5:10 CH
Thứ Tư
17
Tháng Tư
2024

Louis Pasteur (1822 – 1895) Vị Ân Nhân Của Nhân Loại - Phạm văn Tuấn

14 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 12989)


1. Chữa trị bệnh chó dại

Sáng ngày thứ Hai, 6 tháng 7 năm 1885, em trai 9 tuổi tên là Joseph Meister cùng với mẹ tới phòng thí nghiệm của Giáo Sư Louis Pasteur. Em Joseph đã bị một con chó dại trong làng cắn 14 vết vào tay, đùi và chân. Nếu không được chữa trị đúng cách, em trai này sẽ chết trong vài tuần lễ.

Em Joseph không phải là người đầu tiên bị chó dại cắn. Kể từ năm 1885 trở về trước, không hề có một phương thuốc nào chữa trị bệnh chó dại cả. Các bác sĩ thời đó chỉ biết dùng một loại axít mạnh đổ vào vết thương nhưng cách chữa này không hiệu quả. Mẹ của em Joseph được khuyên nên đưa em trai này về thành phố Paris, cách xa hàng trăm dậm.

blank

Tại phòng thí nghiệm, Giáo Sư Pasteur lắng nghe kể về bệnh trạng của em Joseph. Hai vị bác sĩ điều trị trình bày cho Giáo Sư biết em trai Joseph chắc chắn sẽ chết vì nhiễm độc và sau mỗi giờ trôi qua, chất độc vẫn lan tràn qua cơ thể của em. Em Joseph cần được điều trị gấp.

Gần đây, nhà bác học Pasteur mới thử cách điều trị bệnh dại. Ông đã chích một liều độc chất của bệnh dại được làm cho yếu đi vào các con chó khỏe mạnh và các con vật này không cho thấy dấu hiệu bị bệnh dại. Rồi qua nhiều tuần lễ, Giáo Sư Pasteur dùng các liều độc chất mạnh hơn và các con chó thí nghiệm không những có thể qua khỏi liều bệnh dại mạnh nhất mà còn có thể không mắc bệnh dại khi bị chó dại khác cắn.

Điều khám phá của Giáo Sư Pasteur cho thấy rằng có thể phòng ngừa cho một người trước khi bị chó dại cắn, nhưng sau khi người đó đã bị nhiễm độc vì bệnh dại, thì cách điều trị kể trên có còn hữu hiệu không? Trước sự việc em Joseph Meister đã bị chó dại cắn, cách chữa trị này liệu sẽ giúp ích cho em nhỏ hay sẽ giết em nhỏ này? Chính các vị phụ tá của Giáo Sư Pasteur cũng cho rằng phương pháp chữa trị bằng cách chích liều độc chất quá nguy hiểm nhưng cuối cùng, Giáo Sư Pasteur quyết định rằng đó là cách duy nhất dùng để cứu sống em Joseph.

Chiều ngày 6-7-1885, em Joseph Meister nhận mũi chích đầu tiên. Trong 10 ngày kế tiếp, em nhận thêm mỗi ngày một liều chích với độ mạnh của độc chất tăng dần và nhà khoa học Pasteur đã để em Joseph nghỉ ngơi tại một nơi tiện nghi. Mỗi ngày, ông quan sát cẩn thận em này để nhận biết từng dấu hiệu của bệnh dại và cuối cùng, các vết thương đã lành, em Joseph Meister thoát khỏi chứng điên dại do chó dại truyền qua. Giáo Sư Pasteur đã tin rằng nếu em Joseph Meister không được miễn dịch bằng phương pháp chích ngừa kể trên thì các lần chích độc chất sau này càng làm sớm phát hiện bệnh dại.

Sau trường hợp của em Meister, tới em chăn cừu thuộc miền Jura tên là Jean Baptiste Jupille. Em Jean này đã bị chó dại cắn do bảo vệ các em nhỏ khác. Sáu ngày sau, vào ngày 20-8-1885, em thứ hai này cũng nhận được thuốc chích của nhà khoa học Pasteur và kết quả rất tốt đẹp.

Tin tức về cách chữa trị bệnh chó dại đã được loan đi khắp nơi và rất nhiều nạn nhân đã tới phòng thí nghiệm của Giáo Sư Louis Pasteur. Tới năm 1886, 2,500 người đã được tiêm chích vì bệnh chó dại. Thế nhưng vẫn có nhiều người chỉ trích nhà bác học Pasteur vì cũng có một số người bị chết, dù rằng đã được chích ngừa. Nguyên do tử vong vì những người này đã tới quá trễ phòng thí nghiệm của nhà bác học Pasteur.

Cách chữa trị bệnh chó dại của nhà bác học Pasteur đã cứu sống được 99.5 phần trăm nạn nhân khiến cho Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp phải cử ra một ủy ban cứu xét và theo đề nghị của ủy ban này, phải tạo ra các ngân khoản tư để lập nên một viện nghiên cứu gọi tên là Viện Pasteur và Viện này đã được khánh thành vào ngày 14-11-1888 tại thủ đô Paris.

blank

2. Thuở thiếu thời của Louis Pasteur

Tuổi trẻ của Louis Pasteur đã không cho thấy các dấu hiệu của một nhà khoa học, một nhà khảo cứu tìm hiểu về các bí ẩn căn bản của đời sống con người. Khi lên 13 tuổi, Louis Pasteur là một cậu bé có tài về hội họa với các bức chân dung bà mẹ và các người chị, các bức vẽ giòng sông chảy gần nhà. Louis Pasteur ra đời vào ngày 27-12-1822 tại Dôle, một tỉnh nhỏ nằm bên giòng sông Doubs, trong một căn nhà nhỏ trên đường “Các thợ thuộc da” (Rue des Tanneurs). Cha của Louis là ông Jean Pasteur, trước kia là một trung sĩ trong đạo quân của Hoàng Đế Napoléon Bonaparte, nay làm thợ thuộc da. Năm 1827, ông Jean Pasteur đem gia đình dọn qua tỉnh Arbois và căn nhà mới ở gần giòng sông Cuisance và sau nhà là một hố lớn để ngâm các bộ da bò và da cừu.

Trong thời gian theo bậc trung học, Louis Pasteur đã không tỏ ra là một học sinh xuất sắc nhưng lại là một con người kiên nhẫn với thói quen làm việc cần mẫn. Hai năm trước khi tốt nghiệp trung học, Louis Pasteur được ông hiệu trưởng Romanet khuyên nên thi vào Trường Cao Đẳng Sư Phạm (Ecole Normale Supérieure), một ngôi trường danh tiếng chuyên đào tạo các giáo sư về Khoa Học, Lịch Sử, Văn Chương và Nghệ Thuật.

Mùa thu năm 1838, khi 15 tuổi, Louis Pasteur đã cùng với người bạn tên là Jules, lên xe ngựa để đi Paris, cách Arbois 250 dậm (400 km). Sống trong một ký túc xá tại Paris, Louis cảm thấy quá nhớ nhà nên một tháng sau, ông Jean Pasteur phải lên Paris, đón con trở về. Louis Pasteur tiếp tục học trung học tại Arbois rồi theo Đại Học Besancon cách nhà 25 dậm (40 km). Vào thời gian này, cậu Louis nổi tiếng về vẽ chân dung nhưng cậu vẫn không quên ước mơ thi vào Trường Cao Đẳng Sư Phạm.

Tháng 8 năm 1842, Louis Pasteur tốt nghiệp đại học Besancon với các hạng ưu về vật lý, toán học và tiếng La Tinh rồi thi đậu vào Trường Cao Đẳng kể trên, với hạng 15 trên tổng số 22 sinh viên được tuyển chọn trên toàn nước Pháp. Louis đã không vừa lòng với kết quả này nên đã từ chối, không theo học và đây là một điều khác biệt với các sinh viên cùng lứa tuổi. Năm sau, 1943, trong kỳ dự tuyển lần thứ hai, Louis Pasteur đứng hạng 4, theo học phân khoa Khoa Học để sau này trở nên một giáo sư về Vật Lý và Hóa Học.

Vào thời kỳ này, Paris là nơi cung cấp các cơ hội học hành tốt đẹp nhất cho giới thanh niên, và các sinh viên ưa thích các bài giảng của Jean Baptiste Dumas, một Giáo sư Hóa Học danh tiếng. Louis Pasteur đã viết thư về cho gia đình, cho biết: “rất đông sinh viên tới nghe các buổi diễn giảng của Giáo Sư Dumas. Giảng đường rất lớn mà luôn luôn hết chỗ. Chúng tôi phải đến trước nửa giờ để chiếm chỗ ngồi tốt, như thể trong rạp hát…”. Ngoài Giáo Sư Dumas, các sinh viên còn mến phục các nhà khoa học khác như nhà vật lý Jean Baptist Biot, nhà hóa học Antoine Jerome Balard…

Năm 1845, Louis Pasteur là một trong bốn sinh viên tốt nghiệp và các giáo sư giảng dạy đã ghi chú về Pasteur như sau: “… sẽ trở nên một giáo sư xuất sắc”. Sau đó Louis Pasteur chỉ xin được một việc làm tại phòng thí nghiệm của Giáo Sư Balard và bắt đầu nghiên cứu về bản chất của các tinh thể (crystals).

Vào đầu thế kỷ 19, giáo sư Biot đã khám phá thấy rằng các tinh thể của vật chất có đặc tính làm lệch tia sáng chiếu đến, và có loại làm lệch qua bên phải, lại có loại làm lệch qua bên trái. Louis Pasteur bắt đầu khảo sát một loạt các hợp chất gọi là axít tartaric và các muối tartrate. Có hai loại tinh thể axít tartaric được tạo thành bên trong thùng rượu nho khi nước nho lên men, thế nhưng đã có một bí ẩn vì một loại dung dịch axít kể trên làm lệch ánh sáng trong khi loại thứ hai không có đặc tính đó. Sau cả ngàn lần quan sát qua kính hiển vi, Louis Pasteur đã nhận ra rằng trong số các mặt nhỏ của hai loại tinh thể axít tartaric, chỉ có một mặt nhỏ khác nhau về độ dốc. Khám phá mới của Louis Pasteur đã là căn bản cho một thứ hóa học mới của thời kỳ bấy giờ, đó là “ngành hóa học ba chiều” (stereo chemistry).

Tháng 1 năm 1849, sau khi tốt nghiệp văn bằng Tiến Sĩ Khoa Học, Louis Pasteur nhận chức vụ giảng sư về hóa học tại trường Đại Học Đường Strassbourg và vào tuổi 26, Louis Pasteur quen cô Marie Laurent, ái nữ của vị viện trưởng đại học. Họ cử hành hôn lễ vào ngày 29-5-1848 và từ đây, bà Marie đã lo lắng mọi công việc gia đình, để chồng chuyên tâm nghiên cứu Khoa Học. Tại Strassbourg, 3 trong 5 người con đã ra đời: cô gái Jeanne sinh năm 1850 rồi một năm sau là người con trai Jean Baptiste và hai năm sau nữa là cô gái Cécile.

blank

3. Nghiên cứu vi trùng

Vào tháng 9 năm 1954, Louis Pasteur được Bộ Trưởng Giáo Dục Pháp bổ nhiệm làm Giáo Sư Hóa Học và Khoa Trưởng Khoa Học tại Đại Học Lille. Đây là một ngôi trường mới được thành lập tại trung tâm kỹ nghệ rất giàu có thuộc miền bắc của nước Pháp. Louis Pasteur với tuổi 32, đã được giao trọng trách là giáo dục các sinh viên làm sao đáp ứng được các nhu cầu thực tế của địa phương. Giáo Sư Pasteur đã khởi đầu một quan niệm giáo dục rất tiến bộ đối với thời bấy giờ, đó là lập ra các lớp học buổi tối dành cho các công nhân trẻ của thành phố kỹ nghệ, đồng thời ông cũng dẫn các sinh viên ban ngày đi thăm viếng các nông trại và các nhà máy lớn. Pasteur đã từng nói: “không có hai loại Khoa Học mà chỉ có Khoa Học và các áp dụng của Khoa Học. Hai thứ này liên kết với nhau như trái cây mọc ra từ cành cây”.

Tại vùng Lille, có rất nhiều nhà máy nấu rượu. Người ta đã cho men vào nước nho và sau tiến trình lên men, nước nho trở thành rượu chát. Nhưng vào thời kỳ đó, không ai biết rõ tại sao đã có những biến đổi này. Các nhà khoa học chỉ nói về tiến trình lên men là “lạ lùng và còn bí ẩn”.

Vào một ngày mùa hè năm 1856, ông Bigo là chủ của một lò nấu rượu đã tới trường đại học, thăm viếng Giáo Sư Pasteur. Ông Bigo đã trình bầy rằng một dung dịch củ cải đường thường được chuyển thành rượu nhưng lần này, nó đã trở thành dấm chua. Các nhà sản xuất rượu khác cũng báo cáo cùng một trở ngại và đây là một điều xấu cho nền kỹ nghệ trong vùng bởi vì sự lên men dấm đã gây thiệt hại hàng ngàn quan tiền trong một ngày. Không ai biết rõ nguyên do đã sinh ra sự lên men rượu, tại sao rượu trở thành dấm chua. Ông Bigo hi vọng rằng vị Giáo Sư Pasteur dạy người con trai của ông, sẽ cho các lời khuyên. Vì vậy Louis Pasteur đã tới thăm nhà máy nấu rượu và đã lấy các mẫu dung dịch của cả loại tốt lẫn loại đã bị hư hỏng.

Qua kính hiển vi, Louis Pasteur nhận thấy rằng các tế bào men rượu (ferments) ở dạng hình tròn rất nhỏ, nhưng trong dung dịch bị hư hỏng, các tế bào tròn đó đã bị các tế bào hình que lấn át. Louis Pasteur gọi các tế bào men rượu là “wee germs” (vi trùng) (sau này được gọi là các vi sinh vật = microorganisms). Ông nhớ lại công trình khảo cứu của nhà khoa học Charles Cagniard-Latour theo đó các tế bào men rượu đã sinh sản bằng cách mọc mầm (budding). Pasteur đặt giả thuyết rằng nếu các tế bào này sinh sản được thì chúng có sự sống và đã sống nhờ đường trong dung dịch củ cải đường và biến dung dịch này thành rượu. Louis Pasteur đã cấy men trong nhiều loại dung dịch đường và đã nhìn thấy qua kính hiển vi các tế bào men rượu sinh sôi nẩy nở, ngay cả trong một môi trường nhân tạo thiếu khí oxygen, quan niệm này trở thành “hiệu ứng Pasteur” (the Pasteur effect).

Khi nghiên cứu về dung dịch sữa là thứ dễ bị hư hỏng, Louis Pasteur cũng thấy sữa trở thành chua khi có nhiều loại tế bào hình que, loại đã thấy trong dung dịch củ cải đường bị hư hỏng của ông Bigo. Do sự khám phá của mình, Giáo Sư Pasteur đã khuyên các nhà nấu rượu nên dùng kính hiển vi để khám xét các thùng rượu đang lên men.

Năm 1857, sau hai năm khảo cứu về dung chất củ cải đường, ông Pasteur phổ biến một báo cáo về sự lên men theo đó có hai loại men, một loại có ích đã biến dung dịch củ cải đường thành rượu và một loại có hại, hình que, chỉ dài bằng 0.001 mm. Báo cáo về sự lên men do các vi sinh vật gây nên, đã tạo ra một cơn bão phản đối trong giới khoa học vì một số nhà khoa học thời đó tin rằng sự lên men là do phản ứng giữa các chất thành phần. Nhiều nhân viên của Hàn Lâm Viện cũng không chấp nhận các chứng cớ nêu ra. Tuy thế, Giáo Sư Louis Pasteur vẫn tiếp tục nghiên cứu.

Cuối năm 1857, Louis Pasteur được gọi về Trường Cao Đẳng Sư Phạm tại thủ đô Paris và làm giám đốc khảo cứu khoa học. Vào thời gian này, Louis Pasteur đã gặp các khó khăn mà các nhà khoa học đương thời cùng phải chịu đựng: phòng khảo cứu không được trang bị đầy đủ dụng cụ, không có ngân khoản và các tiện nghi khác. Ông Pasteur phải dùng tiền riêng của mình để biến đổi hai phòng trên lầu của nhà trường thành một nơi khảo cứu. Louis Pasteur tìm cách bác bỏ lý thuyết về sự sinh sản tức thời (spontaneous generation). Ông tin rằng trong không khí có các vi trùng, vì vậy ông đã nghĩ ra một cách thí nghiệm theo đó dung dịch nước đường được đun sôi và chứa trong hai bình thủy tinh khác nhau, một bình được gắn kín còn bình kia để mở ra không khí. Sau vài ngày, dung dịch trong bình thông với không khí đã bị hư hỏng, trái với dung dịch kia. Louis Pasteur cũng làm thí nghiệm với các loại dung dịch khác như sữa, nước canh… và đã chứng minh được rằng vi trùng từ bên ngoài không khí xâm nhập vào các dung dịch. Nhưng các nhà khoa học phản đối vẫn cho rằng việc gắn kín bình đã làm ngưng lại sự sinh sản tức thời.

Ông Pasteur bèn nghĩ thêm một cách khác, dùng tới loại bình chứa dung dịch có cổ dài uốn theo hình chữ S nhờ đó dung dịch bên trong vẫn tiếp xúc với không khí mà không bị bụi chứa vi trung xâm nhập. Louis Pasteur còn khảo sát ảnh hưởng của không khí có chứa vi trùng tại nhiều địa điểm như trong hầm rượu, trên đồi miền Arbois và trên miền núi cao Mont Blanc. Chính vào thời kỳ ông Pasteur bận tâm khảo cứu thì người con gái đầu lòng của ông tên là Jeanne mắc bệnh sốt thương hàn và qua đời vào tháng 9 năm 1859.

Tháng 11 năm 1860, Giáo Sư Louis Pasteur báo cáo trước Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp về các kết quả thí nghiệm của mình theo đó, bụi trong không khí là nguyên do làm hư hỏng các dung dịch. Louis Pasteur đã nghĩ ra một phuong pháp làm sạch vi trùng mà ngày nay được gọi là cách khử trùng Pasteur (pasteurization). Nhờ phương pháp này, các thực phẩm có thể lưu trữ được lâu hơn và được chuyên chở mà không bị hư thối.

Ngày 8-12-1862, Louis Pasteur được bầu vào Hàn Lâm Viện Khoa Học, một danh dự cao quý nhất của các nhà khoa học người Pháp. Các công trình nghiên cứu của ông Pasteur đã mở đường cho nhiều sinh viên và nhà khoa học khác tìm kiếm các vi trùng tại các phạm vi khác nhau.

4. Nghiên cứu về các bệnh truyền nhiễm

Do yêu cầu của Bộ Trưởng Canh Nông, Giáo Sư Dumas đã khẩn khoản nhờ ông Louis Pasteur xuống miền Nam nước Pháp để nghiên cứu về bệnh tầm, một bệnh dịch đang tàn phá nền kỹ nghệ tơ lụa của địa phương. Miễn cưỡng phải nhận lời, nhà khoa học Pasteur đã ra đi cùng với người học trò giỏi nhất là Emile Duclaux và vài sinh viên khác. Nhóm nhà nghiên cứu này cư ngụ tại làng Alais.

Louis Pasteur đã tìm đọc tất cả các tài liệu viết về con tầm, cách nuôi tầm cũng như dùng kính hiển vi để quan sát các mầm bệnh đã giết hại loài tầm. Ông đã làm việc không ngừng trong khi hoàn cảnh gia đình của ông gặp các bất hạnh liên tục: ông Jean Pasteur qua đời rồi tới lượt người con gái Camille, 2 tuổi, thiệt mạng vào tháng 9-1865 vì bệnh sốt thương hàn. 10 tháng sau tới lượt người con gái Cécile, 13 tuổi, cũng chết vì bệnh sốt kể trên. Do bị căng thẳng và buồn phiền, ông Pasteur đã bị tai biến mạch máu não vào đêm 19-10-1868. Nhiều người đã tưởng nhà bác học qua đời, thế nhưng chỉ 3 tháng sau, mặc dù bị liệt một phần thân thể, Giáo Sư Pasteur vẫn trở lại với các công trình nghiên cứu.

Năm 1870, Louis Pasteur cho phổ biến một báo cáo về bệnh tầm do một loại vi trùng ký sinh. Ông đã chỉ dẫn cách tìm ra các con tầm mắc bệnh và cách dùng loại trứng tầm tốt để tạo nên các con tầm khỏe mạnh, và phương pháp này đã được các nhà chăn nuôi khắp châu Âu xử dụng. Cũng vào năm này, bùng nổ cuộc chiến tranh giữa nước Pháp và nước Phổ khiến cho ông Pasteur phải rời khỏi thành phố Paris. Ông trở lại nơi này vào cuối năm 1871, khi chiến tranh chấm dứt với các bệnh viện tràn ngập các binh sĩ bị thương. Nhà bác học Pasteur vì vậy đã nghiên cứu các vết thương và đã khuyên các bác sĩ phải chú tâm về vấn đề vệ sinh khi chữa trị bệnh nhân.

Mấy năm về trước tại xứ Tô Cách Lan, Giáo Sư về khoa Giải Phẫu Joseph Lister của Đại Học Đường Edinburgh, đã đọc các luận chứng của Louis Pasteur về vi trùng rồi tìm hiểu nguyên do các bệnh nhân bị nhiễm trùng. Từ năm 1867, ông Joseph Lister đã dùng dung dịch axít carbolic để khử trùng các dụng cụ y khoa, các vết thương và các bàn tay của bác sĩ giải phẫu nhờ đó đã làm giảm số tử vong của các bệnh nhân được 97 phần trăm. Năm 1874, trong bức thư gửi cho Louis Pasteur, Joseph Lister xác nhận rằng nhờ lý thuyết về vi trùng của nhà bác học người Pháp mà ông đã thực hiện được hệ thống diệt trùng (antiseptic system).

Louis Pasteur không phải là một bác sĩ y khoa nhưng các khảo cứu của ông về vi trùng, về các bệnh truyền nhiễm đã khiến cho nhà bác học được bầu vào Hàn Lâm Viện Y Học của nước Pháp vào năm 1873. Nhà bác học Pasteur lại có các phụ tá trẻ tuổi tài giỏi: bác sĩ Jules-Francois Joubert, bác sĩ Emile Roux và bác sĩ Charles Chamberland… và phòng nghiên cứu của ông vẫn tìm kiếm nhiều phương pháp kiểm soát các vi trùng gây bệnh.

Sau 20 năm nghiên cứu, các khám phá về vi trùng và bệnh truyền nhiễm của Louis Pasteur đã được phổ biến qua tác phẩm “Lý thuyết về vi trùng và áp dụng trong Y Khoa và Giải Phẫu” (The Germ Theory and its Application to Medicine and Surgery). Tác phẩm này cắt nghĩa sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm và từ nay, các nhà khoa học bắt đầu tìm hiểu về các bệnh dịch như đậu mùa, dịch tả…

Vào thời kỳ đó, tại miền đông của nước Phổ có bác sĩ Robert Koch đang tìm hiểu nguyên nhân gây ra bệnh than, một thứ bệnh giết hại rất nhiều cừu và các gia súc khác. Tháng 4 năm 1876, bác sĩ Kock đã dùng kính hiển vi, tìm ra loại vi trùng gây bệnh than, được đặt tên là “bacillus anthracis”. Như vậy bác sĩ Koch đã chứng minh lý thuyết về vi trùng của nhà bác học Pasteur.

Năm 1878, Louis Pasteur khởi đầu nghiên cứu vi trùng gây ra bệnh dịch tả gà (chicken cholera). Nhà bác học đã nuôi vi trùng trong nước dùng gà (chicken broth) rồi dùng các liều độc chất từ yếu đến mạnh chích dần vào các con gà và đã thấy cơ thể gà chống cự được sự xâm nhập của vi trùng. Louis Pasteur đã gọi phương pháp này là chủng ngừa (vaccination) và ngày nay, kỹ thuật miễn dịch (technique of immunization) của nhà bác học vẫn còn được xử dụng.

Luôn luôn nhà bác học Pasteur muốn chia xẻ các khảo cứu và khám phá của mình với các nhà khoa học khác. Năm 1881, Louis Pasteur thuyết trình về phép chủng ngừa trước Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp thế nhưng, ông vẫn gặp các nghi ngờ và chống đối. Một số người thắc mắc làm sao một nhà hóa học lại hiểu rõ về các bệnh tật của súc vật. Viên chủ nhiệm tạp chí Thú Y (the Veterinary Journal) đề nghị một công cuộc thử nghiệm công khai về thuốc chủng ngừa bệnh than (anthrax vaccine). Louis Pasteur nhận lời.

Vào ngày 31-5-1881 tại nông trại Pouilly-le-Fort thuộc vùng Melun gần thủ đô Paris, các nông gia, các bác sĩ thú y, các nhà khoa học và nhân viên chính phủ đã chứng kiến Louis Pasteur cùng các cộng sự viên là Roux, Chamberland và Louis Thuillier chích ngừa nhóm 1 gồm 25 con cừu bằng các liều thuốc chủng từ yếu đến mạnh, còn nhóm thứ 2 cũng gồm 25 con cừu, được nuôi riêng để kiểm chứng. Sau đó, cả 50 con cừu đều được chích bằng liều vi trùng bệnh than cực mạnh. Kết quả là 25 con cừu của nhóm 2 đã chết và nhóm 1 đã được chủng ngừa không bị ảnh hưởng. Sự thành công thực là rực rỡ. Như vậy nhà bác học Pasteur đã khám phá ra một thứ võ khí hữu hiệu để chống lại một số bệnh truyền nhiễm.

Tới cuối thập niên 1870, Louis Pasteur lại nghiên cứu về bệnh chó dại (rabies). Đây là một trong các bệnh khủng khiếp của nhân loại với hình ảnh các con chó điên, miệng sùi bọt, tấn công các người qua đường. Bằng các phương pháp tương tự khảo cứu về bệnh dịch tả gà, nhà bác học Pasteur đã không tìm ra được vi trùng bệnh chó dại trong máu của các con chó và thỏ mắc bệnh.

Vào thời kỳ đó, các nhà khoa học như Pasteur chưa biết rằng các bệnh như bệnh than, bệnh dịch tả gà là do vi trùng (bacteria) nên có thể nhận ra qua kính hiển vi, còn nguyên nhân gây nên bệnh chó dại là các vi khuẩn (virus), chỉ nhìn thấy được bằng các kính hiển vi cực mạnh mà các nhà khoa học thuộc cuối thế kỷ 19 chưa có. Thế nhưng, do thấy người mắc bệnh chó dại bị co giật, Louis Pasteur đã cho rằng bộ óc và hành tủy (medulla oblongata) là nơi trú ẩn của các vi trùng bệnh chó dại. Nhà bác học Pasteur sau đó đã tìm ra loại thuốc chủng nhưng chưa có cơ hội áp dụng, cho tới ngày 6-7-1885, liều thuốc chủng đầu tiên của Louis Pasteur đã cứu sống em Joseph Meister.

blank

5. Di sản của nhà bác học Louis Pasteur

Vào năm 1888, một ủy ban khoa học độc lập đã trắc nghiệm thuốc chủng ngừa bệnh chó dại của Louis Pasteur và xác nhận thứ thuốc này an toàn. Một nhân viên trong ủy ban đã viết: “chúng tôi tin tưởng vào giá trị của khám phá do ông Louis Pasteur, và khám phá này còn có thể áp dụng cho các bệnh tật khác”.

Sau đó, Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp cổ động một chương trình gây quỹ để thành lập một viện nghiên cứu. Mọi người trên toàn thế giới đã gửi tới các đóng góp. Ngày 14-11-1888, Viện Pasteur được mở cửa để phục vụ cho sức khỏe công cộng và nhà bác học Pasteur đã mời nhiều nhà khoa học thuộc các bộ môn khác cùng nhau nghiên cứu. 15 bác sĩ và khoa học gia đã cộng tác với Viện Pasteur. Giáo Sư Pasteur cũng huấn luyện một số nhà khảo cứu trẻ, đáng kể là bác sĩ Roux và bác sĩ Alexandre Yersin đã tìm ra độc tố và cách chữa trị bệnh yết hầu (diphtheria), một căn bệnh đã giết hại hàng ngàn trẻ em mỗi năm, và một vị phụ tá xuất sắc nhất của Louis Pasteur là Elie Metchnikov đã phát hiện ra các cách cơ thể chống lại vi trùng, rồi nghiên cứu về tính miễn nhiễm.

Ngày 27-12-1892, các nhà khoa học thuộc nhiều quốc gia đã họp mặt tại Đại Giảng Đường của Trường Đại Học Sorbonne ở Paris để kỷ niệm lần sinh nhật thứ 70 của Louis Pasteur. Nhà bác học Pasteur vì bị liệt nửa người bên trái, được Tổng Thống Pháp Sadi Carnot dìu vào Hội Trường. Rất nhiều nhân vật lừng danh trên thế giới đã lên tiếng ca ngợi ông Louis Pasteur, kể cả Giáo Sư Joseph Lister. Vì không đủ sức khỏe, nhà bác học Pasteur đã không đọc nổi bài diễn văn và người con trai của ông phải đọc thay ông. Sau đó các người ngưỡng mộ đến viếng thăm căn phòng thí nghiệm mà nhà bác học đã làm việc trong 6 năm cuối đời, trong số này có ông Charles Chappuis, người bạn cũ 50 năm và hiện là Viện Trưởng Danh Dự của Hàn Lâm Viện Dijion.

Vào tháng 4 năm 1895, Louis Pasteur được đưa tới thăm phòng thí nghiệm của bác sĩ Roux và được mời coi qua kính hiển vi thứ vi trùng của bệnh dịch “plague bacillus” mới được tìm thấy một năm về trước và nhà bác học Pasteur đã phải thốt lên: “A ! thì ra còn quá nhiều việc phải làm”.

Ngày 28-9-1895, nhà bác học Louis Pasteur qua đời, linh cữu được quàn tại giáo đường mà ngày nay là Nhà Bảo Tàng của Viện Pasteur ở Thủ Đô Paris. Vào buổi tang lễ, một số công trình nghiên cứu của Louis Pasteur đã được trình bày trước dân chúng, gồm các tác phẩm: “Hóa học phân tử bất đối xứng” (Molecular dissymmetry, 1848), “Sự lên men“(Fermentations, 1857), “Về sự sinh sản tự nhiên”(Spontaneous generation, 1862), “Các khảo sát về rượu nho” (Studies of wine, 1863), “Các bệnh của loài tầm”(Silk worms diseases, 1865), “Các khảo sát về rượu bia” (Studies of beer, 1871), “Các bệnh truyền nhiễm” (Infectious diseases, 1877), “Thuốc chủng ngừa” (Vaccines, 1880), “Ngừa bệnh chó dại” (Prevention of rabies, 1885)…

Theo phương pháp khảo sát của Louis Pasteur, các nhà khoa học của phòng nghiên cứu của bác sĩ Robert Koch đã tìm ra độc tố của vi trùng bệnh uốn ván (tetanus toxin) vào năm 1890 rồi qua đầu thế kỷ 20, nhiều liều thuốc chủng ngừa hữu hiệu đã được khai triển để trị các bệnh đậu mùa, lao phổi, sốt vàng da, tê liệt (poliomyelitis), dịch tả, sởi, thương hàn, ho gà, cúm, dịch hạch… Các khảo cứu khoa học của Louis Pasteur đã là căn bản dùng cho hơn 100 phát minh của các Viện Pasteur và kể từ năm 1900, 8 khoa học gia của các Viện Pasteur đã đoạt được các Giải Thưởng Nobel lừng danh về Sinh Học và Y Học.

Nhà bác học Louis Pasteur đã từng nói với các người cộng tác: “các bạn đã mang lại cho tôi niềm vui sâu đậm nhất của một người có niềm tin không lay chuyển được, đó là Khoa Học và Hòa Bình sẽ chiến thắng sự Ngu Dốt và Chiến Tranh… và Tương Lai sẽ thuộc về những ai làm lợi ích nhiều nhất cho Nhân Loại đang đau khổ”.

Louis Pasteur là một nhà nghiên cứu khéo léo với trí tò mò không giới hạn, có thiên tài về quan sát, đã tận tụy suốt đời cho các công trình khảo cứu để bảo vệ Kỹ Nghệ và Khoa Học. Louis Pasteur là một nhà bác học thực hiện được bốn lý tưởng: Niềm Tin, Hi Vọng, Lòng Bác Ái và Khoa Học (Faith, Hope, Charity and Science). Do các công trình khảo cứu và các kết quả hữu ích dùng cho Canh Nông, Kỹ Nghệ và Y Khoa, Louis Pasteur xứng đáng được người đời sau ca ngợi là Vị Ân Nhân của Nhân Loại./. 


Phạm Văn Tuấn ( V.T
)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Tư 2011(Xem: 11426)
Việt Nam trên National Geographic Cảnh vật và con người Việt Nam là nguồn cảm hứng sáng tác của không ít nhiếp ảnh gia nổi tiếng trên thế giới. Một số bức ảnh này đã được lựa chọn để đăng trên tạp chí uy tín National Geographic
05 Tháng Tư 2011(Xem: 11966)
29 Tháng Ba 2011(Xem: 12762)
Viện Bảo Tàng Albert Kahn vùng ngoại ô Hauts-de-Seine sát cạnh Paris lưu trữ một bộ sưu tập hiếm hoi ảnh màu về Việt Nam chụp ngay từ đầu thế kỷ 20. Phần lớn album này chụp trong năm 1915
24 Tháng Ba 2011(Xem: 19262)
Vào đầu thập niên 1960, nhiều hãng xe gắn máy ào ạt ra đời tại Nhật, cuối cùng theo luật thư hùng đào thải chỉ có những hãng có khả năng cải tiến mới sống còn. Lúc xe Nhật sang Việt Nam cũng là lúc các hãng xe gắn máy Nhật bắt đầu tung ra thế giới với nhiều cải tiến làm cho phẩm chất xe Nhật vượt hẳn các xe Tây phương
22 Tháng Ba 2011(Xem: 15483)
Vũ khí tối tân nhất thế giới của Mỹ Để phục vụ mục tiêu quốc phòng của mình, Mỹ đã và đang trang bị cho quân đội những vũ khí tối tân nhất thế giới hiện nay.
06 Tháng Ba 2011(Xem: 12744)
Câu chuyện về Facebook và Mark Zuckerberg đã được viết thành sách. Từ đó, các nhà làm phim Hollywood tiếp tục chuyển thể thành phim
03 Tháng Ba 2011(Xem: 16501)
VIỆT NAM VỚI NHỮNG TÀI LIỆU LỊCH SỬ
21 Tháng Hai 2011(Xem: 12257)
Ý tưởng dân chủ đã thấm vào sinh mạng của họ, vào trong máu, trong xương cốt. Một dân tộc như thế mà không hưng thịnh thì ai hưng thịnh. Một dân tộc như thế không thống trị thế giới thì ai có thể thống trị thế giới.
17 Tháng Hai 2011(Xem: 10796)
Từ “Tahrir” nghĩa là giải phóng. Đây là từ nói tới cái điều đang thét lên đòi tự do trong tâm hồn chúng ta. Hãy để nó mãi mãi nhắc chở chúng ta về nhân dân Ai Cập, về những việc họ đã làm, về những điều mà họ ủng hộ và về cách thức họ thay đổi đất nước của mình và trong khi làm như thế họ đã thay đổi cả thế giới. Xin cám ơn các vị.
15 Tháng Hai 2011(Xem: 11077)
Con người sống như thể sẽ không bao giờ chết … Nhưng rồi sẽ chết như chưa từng sống bao giờ " .
15 Tháng Hai 2011(Xem: 11489)
Khi còn sống, đã có lúc cha dạy các con phải biết đầu tư thương mại để dành tiền bạc vào những trương mục tiết kiệm, những bất động sản, những chứng khoán... nhưng bây giờ cha biết rằng mình đã lầm
09 Tháng Hai 2011(Xem: 12109)
Các lãnh đạo quốc phòng Mỹ nói chiếc máy bay ném bom tàng hình không người lái đã thực hiện chuyến bay thử đầu tiên.
04 Tháng Hai 2011(Xem: 19329)
Tết Nguyên Đán là ngày lễ thiêng liêng của người Việt. Người Việt Nam chuẩn bị đầy đủ tinh thần và vật chất cho ngày Tết. Người Việt Nam theo tôn giáo nào cũng tôn trọng ngày Tết
30 Tháng Giêng 2011(Xem: 12831)
Một mặt giữ gìn tiếng nói và nếp sống của mình nhưng mặt khác người Việt tại Úc được coi là lớp người nhanh chóng hội nhập vào nhịp sống của đất nước này
24 Tháng Giêng 2011(Xem: 12462)
Điều mà chúng ta biết chắc là đa số những người sắp “ra đi” đều lo lắng thiết tha cho “người ở lại,” và nghĩ rằng mình còn có thì giờ thu xếp mọi việc trước khi “ra đi.” Tiếc thay, khi xe buýt bất thình lình tới đón đi “ngao du,” chúng ta vội vàng lên xe nên không giúp gì cho những “người ở lại
13 Tháng Giêng 2011(Xem: 17180)
It does not mean the above mentioned will all pass but they might have to watch their health and danger in their life.
12 Tháng Giêng 2011(Xem: 14366)
Tối 10/11, ở câu lạc bộ Lexington Armory, New York (Mỹ) diễn ra buổi trình diễn hoành tráng nhất trong năm của Victoria’s Secret với một rừng ‘thiên thần’ quyến rũ: Rosie Huntington, Jessica Stam, Adriana Lima, Alessandra Ambrosio... Sân khấu hoành tráng của đêm thời trang Victoria's Secret.
11 Tháng Giêng 2011(Xem: 44239)
Các giới chức của Bộ Quốc phòng và không quân Hoa Kỳ đã ký kết một hợp đồng Mỹ cung cấp 20 chiếc máy bay chiến đấu F-35 cho Việt Nam. Việc này sẽ giúp thêm cho quốc gia vốn có thế lực quân sự ở khu vực Đông Nam Á, với loại máy bay tránh ra-đa này
09 Tháng Giêng 2011(Xem: 14645)
Thân mời quý vị mở hình xem lễ trao gỉải nobel 2010 rất trang trọng tại Thụy Điển và Na Uy, Đặc biệt giải nobel hoà bình để ghế trống với Bằng và hộp Quà [1 ,490.000 USD] là của Ông Lưu Hiểu Ba.
06 Tháng Giêng 2011(Xem: 13392)
CHÀO MỪNG NĂM 2011. NHÌN LẠI VỚI NHỮNG HÌNH ẢNH GÂY SỬNG SỐT NHẤT 2010 THEO GHI NHẬN CŨA TẠP CHÍ TIMES
04 Tháng Giêng 2011(Xem: 13889)
Có cả những cung điện được UNESCO ghi nhận như một di sản văn hóa thế giới. Đối với người Pháp, cung điện là một niềm tự hào, một biểu tượng quyền lực của các vương triều phong kiến.
04 Tháng Giêng 2011(Xem: 12535)
rong thời gian gần đây một dạng lừa đảo tinh vi mới xuất hiện nhằm vào những chủ sở hữu nhà đang gặp khó khăn trong việc trả tiền nợ nhà hàng tháng
04 Tháng Giêng 2011(Xem: 17456)
một trong những công tác ngoạn mục nhất và nguy hiểm nhất của binh chủng này là cuộc hành quân đột kích giải cứu tù binh Mỹ tại nhà tù Sơn Tây, cách Hà Nội 23 miles về hướng Tây Bắc Việt.
03 Tháng Giêng 2011(Xem: 15440)
Giao thừa 2011 “gõ cửa” thế giới Thế giới bắt đầu bước sang năm mới 2011, với lễ đón giao thừa được tiến hành ở khắp các thành phố lớn khi năm mới lần lượt “lướt qua”.
18 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20882)
Chanh trừ được các bệnh ung thư Đây là một tin mới nhất của Y Khoa, để chống lại bệnh ung thư Các bạn hảy chú ý đọc nó thật kỹ bản điện tín nầy mà người ta mới vừa
17 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 12585)
Với khả năng ngụy trang độc đáo, họa sĩ Liu Bo Lin (người Trung Quốc) có thể biến thành "người tàng hình", khiến người đi đường khó nhận ra sự hiện diện của ông nếu không để ý kỹ.
07 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 12905)
Rối loạn tâm lý ở người cao tuổiHiện nay, số lượng người cao tuổi (NCT) không ngừng gia tăng. Cùng với sự gia tăng các bệnh thực thể,
03 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 13719)
Súng chống ẩn nấp của quân đội Hoa Kỳ Khi đối mặt với của một loại súng mới của Mỹ, cách duy nhất để thoát chết là chạy, chứ không phải nấp.
25 Tháng Mười Một 2010(Xem: 14349)
Xứng với danh hiệu "nữ hoàng" của dãy Andes, loài thực vật này sở hữu những bông hoa cao tới 12 m và phải trải qua 80-100 năm tích tụ tinh hoa của sa mạc, đồi núi nó mới cho một bông hoa như thế này vài tuần trước khi chúng chết.
17 Tháng Mười Một 2010(Xem: 12957)
Nên nhớ hiện nay Trung Quốc đã phát triển một lực lượng tin tặc cực lớn và cực mạnh. Họ vẫn thường xuyên tấn công vào hệ thống mạng liên quan đến quốc phòng của nhiều nước, kể cả Mỹ, Úc và các nước lớn ở châu Âu. Việt Nam có đủ sức chống cự lại họ?
03 Tháng Mười Một 2010(Xem: 15882)
Quả dài lòng thòng với hình dáng như tinh hoàn dê dực nên có tên Cà dái dê. Gọi tên cà tím là không chính xác vì một vài loại cà khác cũng màu tím. Hơn nữa Cà dái dê có hai loài: quả xanh ánh tím và quả tím.
26 Tháng Mười 2010(Xem: 14392)
Xe là nhiên liệu với xăng, và giá của xe dự kiến sẽ được khoảng $ 200.000. Các chuyến hàng đầu tiên sẽ được vào năm 2011
21 Tháng Mười 2010(Xem: 15203)
Khoảng 15.000 người đã đổ về tỉnh British Columbia của Canada để chứng kiến một trong những hiện tượng bí ẩn của tự nhiên: cuộc di cư khổng lồ của cá hồi đỏ, được cho là lớn nhất trong 1 thế kỷ trở lại đây
21 Tháng Mười 2010(Xem: 13988)
Máy bay máy bay tàng hình thế hệ mới "F-35 Tia chớp II" (F-35 Lightning II) hiện đang được Mỹ tập trung chế tạo. Kinh phí chế tạo: 1 tỷ USD/tháng. Theo tin từ Lầu Năm Góc, chiếc máy bay chiến đấu đa năng thế hệ mới "F-35 Tia chớp II" đầu tiên đã hoàn tất., "F-35 Tia chớp II" sẽ thực hiện chuyến bay thử nghiệm đầu tiên trong tháng 12 này.