Quá trình hình thành và phát triển
Năm 1861, một số giáo dân quy tụ tại khu đất gần chợ Biên Hòa ngày nay và hình thành Giáo điểm truyền giáo.
Hai năm sau - 1863, Giáo xứ Biên Hòa được thành lập và Cha Creuse (Cha Nhiệm) được bổ nhiệm làm chánh xứ tiên khởi. Cùng năm, Cha Nhiệm và cộng đoàn Biên Hòa dựng một nhà thờ nhỏ gần bờ sông Đồng Nai để làm nơi dâng lễ và cầu nguyện. Về sau, chính quyền Pháp lấy khu đất đó để xây tòa hành chánh và đổi cho Giáo xứ một khu đất khác phía bên trong là vị trí ngôi thánh đường hiện nay.
Năm 1865, Cha Legrand (Cha Cao) đến phụ trách Giáo xứ Biên Hòa và tiếp tục nâng đỡ đời sống thiêng liêng cho cộng đoàn. Năm năm sau, Cha Errard (Cha Ý) về thay thế Cha Cao và Cha Ý cùng cộng đoàn xây dựng nhà thờ bằng gạch ngói và khánh thành ngày 12.11.1872.
Qua các thời quý Cha quản xứ, các sinh hoạt mục vụ của cộng đoàn Giáo xứ Biên Hòa dần đi vào ổn định và đời sống đức tin ngày càng lớn mạnh. Năm 1966, Cha Tôma Nguyễn Văn Sum về coi sóc Giáo xứ. Cha Tôma và cộng đoàn Biên Hòa lần lượt khởi công xây dựng và khánh thành nhà xứ với diện tích 216m2 (1968) và nhà thờ với kích thước 24m x 40m (1991).
Năm 1998, Cha Philipphê Lê Văn Năng thay thế Cha Tôma phụ trách Giáo xứ Biên Hòa. Cha Philipphê và cộng đoàn trùng tu các cơ sở của Giáo xứ. Mười năm sau, Cha Philipphê cùng với cộng đoàn lần lượt khởi công xây dựng nhà thờ, nhà xứ mới và khánh thành ngày 13.10.2010.
Hiện nay, dưới sự hướng dẫn của Cha Philipphê, cộng đoàn Giáo xứ Biên Hòa đã phát triển về mọi phương diện trong niềm tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Địa dư: Đông giáp xứ Tân Mai và Bình Hải; Tây giáp Sông Đồng Nai; Nam giáp xứ Nghĩa Sơn; Bắc giáp xứ Tân Triều.
Diện tích: 37,49 km2
Dân số: 183.000 người - 4.296 gia đình công giáo, gồm 14.389 giáo dân - Tỷ lệ: 7,86%
Linh mục quản xứ:
Cha Creuse (1861- 1865)
Cha Legrand (1865)
Cha Errard (1870)
Cha Louvet (1874)
Cha Lallemant (1880)
Cha Renier (1887)
Cha Sidot (1889)
Cha Dufi (1900)
Cha Akermann (1905)
Cha Simon (1915)
Cha Vàng (1936)
Phêrô Nguyễn Vĩnh Tiên (1938)
Andrê Nguyễn Văn Đại (1941)
Phêrô Nguyễn Thanh Thời (1945)
Tôma Nguyễn Văn Thạnh (1947)
Giacôbê Nguyễn Hữu Trí (1953)
Martinô Hiển (1964)
Tôma Nguyễn Văn Sum (1966-1998)
FB:Thơ Vương Trần Nguyễn