được khai triển để trị các bệnh đậu mùa, lao phổi, sốt vàng da, tê liệt (poliomyelitis), dịch tả, sởi, thương hàn, ho gà, cúm, dịch hạch… Các khảo cứu khoa học của Louis Pasteur đã là căn bản dùng cho hơn 100 phát minh của các Viện Pasteur và kể từ năm 1900, 8 khoa học gia của các Viện Pasteur đã đoạt được các Giải Thưởng Nobel lừng danh về Sinh Học và Y Học.

Nhà bác học Louis Pasteur đã từng nói với các người cộng tác: “các bạn đã mang lại cho tôi niềm vui sâu đậm nhất của một người có niềm tin không lay chuyển được, đó là Khoa Học và Hòa Bình sẽ chiến thắng sự Ngu Dốt và Chiến Tranh… và Tương Lai sẽ thuộc về những ai làm lợi ích nhiều nhất cho Nhân Loại đang đau khổ”.

Louis Pasteur là một nhà nghiên cứu khéo léo với trí tò mò không giới hạn, có thiên tài về quan sát, đã tận tụy suốt đời cho các công trình khảo cứu để bảo vệ Kỹ Nghệ và Khoa Học. Louis Pasteur là một nhà bác học thực hiện được bốn lý tưởng: Niềm Tin, Hi Vọng, Lòng Bác Ái và Khoa Học (Faith, Hope, Charity and Science). Do các công trình khảo cứu và các kết quả hữu ích dùng cho Canh Nông, Kỹ Nghệ và Y Khoa, Louis Pasteur xứng đáng được người đời sau ca ngợi là Vị Ân Nhân của Nhân Loại./. 


Phạm Văn Tuấn ( V.T
)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
12 Tháng Chín 2011(Xem: 13342)
Niềm vui làm mẹ chưa trọn thì Phạm Tú Anh bất ngờ ra đi, bỏ lại trần gian tác giả của “Cross Sections” và cô con gái hai tháng tuổi, Vivienne Hoang-Anh Knobel
11 Tháng Chín 2011(Xem: 14549)
Canh bạc kinh tế tài chính lúc đó thêm gian lận và nặng mùi vị “xập xám chướng” ma phiệt. “Faites vos jeux. Rien ne va plus”.[14] Mời Quý vị đặt tiền. Không còn xoá bài đánh lại được nữa.
05 Tháng Chín 2011(Xem: 13261)
04 Tháng Chín 2011(Xem: 13805)
02 Tháng Chín 2011(Xem: 14960)
Những tưởng đây là dịch vụ có phần… điên rồ, song nó lại thu hút không ít sự hiếu kỳ của công chúng. Hơn 200 người trên mọi miền Malaysia đã đăng ký tham gia “hành trình” có một không hai này.
18 Tháng Tám 2011(Xem: 14195)
Hoa Kỳ và Singapore đang thảo luận chi tiết về một kế hoạch đồn trú cho một loại chiến hạm tàng hình (stealh) thuộc loại mới nhất của Hoa Kỳ gọi là LCS.
09 Tháng Tám 2011(Xem: 14395)
Phở là một món ăn hoàn toàn do người Việt Nam sáng chế ra, một món ăn rất bình dân và được phổ biến một cách rộng rãi không những trên toàn cõi Việt Nam, mà còn trên khắp thế giới nữa. Ở đâu có người Việt Nam, ở đó có Phở, và ngược lại,
06 Tháng Tám 2011(Xem: 15051)
Hàng năm, tháng 7, từ hai mươi năm nay, anh em bạn bè điện thoại cho nhau, gọi nhau, rủ rê nhau làm sao ráng gặp nhau, ráng đi Giỗ Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy. Anh em tuổi mỗi ngày một cao, mỗi năm kiểm điểm, lại vắng mặt vài tên
04 Tháng Tám 2011(Xem: 13207)
Bác Sĩ Henriette Bùi, biểu tượng của cộng đồng người Việt hải ngoại cũng như tại Paris nói riêng, một nhân vật đặc biệt, chứng nhân của cả một thế kỷ Việt Nam đầy biến động.
31 Tháng Bảy 2011(Xem: 14127)
Hàng năm cứ vào độ trăng tròn tháng Bảy âm lịch, tức khoảng trung tuần tháng Tám dương lịch là ngày lễ Vu Lan trở về. Vào ngày này các chùa Việt Nam và Trung Hoa thường thiết lễ rất trọng thể và các Phật tử đến tham dự rất đông đảo để cầu nguyện cho cha mẹ hiện tiền được an lạc, cha mẹ quá vãng được siêu sanh tịnh độ,
27 Tháng Bảy 2011(Xem: 13419)
Những người còn sống sót để đến được các miền đất tự do phải cảm thấy một bổn phận linh thiên đối với những người đã tử nạn trên đường đi. Đó là những bạn đồng hành trên đường đi tìm tự do nhưng không được may mắn như chúng ta. Trong những cơn nguy khốn, họ là những đồng đạo đã cầu nguyện cùng một đức Phật, cùng một đức Chúa như chúng ta
26 Tháng Bảy 2011(Xem: 14261)
Chỉ là một hòn đảo nằm chơ vơ giữa Thái Bình Dương, nhưng cảnh đẹp mê hoặc cùng tấm lòng hiếu khách của người dân Hawaii đủ khiến hòn đảo này được mệnh danh là thiên đường của hạ giới
19 Tháng Bảy 2011(Xem: 15444)
Bức tượng Marilyn Monroe Nghệ Thuật thì phải tuyệt tác rồi Khoảnh khắc "tốc váy" nổi tiếng của "biểu tượng sex thế kỷ 20" đã được tạc tượng cao tới 8m và đặt tại Chicago.
18 Tháng Bảy 2011(Xem: 13167)
vị tu sĩ được nhiều người gọi là Phật Sống này nói rằng “thế giới là của nhân loại, và quốc gia là của người dân -- chứ không phải của đảng nào, vua nào, hay lãnh tụ tinh thần nà
10 Tháng Bảy 2011(Xem: 14470)
Tham vọng về đất đai của chúng tôi, nếu có là chỉ xin vừa đủ đất để chôn những người tử trận không thể trở về nhà….. Yên lặng như tờ. Yên lặng đến nỗi có thể nghe được chiếc kim rơi….
09 Tháng Bảy 2011(Xem: 20739)
Tác phẩm “Tội Ác và Hình Phạt” của Đại Văn Hào Fyodor Dostoevsky đã cung cấp nền móng cho các nhà văn viết về thứ tội ác thúc động do một thứ triết lý sống, viết về cách bào chữa cho tội ác bằng những phương pháp không tưởng, về giá trị của bản ngã qua các hành động.
07 Tháng Bảy 2011(Xem: 12320)
Để tưởng niệm người đã có công hiện đại hóa nền văn học nước nhà qua những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn mà ông chủ trì và sáng tác, Việt Thức nhận đăng tải một thi phẩm truy niệm – cảm đề của thi sĩ Vũ Hoàng Chương sáng tác đầu năm 1964 và bản dịch tiếng Anh của Chu Việt kèm theo bài “nỗi niềm” của dịch giả.
04 Tháng Bảy 2011(Xem: 15145)
Thấm thoắt đã nửa thế kỷ trôi qua, Giờ Thứ Hai Mươi Lăm vẫn là một trong những cuốn tiểu thuyết tuyệt vời nhất, hàng trăm năm mới có tác phẩm hay như vậy
03 Tháng Bảy 2011(Xem: 15812)
Trong vòng một thập kỷ trở lại đây, Quân đội Mỹ liên tục đầu tư tiền của để nâng cấp và phát triển các hệ thống vũ khí chiến lược. Có những hệ thống vũ khí mà người ta chưa bao giờ biết tới
29 Tháng Sáu 2011(Xem: 14026)
Có nhiều nơi ở miền Nam mình đã đi qua, đã ở đó, đã nghe nói tới hoặc đã đọc được ở đâu đó...riết rồi những địa danh đó trở thành quen thuộc;nhưng chắc ít khi mình có dịp tìm hiểu tại sao nó có tên như vậy?
29 Tháng Sáu 2011(Xem: 13729)
Biểu tượng quốc gia của Mỹ, Tượng Nữ Thần Tự Do chào mừng những người đói nghèo và kiệt sức, những người đã bị chính quê hương mình từ chối, những kẻ vô gia cư, những người bị dập vùi sau cơn bão tố! Thế rồi, sau đó chính họ là những người đã xây dựng nên nước Mỹ của ngày hôm nay!
28 Tháng Sáu 2011(Xem: 14577)
Chính sách "cho đi rồi lấy lại" (Give and Take policy) của Mỹ đã được áp dụng rộng rãi trong các vấn đề đối nội và đối ngoại. Và hầu như khi nào Mỹ cũng áp dụng chính sách "Give and Take
24 Tháng Sáu 2011(Xem: 17234)
So với tư cách một vài trường hợp của những vị tướng khác, những vị tướng trong hàng trí thức, xuất thân từ những trường võ bị, nhưng vị thì chết vì thượng mã phong, hay vị thì chỉ được biết vì thành tích đoạt người yêu của thuộc cấp hoặc cướp vợ của bạn, thì Lê Quang Vinh, xét cho cùng, quả thật xứng đáng được vinh danh là một Tướng, một loạn tướng anh hùng.
19 Tháng Sáu 2011(Xem: 15092)
Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, sống đời lưu vong, nhưng ngày đêm vẫn vọng tưởng Cố Hương, vẫn nhớ tiếc về những năm tháng của một thuở đã xa, mà lòng rưng rưng, mà tim quặn thắt; bởi chỉ còn biết tìm lại qua những câu hát, lời thơ của một thời đã mất:
14 Tháng Sáu 2011(Xem: 14151)
Do đó chữ thần tượng ở đây không phải trong ý hướng thần thánh hóa, mà thần tượng vì con người đơn giản bình dị của Ngài đã ban cho mỗi chúng ta lòng hoan hỷ vô biên khi được sống bên Ngài
09 Tháng Sáu 2011(Xem: 13075)
Đối với chúng ta, những người Việt Nam, tên tuổi Eiffel sẽ mãi mãi được ghi nhớ không chỉ như một công trình sư lỗi lạc đã để lại cho nhân loại những kỳ đài kiệt tác, mà còn là cha đẻ của những công trình đã trở thành dấu ấn ba miền của đất nước
09 Tháng Sáu 2011(Xem: 19918)
hoàn thành cây cầu bắc ngang qua sông Hậu Giang trong năm 2010 mới đây, không sao có thể bù đắp được sự mất mác những di sản văn hóa nêu trên. Những di sản nầy vốn đã in sâu trong ký ức của người Cần Thơ và không bao giờ nhạt phai trong lòng cư dân các tỉnh Miền Tây.
04 Tháng Sáu 2011(Xem: 13956)
Hạnh phúc không phải do tìm kiếm là có được, mà phải do ta tạo ra...
04 Tháng Sáu 2011(Xem: 13668)
“Chúng ta có xem rẻ mạng sống của người Phi châu hơn mạng sống của chúng ta không? Bill và tôi cho rằng không có sinh linh nào mang giá trị hơn hay kém so với sinh linh khác. Chính sự công bằng này là lý do để quỹ từ thiện của chúng tôi hoạt động”
01 Tháng Sáu 2011(Xem: 14184)
Từ những chiếc lá mỏng manh, đơn giản, con người cũng có thể tạo nên những kiệt tác nghệ thuật. Quả thật, óc sáng tạo và tài năng của con người là không có giới hạn, hãy cùng chiêm ngưỡng những tác phẩm kỳ diệu này nhé!
29 Tháng Năm 2011(Xem: 14881)
Một Khoa Học Gia Gốc Việt, Tiến Sĩ Định Nguyễn, hiện là Trưởng Công Trình Nghiên cứu Chế tạo loại Vũ khí mới mang tên Free Electron Laser (FEL). Đây là loại Vũ khí mới để phá huỷ Hoả Tiễn tấn công của đối phương, kể cả Hoả Tiễn DF-21D của Trung Cộng
29 Tháng Năm 2011(Xem: 14642)
Sự tính toán chính xác ảnh hưởng của chăn nuôi đối với môi trường là cơn ác mộng toán học. Và dù tính chi li hay xuê xoa, dù chỉ là 5-10%, hoặc lên tới 50% lượng khí làm Trái đất nóng lên, thì ngành chăn nuôi vẫn thuộc loại hình hoạt động làm hủy hoại môi trường lớn nhất.
28 Tháng Năm 2011(Xem: 13924)
Ba triệu người Việt lưu vong là ba triệu trái tim nồng nàn vẫn yêu thương Việt Nam và thắp sáng mãi Sàigòn Hòn Ngọc Viễn Đông nay thắp sáng ở xứ người. Sàigòn đã ra đi và tương lai sẽ có lúc, Sàigòn trở lại, như một Châu Về Hiệp phố. Sàigòn khi ấy sẽ rực sáng tin yêu của Tự Do, Dân Chủ và Phú Cường.
26 Tháng Năm 2011(Xem: 13040)
Hãy quên đi chuyện cướp những máy bay, bởi vì, ông nói,những tên khủng bố sẽ không bao giờ cướp máy bay nữa, vì chúng biết rằng người trên phi cơ sẽ không khoanh tay và sẽ chống cự.. Aviv tin rằng an ninh phi trường hiện nay lỏng lẻo,chúng ta đã chỉ phản ứng thay vì đóng góp để kiện toàn hệ thống chông khủng bố hửu hiệu.
25 Tháng Năm 2011(Xem: 13149)
Bất cứ người dân nào cũng tò mò muốn biết: Chiếc VLHN của Mỹ có hình dạng như thế nào? Và bên trong nó có chứa đựng những gì? Thành phần và nguyên tắc hoạt động của chiếc VLHN luôn là bí mật
24 Tháng Năm 2011(Xem: 12948)
22 Tháng Năm 2011(Xem: 13449)
Đến nay thì 4 chiếc ấn, không biết ở đâu, ai giữ, nhưng theo Tô Vũ nghĩ thì chắc chắn ở trong tay của bọn cộng sản. Tuy nhiên cũng có tin đồn rằng Hoàng đế Bảo Đại giữ một chiếc bảo ấn bằng vàng
18 Tháng Năm 2011(Xem: 12883)
Họ tưởng tượng chiến tranh có thể kết thúc nhanh hơn. Rõ ràng, nếu chúng tôi nghỉ ra cách có thể kết thúc cuộc chiến tranh sớm, thì chúng tôi đã làm điều đó rồi
17 Tháng Năm 2011(Xem: 12831)
Chánh Án Jacqueline Nguyễn vừa được Thị Trưởng Antonio Villaraigosa và HĐTP Los Angeles vinh danh vào lúc 10 giờ sáng Thứ Sáu, 13 Tháng Năm, trong một buổi lễ tổ chức tại Phòng Thương Mại Los Angeles
15 Tháng Năm 2011(Xem: 14167)
Nghệ thuật “vẽ tranh” độc đáo trên cánh đồng lúa Nhật Bản Kể từ năm 1993, năm nào người dân làng Inakadate ở Nhật Bản cũng tạo những bức tranh tuyệt đẹp trên cánh đồng lúa, nhằm thu hút khách du lịch.
12 Tháng Năm 2011(Xem: 14131)
Người Mỹ đã sử dụng máy bay lên thẳng “tàng hình” trong chiến dịch bí mật đột kích tiêu diệt Bin Laden? Các mảnh vỡ còn sót lại của chiếc máy bay bị trục trặc cho thấy đây là loại máy bay lên thẳng khác hoàn toàn với các loại thông thường.
12 Tháng Năm 2011(Xem: 12928)
Hoa Kỳ sẽ đưa ra một hệ thống báo động công cộng mới sẽ thông báo cho các điện thoại di động trong trường hợp xảy ra một tình huống khẩn cấp. Hệ thống này được bắt đầu đưa vào sử dụng tại các thành phố New York và Washington DC và sẽ hoạt động trên toàn quốc chậm nhất là vào tháng Tư năm 2012.
12 Tháng Năm 2011(Xem: 12855)
Tập đoàn Boeing của Mỹ hôm 5/5 tuyên bố đã thử thành công máy bay ném bom tàng hình không người lái Phantom Ray tại căn cứ quân sự Edwards ở California vào ngày 27/4 vừa qua.
11 Tháng Năm 2011(Xem: 13120)
Ngũ GiÁc Đài đã đề nghị họ phát triển một mẫu máy bay hình chim có thể bỏ vừa trong túi quần để phục vụ việc do thám và trinh sát. Họ nói rằng, chiếc máy bay có thể giống một con chuồn chuồn hay chim ruồi.
08 Tháng Năm 2011(Xem: 13663)
Bí mật của chiếc máy đọc ý nghĩ này là một thể hình trụ nhỏ được cấy vào trong não con người, cài sẵn chương trình có khả năng nhận biết được những sóng não do não bộ tạo ra khi con người nghĩ đến một điều gì! Các nhà khoa học tin rằng thành công của nghiên cứu có thể ứng dụng cho những người bị tổn thương não.
08 Tháng Năm 2011(Xem: 14318)
Chuyển tiếp đến quý vị nào thích NGHIÊN CỨU tìm hiểu về Kinh tế thì đọc bài nầy mới thấy hay.
05 Tháng Năm 2011(Xem: 12267)
Bài viết và hình ảnh tổng hợp cập nhật, Biệt Kích Hải Quân Hoa Kỳ hoàn thành sứ mạng diệt tên khủng bố Bin Laden.. Xin mời Quý Vị theo dỏi…
24 Tháng Tư 2011(Xem: 29572)
Những hình ảnh và chú thích, hướng dẩn đến mộ phần của Cố Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM và thân nhân. Xin mời Quý Vị xem, phổ biến, giúp tài liệu cho những ai có lòng và cơ hội, muốn đến thăm nơi an nghĩ cuối cùng của Cố Tổng Thống và thân nhân.
22 Tháng Tư 2011(Xem: 15796)
Với mục đích ngăn chặn nạn làm giả, đồng 100 USD được thiết kế lại với nhiều họa tiết khó bắt chước hơn. Dự kiến, đồng tiền này sẽ chính thức được đưa ra lưu thông từ ngày 10/2/2011.
13 Tháng Tư 2011(Xem: 13259)
kho vàng của CDTLB New York được cho là kho vàng lớn nhất thế giới, nơi lưu trữ khoảng 1/4 trữ lượng vàng của thế giới. Hai trăm năm trước, danh hiệu này thuộc về ngân hàng Trung ương của Anh. Nhưng sau khi đế quốc Anh bước vào giai đoạn thoái trào và buộc phải bán vàng, nước Mỹ đã trở thành người mua lớn nhất của Anh, và kho chứa vàng của Anh giờ chỉ là kho chứa đồ