Nhận định và phân tách rất xác thực !
Bài viết hay quá , xin mời đọc !
Tại sao có sự khác biệt quá lớn
giữa người Việt Nam và người Nhật Bản?
Trước đây do công việc tôi có dịp đi Nhật nhiều lần cũng như đi nhiều nước khác
trên thế giới. Nước Nhật không phải là nước mà tôi thích đến nhất (có thể vì
đắt đỏ quá), nhưng đó là đất nước mà tôi nể phục nhất — không chỉ phục ở những
thành tựu của sự văn minh, những công trình kiến trúc tuyệt mỹ mà còn ở yếu tố
con người.
Kể từ đó tôi luôn tò mò tìm hiểu thêm về lịch sử và văn hóa của các con cháu
Thái Dương Thần Nữ.
Càng biết thêm về họ tôi càng phục họ hơn. Đó là một dân tộc có nhiều điểm rất đặc
biệt. Một dân tộc luôn tự hào về những giá trị truyền thống nhưng khi cần cũng
sẵn sàng dứt bỏ những gì đã lỗi thời. Một dân tộc mang niềm kiêu hãnh lớn lao
nhưng đồng thời cũng luôn biết học hỏi cái hay của người khác. Một dân tộc đã
từng đánh bại các đế quốc Mông Cổ, Trung Hoa và Nga Sô nhưng cũng biết nuốt cái
nhục bại trận để vươn lên thành một cường quốc kinh tế. Một dân tộc ít khi ồn
ào lớn tiếng, và luôn xem trọng sự ngăn nắp sạch sẽ. Nhưng đặc biệt hơn cả, đó
là một dân tộc chưa bao giờ biết đầu hàng trước nghịch cảnh.
Tôi nhớ trước đây có đọc một bài viết của một người Việt sống lâu năm tại Nhật,
quên mất tên tác giả, trong đó ông có nêu ra một chi tiết để phân biệt giữa
người Nhật bản địa và người ngoại quốc sống ở Nhật — đó là nhìn qua cách phơi
quần áo. Người ngoại quốc phơi lung tung, còn người Nhật phơi theo thứ tự, quần
theo quần, áo theo áo…
Đúng như nhà văn Haruki Murakami đã nhận định: “Người Nhật là kho tàng của nước
Nhật.” Tôi rất cám ơn đất nước này vì chính người Nhật đã cho tôi một niềm tin
rằng bất cứ một đất nước nào, dù nhỏ, dù bị bất lợi về địa lý, tài nguyên…
nhưng nếu dân tộc đó có một nhân sinh quan đúng đắn thì vẫn có thể trở thành
một dân tộc giàu mạnh.
– — –
Thiên tai động đất và sóng thần xảy ra ở Nhật cách đây 2 tháng, mặc dầu những
tin tức liên quan đến biến cố này không còn được nhắc đến nữa, nhưng đối với
những người Việt Nam còn quan tâm đến đất nước thì những dư âm của nó vẫn còn
để lại nhiều vương vấn suy tư. Cùng là hai nước nhỏ ở Á Châu nhưng định mệnh
nào đã đưa đẩy hai dân tộc khác biệt nhau quá xa. Một dân tộc mà mỗi khi nhắc
tới, từ Đông sang Tây, đều phải ngả mũ bái phục, còn dân tộc kia thì ít khi
được nhắc đến, hay nếu có thì thường là những điều không lấy gì làm vinh dự cho
lắm.
Sau biến cố này đã có hàng ngàn ý kiến xuất hiện trên các diễn đàn Internet đặt
câu hỏi: “Tại sao lại có sự khác biệt quá lớn giữa người Việt và người Nhật,”
phần lớn những ý kiến này xuất phát từ những người trẻ đang sống ở Việt Nam. Đó
là một tín hiệu đáng mừng cho thấy có nhiều người Việt Nam đang thao thức muốn
thay đổi số phận của đất nước mình.
Đây là một đề tài rất lớn và đòi hỏi sự suy nghĩ, nghiên cứu nghiêm túc của
nhiều người nhất là những nhà trí thức. Bài viết này để chia sẻ câu hỏi đó và
chỉ nên xem như những lời góp ý rất khiêm tốn.
Sự chênh lệch giữa Việt Nam và Nhật Bản không phải chỉ xảy ra bây giờ, từ đầu
thế kỷ 20 Nhật đã vượt ta rất xa. Trong cuốn Niên Biểu cụ Phan bội Châu đã kể
lại kinh nghiệm của mình sau hai lần đến nước Nhật để tìm đường cứu nước (lần
đầu tiên vào năm 1905). Những điều tai nghe mắt thấy tại đây khiến cụ rất phục
tinh thần của dân tộc Nhật Bản. Người phu xe, thuộc giai cấp lao động bình dân,
chở cụ đi tìm một sinh viên người Trung Hoa, mất nhiều thời gian công sức mà
cuối cùng vẫn nhận đúng 52 xu. “Than ôi! trình độ trí thức dân nước ta xem với
tên phu xe Nhật Bản chẳng dám chết thẹn lắm sao!”
Nước Nhật nằm ở vị trí đầu sóng ngọn gió, chịu liên tục những thiên tai trong
suốt chiều dài lịch sử và họ chấp nhận định mệnh đó với lòng can đảm. Thiên tai
vừa rồi rất nhỏ so với trận động đất tại Tokyo vào năm 1923 và hai quả bom
nguyên tử vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến. Nhờ phương tiện truyền thông quá văn minh
cho nên cả thế giới vừa rồi có cơ hội nhìn thấy rõ hơn “tinh thần Nhật Bản”
trong cơn nguy biến.
Trận động đất xảy ra tại Tokyo ngày 1/9/1923 đã làm cho 130,000 người thiệt
mạng, Yokohama bị tàn phá hoàn toàn, phân nửa của Tokyo bị tiêu hủy. Trong
quyển Thảm nạn Nhật Bản (Le désastre Japonais) của đại sứ Pháp tại Nhật thời đó
thuật lại: “Từng cá nhân kẻ góp chút gạo, kẻ đem chiếc xuồng để giúp đỡ nhau
như một đại gia đình,” chứng tỏ là họ có một truyền thống tương thân tương ái
lâu đời.
Vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến hai quả bom nguyên tử bỏ xuống Hiroshima và Nagasaki,
ngay lập tức làm thiệt mạng khoảng 150,000 người. Những thành phố kỹ nghệ của
Nhật cũng bị tàn phá nặng nề vì những trận mưa bom của phi cơ Đồng Minh. Lần
đầu tiên trong lịch sử người Nhật phải chấp nhận đầu hàng và là nỗi nhục quá
lớn đối với họ như lời của Nhật Hoàng Hirorito: “Chúng ta phải chịu đựng những điều
không thể chịu đựng nỗi.”
Không có hình ảnh nào thê thảm như nước Nhật lúc đó, kinh tế gần như bị kiệt
quệ hoàn toàn. Tuy nhiên Đồng Minh có thể tiêu diệt nước Nhật nhưng không thể
tiêu diệt được tinh thần của người Nhật, họ đã biến cái nhục thua trận thành
sức mạnh để vươn lên từ đống tro tàn.
Đến năm 1970, chỉ có 25 năm, một nước bại trận hoang tàn đổ nát trở thành một
cường quốc kinh tế đứng thứ nhì trên thế giới, chỉ thua có Hoa Kỳ. Danh từ
“Phép lạ kinh tế” phát xuất từ hiện tượng này.
Trong 7 năm từ 1945 cho đến 1952, tướng MacArthur, thay mặt Hoa Kỳ quản trị
nước Nhật với tư cách là Chỉ Huy Tối Cao của Lực Lượng Đồng Minh (Supreme
Commander of the Allied Powers)—vì nể phục và quý mến người Nhật cho nên vị
tướng này muốn biến nước Nhật trở thành một “Nước Mỹ lý tưởng” hay nước Thụy Sĩ
ở Á Châu. Tuy cuối cùng kết quả không được trọn vẹn như ý muốn của ông vì người
Nhật không thể để mất hồn tính dân tộc. Nhưng nước Nhật được như ngày nay có
công đóng góp rất lớn của tướng MacArthur.
Trở lại chuyện thiên tai vừa rồi, ngay sau đó có cả ngàn bài viết ca ngợi tinh
thần của người Nhật. Nhiều tờ báo lớn của Tây Phương đi tít trang mặt: Người
Nhật: Một Dân Tộc Vĩ Đại. Nhật báo lớn nhất của Mỹ, New York Times, số ra ngày
20 tháng 3 đăng bài Những điều người Nhật có thể dạy chúng ta của ký giả
Nicholas Kriftoff.
Đúng như lời của nhà báo Ngô Nhân Dụng đã viết: “Một dân tộc, và mỗi con người,
khi bị thử thách trong cơn hoạn nạn, là lúc chứng tỏ mình lớn hay nhỏ, có đáng
kính trọng hay không.”
Dùng từ vĩ đại đối với nước Nhật không cường điệu chút nào, họ vĩ đại thật.
Giữa cảnh chết chóc, nhà cửa tan nát, đói lạnh, tuyệt vọng… vậy mà họ vẫn không
để mất nhân cách, mọi người nối đuôi nhau chờ đợi hàng giờ để lãnh thức ăn,
tuyệt đối không oán trách trời, không trách chính quyền, không lớn tiếng, không
ồn ào, kiên nhẫn chờ đợi đến phiên mình.
Một đất nước mà trong cơn khốn khó, không đổ lỗi cho nhau, từ quan đến dân,
trăm người như một, trên dưới một lòng lo tìm cách đối phó, thì đất nước đó
xứng đáng là một đất nước vĩ đại.
Toàn bộ nội các Nhật làm việc gần như 24/24. Các hiệu trưởng ngủ lại trường cho
đến khi học sinh cuối cùng được di chuyển đi. Các siêu thị hoàn toàn không lợi
dụng tình cảnh này để tăng giá. Tiền rơi ngoài đường từ những căn nhà đổ nát
không ai màn tới thì đừng nói chi đến chuyện hôi của. Ông Gregory Pflugfelder,
giáo sư chuyên nghiên cứu văn hóa Nhật Bản tại Đại Học Columbia (Mỹ) đã nhận
xét về người Nhật sau thiên tai này như sau: “Hôi của đơn giản là không xảy ra
ở Nhật Bản. Tôi thậm chí còn không chắn rằng trong ngôn ngữ Nhật Bản có từ ngữ
này.”
Người Nhật là một dân tộc có tinh thần độc lập, tự trọng và lòng yêu nước rất
cao, không chờ đợi ai mở lòng thương hại, sau những hoang tàn đổ nát, mọi người
cùng nhau bắt tay xây dựng lại.
Mặc dầu chính phủ Hoa Kỳ đề nghị đến giúp dập tắt lò nguyên tử Fukushima nhưng
họ từ chối.
Xa lộ tại thành phố Naka, thuộc tỉnh Ibaraki bị hư hại nặng do động đất. Chỉ
một tuần sau, ngày 17/3 các công nhân cầu đường Nhật bắt đầu sửa chữa, chỉ 6
ngày sau xa lộ này đã hoàn tất, ngay cả Hoa Kỳ có lẽ cũng không thể đạt được kỷ
lục này.
Từ Nhật Hoàng Akihito, Thủ Tướng Naoto, cho đến các thường dân đều tự tin rằng:
“Chúng tôi sẽ phục hồi” như họ đã từng làm trong quá khứ. Cho đến hôm nay
(18/5) theo những tin mà chúng ta đọc được trên Internet thì những nơi bị tàn
phá đang được phục hồi nhanh chóng. Có thể chỉ 2, 3 năm sau nếu có dịp đến đây
chúng ta sẽ thấy cảnh vật hoàn toàn thay đổi.
Điều đáng chú ý nhất trong thiên tai này đối với người viết—chính là thái độ
của trẻ em. Đến xứ nào, chỉ cần nhìn qua tuổi trẻ là có thể đoán được tương lai
của xứ đó, bởi vì tuổi trẻ là hy vọng, là tương lai của đất nước. Không phải
chỉ có em học sinh 9 tuổi mất cha mất mẹ, đang đói khát nhưng vẫn từ chối sự ưu
tiên hơn người khác được cả thế giới biết đến, mà còn có cả ngàn em học sinh
Nhật khác trong hoàn cảnh tương tự vẫn luôn luôn giữ tinh thần kỹ luật và lễ
phép.
Những em nhỏ, có em còn được bồng trên tay, có em ngồi bên cạnh mẹ trong các
nơi tạm cư, mặc dầu đói khát từ mấy ngày qua nhưng nét mặt của các em vẫm bình
thản chờ đợi thức ăn mang đến. Những em bé này được dạy dỗ từ nhỏ tinh thần kỷ
luật, tự trọng, danh dự và khắc kỹ... không phải chỉ học ở trường hay qua sách
vở mà còn qua những tấm gương của người lớn trong những hoàn cảnh thực tế và
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Mai đây nếu có một cuốn sách giới thiệu những nét đẹp nhất, cao thượng nhất của
con người sống trên hành tinh này thì cuốn sách đó không thể thiếu được những
hình ảnh của người Nhật trong thiên tai vừa qua.
– — –
Trông người lại nghĩ đến ta!
Trong bài Góc ảnh chiếu từ nước Nhật, nhạc sĩ Tuấn Khanh (ở VN) đã viết một câu
thật thấm thía:
“Đôi khi giữa những hoang tàn đó của nước Nhật, người ta bừng sáng hy vọng và
đôi khi sống giữa những điều được gọi tên là bình yên của đất nước mình, một
người Việt Nam vẫn có thể cảm nhận được những ảnh chiếu sắc cạnh của sự hoang
tàn.”
Một số người đặt câu hỏi: Nếu tai họa như nước Nhật xảy ra tại VN thì chuyện gì
sẽ xảy ra? Ông Mạc Việt Hồng đã diễn tả bức tranh đó như thế này:
– Động đất có khi chết 200 nhưng giẫm đạp lên nhau mà chạy, chết thêm nghìn
nữa.
– Các ban ngành sẽ họp bàn cách cứu hộ từ ngày này qua ngày kia.
– Cướp giật hôi của sẽ phổ biến, hoa người ta còn cướp giật nói chi tới đồ ăn
hay tiền bạc vào lúc hỗn quan hỗn quân như vậy. Người đi hôi của sẽ nhiều hơn
người đi cứu trợ.
– Nếu có phát khẩu phần ăn sẽ chẳng có hàng lối gì, bà già trẻ nhỏ sẽ bị chen
cho bẹp ruột, ai thắc mắc hay nhìn đểu mấy kẻ chen lấn, thì “bố cho mày mấy
chưởng”.
– Sẽ xuất hiện đủ loại cò: Cò mua, cò bán, cò di tản, cò cứu trợ, cò bệnh viện…
tha hồ chặt chém đồng bào.
– Tiền và hàng cứu trợ sẽ vào tay dân thì ít, cửa quan thì nhiều.
- Ai muốn người nhà mình đang kẹt trong đống đổ nát được đào bới, tìm kiếm
trước thì hãy chi đẹp cho đội cứu hộ.
– Khu nào có quan chức ở thì được ưu tiên cứu hộ trước, khu nào dân đen sinh
sống thì cứu sau.
– Cửa hàng sẽ thi nhau tăng giá, bắt chẹt những người khốn khổ.
– Tổ chức nào, tôn giáo nào muốn cứu trợ thì phải được sự đồng ý của Mặt trận
Tổ quốc và các cấp chính quyền kẻo các “thế lực thù địch” lợi dụng.
v.v..
Tôi không nghĩ là ông Mạc Việt Hồng nói quá đáng. Chúng ta cũng không cần phải
có kinh nghiệm thực tế, chỉ cần đọc qua báo trong nước sau mỗi lần có thiên tai
cũng đủ biết là những ghi nhận trên của tác giả không sai chút nào. Nói chung
nạn nhân nếu muốn sống sót phải làm theo bản năng “mạnh được yếu thua” hay
“khôn nhờ dại chịu,” còn quan chức chính quyền thì coi đó như thời cơ để kiếm
tiền.
Ngay tại hải ngoại, nếu thiên tại xảy ra tại những nơi tập trung đông đúc người
Việt, phản ứng của người dân có thể không tệ như trong nước nhưng chắc chắn bức
tranh đó cũng sẽ không được đẹp đẽ cho lắm.
Có thể có những quý vị nghĩ rằng: không nên quá đề cao người khác và rẻ rúng
thân phận của mình—vì phải giữ lại niềm tự hào dân tộc. Riêng tôi thì không
đồng ý với những quan điểm như thế.
Có hãnh diện gì khi nói ra những điều không hay về chính dân tộc mình, người
viết cũng là người Việt, cũng có tất cả những thói hư tật xấu của người VN.
Nhưng thiết nghĩ, muốn thoát khỏi sự thua kém, trước hết phải dám can đảm biết
nhìn lại chính mình, phải biết mình tốt chỗ nào, xấu chỗ nào, đang đứng tại đâu
và cần phải làm những gì. Cũng giống như một người sinh ra trong một gia đình
nghèo khó bất hạnh, phải biết chấp nhận số phận đó, nhưng chấp nhận để tìm cách
vươn lên chớ không phải chấp nhận để đầu hàng hoàn cảnh. Gần một trăm năm nước
đây, Lỗ Tấn từ bỏ nghề y chuyển sang viết văn để mong đánh thức được dân tộc
Trung Hoa ra khỏi căn bệnh bạc nhược bằng những toa thuốc cực đắng như AQ chính
truyện, gần đây nhà văn Bá Dương tiếp nối tinh thần đó với Người Trung Quốc xấu
xí cũng được nhiều đồng bào của ông cho đó là một đóng góp đáng kể. Cuộc cách mạnh
Duy Tân của Minh Trị Thiên Hoàng vào giữa thế kỷ 19 chắc chắn sẽ không thành
công được như vậy nếu những nhà tư tưởng của Nhật lúc đó không vạch ra cho đồng
bào của họ thấy được những những cái yếu kém trong văn hóa truyền thống cần
phải bỏ đi để học hỏi những cái hay của Tây Phương, nhà văn Miyake Setsurei,
dành riêng một cuốn sách công phu Người Nhật xấu xa xuất bản năm 1891 để đánh
thức người Nhật ra khỏi căn bệnh lạc hậu.
Chúng ta chỉ có thể yêu nước nếu chúng ta có niềm tự hào dân tộc. Nhưng tự hào
vào những điều không có căn cứ hay không có thật sẽ có tác dụng ngược như những
liều thuốc an thần.
Những tự hào giả tạo này có khi vì thiếu hiểu biết, có khi vì mưu đồ chính trị
của kẻ cầm quyền như những gì mà người CS đã làm đối với dân VN trong hơn nửa
thế kỷ qua, và tác hại của nó thì ngày nay chúng ta đã thấy rõ.
Người Việt có những mâu thuẫn kỳ lạ. Chúng ta mang tự ái dân tộc rất cao nhưng
đồng thời chúng ta cũng mang một tinh thần vọng ngoại mù quáng. Chúng ta thù
ghét sự hiện diện của ngoại bang trên đất nước chúng ta bất kể sự hiện diện đó
có chính đáng đến đâu, nhưng đồng thời giữa chúng ta cũng không tin lẫn nhau,
xưa nay mọi giải pháp quan trọng của đất nước chúng ta đều trông chờ vào người
ngoại quốc, chớ không tự quyết định số phận của mình.
Mỗi khi nói về những tệ hại của đất nước VN hiện nay đa số chúng ta thường hay
đổ hết trách nhiệm cho người Cộng Sản. Thật sự Cộng Sản không phải là thành
phần duy nhất chịu trách nhiệm cho những bi kịch của đất nước hôm nay, họ chỉ
là sản phẩm đương nhiên của một nền văn hóa thiếu lành mạnh. Nếu Cộng Sản là
nguyên nhân của mọi sự xấu xa thì thành phần người Việt đang sống tại những
quốc gia văn minh và giàu có nhất thế giới như Hoa Kỳ, Canada, Úc… phải là
những người thể hiện nếp sống văn hóa cao xứng đáng với xã hội văn minh mà họ
thừa hưởng. Nhưng không, những người Việt đó, tuy khá hơn người trong nước
nhưng vẫn thua kém nhiều sắc dân khác, vẫn mang tất cả những khuyết tật mà cụ
Phan Bộ Châu, Phan Chu Trinh đã nêu ra gần một trăm năm trước. Vẫn chia rẽ, vẫn
tỵ hiềm nhau, vẫn xâu xé lẫn nhau, có khi chỉ vì bất đồng quan điểm, có khi chỉ
vì một quyền lợi thật nhỏ, thậm chí có khi chỉ vì một hư danh.
Không phải là một tình cờ của lịch sử mà chủ nghĩa Cộng Sản đã dành được những
thắng lợi trong cuộc cách mạnh mùa thu năm 1945, và luôn luôn giữ thế thượng
phong trên đất nước VN từ đó đến nay. Dân tộc VN đã chọn Hồ Chí Minh thay vì
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim… hoàn toàn không phải
vì Hồ Chí Minh giỏi hơn, yêu nước hơn, nhiệt tình hơn những người kia, nhưng
chỉ vì Hồ Chí Minh đáp ứng đúng tâm lý của người Việt—đó là tâm lý tôn thờ bạo
lực. Chắc chắn không có nước nào trên thế giới này mà bài Quốc Ca có câu sắt
máu như thế này: “Đường vinh quang xây xác quân thù,” mà “quân thù” đó bất cần
là ngoại bang hay đồng bào ruột thịt, nghe mà rợn người. Khẩu hiệu của phong
trào Xô-viết Nghệ Tĩnh vào những năm 1930, 31 do đảng Cộng Sản lãnh đạo là:
“Trí, phú, địa, hào / Đào tận gốc trốc tận rễ.”
Đối với người VN bạo lực có sức quyến rũ hơn là nhu cầu khai sáng trí tuệ để
giải quyết vấn đề một cách ôn hòa. Hồ Chí Minh chọn chủ nghĩa Cộng Sản dựa trên
bạo lực cách mạng và đấu tranh giai cấp. Giải pháp bạo lực này đòi hỏi phải
luôn tồn tại một kẻ thù làm đối tượng. Hết kẻ thù thực dân phải tìm ra một kẻ
thù khác để có lý do hành động, chính vì thế cho nên máu và nước mắt vẫn tiếp
tục rơi trên đất nước VN trong suốt hơn nửa thế kỷ qua.
Hoàn toàn trái ngược với Hồ Chí Minh, Phan Chu Trinh chọn giải pháp “Khai Dân
trí, Chấn Dân Khí, Hậu Dân sinh.” Theo ông, muốn thoát khỏi ách đô hộ của ngoại
bang và sự nghèo khổ lạc hậu, trước hết phải nâng cao dân trí, mở mang trí tuệ.
Dân trí cao người dân sẽ ý thức được quyền làm người, quyền dân tộc, rồi từ đó
sẽ tranh đấu bằng giải pháp chính trị để giành độc lập. Dân trí thấp kém cho dù
có dành được độc lập thì vẫn tiếp tục là một dân tộc nô lệ ở một hình thức
khác.
Có thể nói trong lịch sử hiện đại của VN, ông là một trong những người Việt
hiếm hoi nhìn ra nguyên nhân mất nước, nguy cơ dân tộc, không phải ở đâu khác
mà là trong văn hóa, từ văn hóa mà ra.
Sau Đệ Nhị Thế Chiến có gần 30 nước dành được độc lập, phần lớn không đổ một
giọt máu, chỉ có vài nước chọn chủ nghĩa Cộng Sản trong đó có VN, phải trả bằng
máu và nước mắt của hàng triệu sinh mạng để cuối cùng trở thành một trong những
nước nghèo khổ và lạc hậu nhất thế giới. Chọn lựa này là chọn lựa của dân tộc
của VN chớ không phải do sức ép của ngoại bang hay một lý do gì khác. Người
Cộng sản biến dân tộc VN trở thành một lực lượng tiên phong trong cuộc tranh
chấp giữa hai khối Cộng Sản và Tự Do và luôn luôn hãnh diện với thế giới về một
dân tộc "bước ra khỏi cửa là thấy anh hùng".
Hà Sĩ Phu đã có nhận xét rất đúng là giữa Hồ Chí Minh và Phan Chu Trinh, dân
tộc VN đã chọn Hồ Chí Minh và những bi kịch của đất nước hôm nay là cái giá
phải trả cho sự chọn lựa đó.
Thật cay đắng cho những người hết lòng vì nước vì dân như Phan Chu Trinh, mặc
dầu nhìn xa thấy rộng, tư tưởng nhân bản, kiến thức uyên bác, lòng yêu nước và
nhiệt tình có thừa, nhưng cuối cùng Phong Trào Duy Tân của cụ đã thất bại chỉ
vì không được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng, ngay cả cụ Phan Bội Châu—một
đồng chí thân thiết với cụ trong nhiều năm cũng không ủng hộ quan điểm của cụ.
Là một người yêu nước chân thật ông không tự lừa dối mình và lừa dối dân tộc
của mình bằng những chiêu bài mị dân, những điều tự hào không có thật. Ông là
người nhìn thấy được vấn đề, và cố gắng đi tìm một phương thuốc cứu chữa.
Nhưng tại những nơi mà lưỡi gươm có tác dụng mạnh hơn ngòi bút thì những tiếng
nói nhân bản như ông trở thành những tiếng kêu giữa sa mạc hoang vắng và ông
trở nên lạc lõng trong một xã hội mà nếp suy nghĩ hủ lậu đã bám rễ quá lâu và
quá chặt, trở thành một căn bệnh trầm kha hủy hoại đất nước và làm cho dân tộc
sa vào vòng nô lệ.
Nhìn qua đất nước Nhật Bản, một dân tộc có chiều dài lịch sử gần giống như
chúng ta, có diện tích gần bằng, dân số không chênh lệnh mấy (127 triệu so với
87 triệu), cũng chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và Khổng Giáo, không khỏi làm
cho chúng ta đau lòng khi thấy được sự khác biệt quá lớn giữa hai đất nước. Sự
khác biệt về kinh tế, sự giàu có tiện nghi không phải là điều quan trọng, chủ
yếu là sự khác biệt về cách suy nghĩ (mentality) giữa hai dân tộc. Vào thời
điểm 1858, khi người Pháp bắt đầu xăm lăng VN thì dân ta vẫn còn u mê bám vào
những giá trị đã lỗi thời, người Nhật tức thời bỏ những truyền thống hủ lậu,
học hỏi những cái hay của Tây Phương để bắt kịp họ. Đến thời điểm sau Đệ Nhị
Thế Chiến, VN muốn trở thành biểu tượng của một dân tộc anh hùng, người Nhật
biết nuốt nhục của kẻ thua trận chịu sự đô hộ của Mỹ, tận dụng lòng mã thượng
của kẻ chiến thắng, dồn mọi sinh lực dân tộc để vươn lên thành một cường quốc
kinh tế.
Tại sao lại có sự khác biệt như vậy? Những nghiên cứu công phu và nghiêm chỉnh
của các cơ quan quốc tế gần đây như Cơ quan Phát Triển Liên Hiệp Quốc (United
Nations Development Program – UNDP) đã chứng minh một cách thuyết phục rằng sự
chênh lệnh giàu nghèo giữa các quốc gia chủ yếu không phải do yếu tố địa lý,
tài nguyên thiên nhiên, tôn giáo, chủng tộc… mà chủ yếu là do yếu tố văn hóa.
Văn hóa quyết định tất cả. Văn hóa tạo ra nếp suy nghĩ (mentality) của mỗi dân
tộc, và chính nếp suy nghĩ này làm cho mỗi dân tộc có ứng xử khác nhau khi
đương đầu với cùng một thử thách. Tại sao có những dân tộc mà quan chức chính
phủ tham nhũng cả hàng triệu đô la như ở các nước Phi Châu hay VN ngày nay mà
mọi người vẫn xem đó là chuyện bình thường, trong lúc đó tại một nước khác—một
bộ trưởng chỉ vì nhầm lẫn nhận 600 đô cho quỹ tranh cử đã phải xin lỗi quốc dân
rồi từ chức?[1] Tại sao một quốc gia nhỏ bé như Do Thái chưa tới 3 triệu
dân,[2] có thể chiến thắng cả khối Á Rập trong cuộc chiến năm 1967 và tồn tại
vững mạnh cho đến ngày hôm nay? Trong lúc đó có những nền văn minh đã từng một
thời ngự trị thế giới mà ngày nay biến mất… và còn cả ngàn thí dụ khác để chứng
minh rằng chính yếu tố văn hóa quyết định sự tồn vong và sự lớn bé của mỗi dân
tộc.
Những dân tộc như Đức, Nhật, Do Thái, Thụy Sĩ, Hòa Lan, Hoa Kỳ… cho dù bị thiên
tai tàn phá đến đâu, cho dù sống ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn có thể vươn
trở thành những nước giàu mạnh, trái lại những xứ như Iraq, Nigeria, Venezuela,
Angola, Libya... mặc dầu tràn ngập dầu hỏa nhưng vẫn là những nước nghèo.
Bước ngoặc quan trọng nhất đã làm thay đổi khoảng cách giữa ta và Nhật chính là
cuộc cách mạng Duy Tân tại Nhật bắt đầu từ năm 1868. Trong lúc người Nhật tức
thời thay đổi thì các vua chúa VN vẫn còn ngủ mê bên trong các bức tường cung
điện ở Huế. Họ không thấy được thế giới đã thay đổi, vẫn tiếp tục tôn sùng và
thần tượng Trung Quốc trong lúc nước này đã bị thua thê thảm trước sức mạnh của
Tây Phương.
Vào tháng 7 năm 1853 khi triều đình Tokugawa từ chối không cho Thuyền trưởng
người Mỹ Mathew Perry lên bờ để trao bức thư của Tổng Thống Fillmore, ông ra
lệnh bắn vào thành phố Edo (Tokyo ngày nay). Những quả đại bác này đã làm cho người
Nhật thức tỉnh ngay. Lòng ái quốc và niềm tự hào dân tộc đã làm cho họ đoàn kết
lại để tìm cách giúp đất nước thoát khỏi nguy cơ nô lệ. Chính sự thức tỉnh này
đã mở đầu cuộc cách mạng Minh Trị Duy Tân kéo dài 44 năm. Đó là một cuộc cách
mạnh đúng nghĩa, một cuộc cách mạng triệt để, họ làm đến nơi đến chốn, kẻ đi
Mỹ, người đi Âu Châu, kẻ đi chính thức người đi lậu bằng cách trốn xuống tàu
buôn Tây Phương như trường hợp của thần đồng Yoshida Shôin, tất cả đều cùng một
mục đích là tìm đến tận nguồn cội của nền văn minh để học hỏi những cái tinh
túy mang về thay đổi đất nước. Họ từ bỏ một cách dứt khoát tất cả những cái cũ
không còn hợp nhưng không để mất tinh thần độc lập. Họ không phải chỉ có một
ông vua Minh Trị hết lòng yêu nước mà cả trăm ngàn những tấm lòng như thế quyết
tâm đưa nước Nhật lên vị trí ngang hàng với các nước Tây Phương.
Khi nói đến cuộc Duy Tân Minh Trị nhiều người vẫn lầm tưởng đó là cuộc cách
mạng kỹ nghệ, mở cửa để giao thương và học hỏi kỹ thuật của Phương Tây. Thật sự
không phải như thế, học hỏi kỹ thuật chỉ là mặt nổi, chủ yếu là người Nhật học
hỏi những tinh túy về tư tưởng của người Tây Phương để khai sáng trí tuệ cho
dân tộc của họ.
Chỉ có vài quả bom của Thuyền Trưởng Mathew Perry đã làm cho người Nhật thức
tỉnh, trong lúc đó nhìn lại đất nước chúng ta, kể từ thời điểm 1853 cho đến hôm
nay đã có hàng trăm ngàn quả bom đã rơi xuống đất nước Việt Nam, không những
chỉ tàn phá hình hài đất nước mà còn làm tan nát tâm hồn dân tộc với bao sự
ngậm ngùi, nhục nhã đắng cay của một dân tộc nhược tiểu. Nhưng tất cả những nỗi
đau đó vẫn chưa đủ để làm cho người Việt thức tỉnh, để thấy cần phải có một nhu
cầu thay đổi cần thiết như người Nhật đã làm từ giữa thế kỷ thứ kỷ 19.
Vào tháng 8 năm 1858 người Pháp bắt đầu cuộc chiến xăm lăng đất nước VN, trước
đó vào mùa thu năm 1847 để phản đối chính sách cấm đạo của vua Thiệu Trị, Trung
tướng Rigault de Genouilly đã bắn chìm 5 chiếc thuyền của Việt Nam, năm 1842
Trung Quốc đã bại trận thê thảm trước sức mạnh của Tây Phương trong cuộc chiến
Nha Phiến. Nhưng tiếc thay tất cả những dấu hiệu cảnh cáo đó vẫn chưa đủ để làm
cho triều đình nhà Nguyễn thức tỉnh. Đến lúc đó họ vẫn không nhận ra rằng đất
nước đang đứng trước khúc quanh của lịch sử. Từ thời điểm năm 1842 hay 1847 cho
đến 1858, đó là một khoảng thời gian rất dài (14 năm), nếu các vua nhà Nguyễn
thức thời, khôn khéo như các vua chúa Nhật Bản thì đất nước chúng ta đâu phải
chịu 80 năm đô hộ của người Pháp và đâu phải chịu tai họa Cộng Sản kéo dài đến
hôm nay.
Phạm Hoài Nam
– — –
Ghi
chú:
1. Ngoại trưởng Nhật Seiji Maehara từ chức ngày 6 Tháng Ba 2011 vì nhận 600 Mỹ
kim cho quỹ chính trị từ một người ngoại quốc.
2. Dân số Do Thái vào thời điểm 1967 là 2.7 triệu người.