GA ẤM THƯỢNG
Những tên ga trên trường đời
Có tên còn ghi mãi trong lòng
Dù chưa một lần bước đến
Mùa hè một chín bảy tám
Từ trại tù Lào Kay, Hoàng Liên
Vượt Vĩnh Yên vào lúc xế trưa
Đổ bộ bến đò Ấm Thượng
Lúc xế tà, trên ven sông Hồng
Trẩy vào Bến Ngọc lúc chiều buông
Buổi chiều tà Bến Ngọc hiu quạnh
Dưới bến sông, một chiếc đò ngang
Cắm sào đơn côi nơi ven bờ
Xa xa, khói cơm chiều nhà ai
Vờn trên mái rạ, khơi nỗi nhớ nhà
Trước mặt, nẽo mòn khuất lấp
Mất hút trong rừng núi âm u
Lòng người tù thê lương
Tự hỏi, đêm nay biết về đâu?
Hơn bốn năm trường, một lần thăm
Trèo đèo, vượt suối, sang sông
Vượt ngàn dặm gặp mặt chồng
Mặt nhìn mặt, cầm tay thinh lặng
Nuốt nước mắt, chảy ngược vào tim
Nửa tiêng phù du như giấc mơ
Chợt tỉnh lại, thấy phòng giam như cũ
Tên ga Ấm Thượng là nghe lời kể
Của người từ ngàn dặm thăm chồng
Cái nhà ga với những toa tàu khủng khiếp
Nơi những người vợ tù Miền Nam
Mãi mãi còn in đậm trong lòng
Như một nơi định mệnh
Của những người ngàn dặm tìm chồng
Nguyễn Nhơn
GHI CHÚ: Xin mạo muội tác giả Nguyễn Tường Thiết trích dẫn kèm theo mấy vần phụ họa.
Tuyến Đường Ga Ấm Thượng
Nguyễn Tường Thiết
Tôi kéo chiếc va li ra
khỏi phòng để trên hành lang của khách sạn Galaxy. Chúng
tôi thuê hai phòng trên lầu ba. Khóa cửa tôi đi dọc theo
hành lang gõ cửa phòng số 319. Lát sau cửa mở. Steve, đứa
rể Mỹ, thò đầu ra nói:
–We are ready.
Thảo,
con gái tôi, mở rộng cửa, kéo theo cái va li to. Nó nhìn
tôi nói:
–Mẹ phải mặc thêm áo lạnh. Con nghe nói
trên Sapa lạnh lắm đấy.
Nói xong nó mở va li lấy
ra cái áo len khoác lên người tôi. Chúng tôi xuống thang
máy. Cô hướng dẫn viên chờ chúng tôi ở lobby. Du khách
ngoại quốc đứng chật trước quầy khách sạn. Trong lúc
chờ các con tôi xếp hàng làm thủ tục trả phòng tôi ra
đứng trước cửa khách sạn nhìn ra phố. Bấy giờ trời
đã tối. Ngoài đường xe ô tô, xe máy chạy đan nhau
chung quanh cái bồn nước Hàng Đậu. Bên kia đường là
một công viên nhỏ với dăm ba chiếc ghế dài, vài cặp
ngồi tình tự trong bóng tối, những chiếc xe máy dựng
cạnh.
Hà Nội là một thành phố xa lạ dưới mắt
tôi lúc ấy. Xa lạ như thể tôi chưa hề từng đặt chân
tới. Thật ra không hẳn vậy. Tuy sinh trưởng và lớn lên
ở trong Nam nhưng Hà Nội tôi được biết qua tiểu thuyết
tôi đọc thời còn là học sinh, và sau này lập gia đình
với một người miền Bắc, nhà tôi vẫn thường kể tôi
nghe về những kỷ niệm thời còn bé của anh ở Hà Nội.
Ngoài ra có một lần trong đời chính tôi đã từng ghé
Hà Nội một thời gian ngắn. Nhưng thành phố này đã
không để lại trong tôi một hình ảnh nào đáng ghi nhớ,
ngoài hình ảnh buồn bã của những dẫy phố lạnh lẽo
với những căn nhà màu xám nham nhở cũ kỹ. Vả lại Hà
Nội đã gắn liền tôi với một mảnh đời mà tôi thực
sự muốn quên đi. Tôi không hề nghĩ mình sẽ trở lại
thành phố này lần thứ hai, nhất là từ sau ngày chồng
tôi mất mấy năm về trước. Chuyến đi này sẽ không
xẩy ra nếu không có lời mời gần như khẩn nài của
con gái tôi muốn có mẹ đi cùng với vợ chồng nó trong
chuyến về Việt Nam này.
Steve bỏ ba chiếc va
li lên sau chiếc xe van. Cô hướng dẫn viên ngồi băng
trước bảo tài xế chở chúng tôi đến nhà ga. Xe êm êm
chạy qua những con đường của Hà Nội về đêm. Những
khách sạn nhiều từng ánh đèn lộng lẫy. Hồ Hoàn Kiếm
trên vỉa hè ven hồ người tản bộ đông đảo. Trong
khung đen tháp rùa nổi lên màu trắng xanh. Cửa hàng bách
hóa Tràng Tiền Plaza sáng choang ánh đèn. Đường Trần
Hưng Đạo dài rộng ngập đầy bóng tối, vỉa hè hai bên
rộng thênh thang, những hàng cây sấu to cao gốc cây sơn
màu vôi trắng xóa.
Vào ga Hà Nội, chúng tôi đi
theo cô hướng dẫn bước qua những thanh ray đường sắt
tiến tới một con tàu dài nằm im lìm trong bóng tối sân
ga. Đi cùng với chúng tôi là đoàn du khách ngoại quốc
kéo theo những chiếc va li, đa số là những thanh niên
thiếu nữ trẻ, ngoài va ly còn mang thêm ba lô trên vai.
Đến cửa toa ở đầu xe hỏa cô hướng dẫn viên dừng
lại. Cô bắt tay Thảo và Steve, nói:
–Have a good
time! See you soon. Good by and good night…
Rồi quay qua
tôi cô nói giọng nhỏ nhẹ lễ phép:
–Sáng mai
tàu đến Lào Cai sẽ có nhân viên của hãng đón bác. Sẽ
có ô tô đưa bác và các anh chị đến Sapa. Chúng cháu sẽ
gặp lại bác khi bác trở lại Hà Nội vào sáng thứ bảy.
Bác đi vui vẻ và chúc bác một đêm ngủ ngon.
Nói
xong cô chắp tay trước ngực khẽ cúi đầu chào tôi rồi
cô quay người đi trở ngược lối cũ. Bước lên tàu tôi
nghĩ trong bụng: “Người đâu mà ăn nói thanh tao dịu
dàng đến thế!” Giọng nói và phong cách của cô ta khác
hẳn những cô gái Hà Nội thuở nào tôi đã gặp trong
chuyến đi Hà Nội trước. Dù sao thì cũng đã mấy chục
năm rồi còn gì. Bây giờ phải khác chứ. Vả lại, tôi
nghĩ, cô thiếu nữ này được huấn luyện đặc biệt để
trở thành hướng dẫn viên du lịch thì phải học cách
ăn nói cho lịch sự chứ.
Chuyến tàu đêm toa cút
xết có máy lạnh, sạch sẽ và tiện nghi. Con tàu dùng
dằng giật nhẹ rồi chuyển bánh. Buồng nhỏ có hai
giường đôi. Người thứ tư trong buồng là một thanh
niên Mỹ còn trẻ, ngang tuổi Steve. Chẳng mấy chốc mà
hai người đồng hương tình cờ gặp nhau trên chuyến tàu
đêm Hà Nội - Lào Cai trở thành bạn đồng hành tương
đắc, câu chuyện qua lại trên hai chiếc giường cao,
tiếng cười nói vui vẻ. Ngồi ở hai giường dưới mẹ
con tôi chỉ yên lặng mỉm cười, thỉnh thoảng trao đổi
ánh mắt. Thảo ngồi xích lại phía cửa sổ nhìn ra
ngoài. Nó giơ tay chỉ tôi ngồi gần nó. Hai mẹ con cùng
nhìn ra cửa. Tàu chạy sát những căn nhà của Hà Nội.
Những quán ăn tấp nập. Những gia đình quây quần bên
mâm cơm tối. Đám trẻ bu đông trước màn ảnh TV. Những
chiếc xe máy đứng chờ sau cổng đường sắt. Rồi tàu
lên cao hạ thấp dần những mái nhà xuống phía dưới.
Đoàn tàu rầm rộ trồi lên vượt qua cầu Long Biên. Âm
thanh loảng xoảng nghiến trên cầu sắt. Phía xa trên đêm
đen của mặt sông Hồng trôi đi ánh đèn của ghe chài
những đốm sáng leo lét. Tàu vào huyện Gia Lâm rúc lên
một hồi còi dài “Tu tu…”… “Tu tu…”.
Tiếng còi tàu Việt
Nam nghe rít cao hơn tiếng còi hơi tôi vẫn thường nghe
quen ở bên Mỹ. Qua cửa kính buồng ngủ căn nhà chúng
tôi ở chung với các con tôi nhìn xuống vịnh Puget Sound,
nơi đó trên một con đường sắt ngoằn ngoèo chạy dọc
bãi biển Richmonds xe hỏa mỗi ngày đi qua vùng vịnh. Từ
xa đoàn tàu trông nhỏ xinh như một món đồ chơi, tiếng
còi vọng tới, trầm buồn. “Phè phè…”… “Phè
phè…”. Tiếng còi nặng nhọc như không đủ sức cất
cao trong bầu không khí ẩm lạnh của miền Tây Bắc.
Chúng
tôi thường từ nhà đi bộ xuống bãi biển. Nhất là từ
ngày sức khỏe của nhà tôi suy yếu, bác sĩ khuyên không
nên ở lâu quá trong nhà. Chúng tôi nắm tay nhau đi xuống
con đường dốc, con đường tắt từ sau nhà dẫn xuống
bãi biển. Những buổi chiều mùa lạnh trời nhiều mây
xám và lộng gió bãi biển hoang vắng không một bóng
người, đàn hải âu bay rối trên không trung, tiếng chim
kêu thảng thốt. Những buổi trưa hè chúng tôi thường
ngồi trên những khúc thân cây tróc vỏ nhìn thiên hạ
tắm biển đi qua lại trên bãi cát, thỉnh thoảng một
chuyến xe lửa rầm rộ đi qua, mặt đất phía sau lưng
rung chuyển, chuyến tàu hàng chở những thùng hình hộp
khổng lồ đủ màu sắc, những chữ lớn in trên thùng
hàng Evergreen, Sealand, Huyndai, Pacific N.W, Han Jin… vùn vụt
lướt qua… Con tàu đi khuất ở một khúc quanh vương lại
trong không gian tiếng còi hơi… “Phè… Phè..”.
“Nhìn
những con đường sắt, những chuyến tàu hỏa bao giờ
cũng làm anh nhớ tới thời trẻ và bao giờ cũng mang lại
một cảm giác buồn buồn”. Anh hay nói với tôi như thế
cứ mỗi lần anh nghe một tiếng còi hụ hay nhìn một
chuyến tàu đi ngang. Những ngày tháng cuối cùng của đời
anh chỉ thích nhắc đến quá khứ và nỗi ám ảnh của
anh về những chuyến đi, chuyến đi nào cũng thấp thoáng
hình ảnh con đường sắt, những chuyến tàu, những nhà
ga… ga Mương Mán, ga Tua Chàm, ga Diêu Trì, ga Kỳ Lam…
của những thị trấn, thành phố miền Trung anh đã đi
qua. Nhưng buồn bã và cô tịch nhất - anh bảo - là những
nhà ga nhỏ như ga Krongpha, ga Eo Gió ở chân đèo Ngoạn
Mục.
Cửa buồng mở. Một người đàn bà bước
vào. Chị ta bận đồng phục quần xanh áo sơ mi trắng
tay xách cặp da, ở túi áo có đeo phù hiệu nhân viên hỏa
xa. Chị yên lặng soát vé bốn người trong phòng rồi trở
ra. Thảo quay qua hỏi chị ta:
–Sáng mai mấy giờ
tàu đến hở chị?
Chị trả lời bằng một giọng
nhà quê hơi sẵng:
–Đến đâu?
–Chúng tôi
đi Sapa.
–Tàu không đỗ ở Sapa. Tàu đỗ ở “Nào
Cai”. 6 giờ sáng.
Nói xong chị ta mở cửa đi ra.
“Nào Cai”!
Giọng nói ngọng đặc biệt
miền Bắc của chị ta làm tôi vụt sống lại những ngày
xa xưa lần đầu tiên tôi đến Hà Nội. Rồi tôi chợt
nhớ ra rằng cái tuyến đường sắt Hà Nội-Yên Bái-Lào
Cai mà tôi đang đi này cũng là tuyến đường tôi đã đi
trong chuyến tàu thăm nuôi nhà tôi. Tôi lặng người nghĩ
đến chuyến tàu cũ, chuyến tàu thảm thương ấy tôi
không thể nào tưởng tượng nó đã từng một lần đi
qua đời tôi.
Tôi nhìn đồng hồ tay. Tàu rời Hà
Nội đã từ hai tiếng trước. Đứa con rể tôi và người
bạn Mỹ đã ngừng nói chuyện. Ở giường bên con tôi và
chồng nó nằm đọc sách. Giường trên đầu tôi người
bạn của Steve chắc đã ngủ. Tôi ngồi dậy dí mũi sát
cửa kính nhìn ra ngoài đêm tối cố tìm một hình ảnh
nào quen thuộc trong quá khứ… hình bóng của một cái ga
xưa.
Bên ngoài ánh trăng nhợt nhạt, dẫy núi mờ
xa, đồng rộng mênh mang từng khoang nối tiếp như đuổi
nhau dọc con đường sắt. Thỉnh thoảng thoáng hiện một
chòi lá, một trụ điện, một lô cốt in trên nền trời.
Giờ này tàu chưa thể đến được cái nhà ga ấy, mặc
dầu đây là chuyến tàu tốc hành; may ra thì mới tới
được nửa đường, nhưng cho dù có đi qua tôi cũng chẳng
thể nào nhận ra. Suốt đời tôi không thể nào quên được
cái tên của nhà ga ấy. Tôi tin chắc nhà tôi cũng nhớ
rõ như tôi, mặc dù không bao giờ tôi được nghe anh nhắc
tới trong số rất nhiều tên ga đã đi qua trong đời
anh.
Tôi nằm trên giường kéo chăn bông lên cằm.
Tiếng còi đêm “Tu… Tu…” lâu lâu vọng về mơ hồ
như từ một miền quá vãng.Theo với tiếng động rập
rình của con tàu đêm tôi chong mắt nhìn về quá khứ…
tôi tính nhẩm… thế mà đã vừa đúng 25 năm, một phần
tư thế kỷ.
*
Sau ba ngày ba đêm trên chuyến xe
hỏa xuyên Việt tôi đến ga Hàng Cỏ Hà Nội vào một
buổi chiều mùa đông tháng 12 năm 1979. Chiếc áo len cũ
tôi giữ từ những ngày còn ở Đà Lạt không đủ làm
tôi ấm áp. Tôi lễ mễ xách hai cái giỏ nặng bước
xuống tàu. Ga Hàng Cỏ ồn ào tiếng người. Cả chục
chiếc xe xích lô tranh nhau mời khách. Tôi bảo chú xích
lô chở tôi đến đường Lê Thánh Tông. Đó là địa chỉ
của Bộ Giáo Dục nơi anh Tùng làm việc. Anh Tùng là
người anh họ của nhà tôi. Năm trước anh từ Hà Nội
vào Sài Gòn thăm chúng tôi và cho tôi địa chỉ này.
Lần
đầu tiên đến Hà Nội tôi không có ý niệm gì về phố
xá ở đây, không biết phố Lê Thánh Tông cách ga Hàng Cỏ
bao xa, nhưng tôi nghĩ là phải xa lắm. Chú xích lô đi mất
cả tiếng đồng hồ cũng chưa đến nơi. Xe đi lòng vòng
mãi qua những đường phố chật hẹp của Hà Nội. Tôi
thấy thành phố này sao mà cũ kỹ và buồn tẻ quá. Nhà
cửa thấp lè tè, bờ tường loang lổ vàng ố, mái ngói
nhà nào nhà nấy rêu xanh phủ đầy. Có lẽ tại tôi quen
mắt từ hồi nhỏ những tòa nhà cao và khang trang ở Sài
Gòn. Mà sao thành phố này lắm xe đạp thế. Đường phố
chật ních xe. Tiếng chuông xe đạp leng keng rộn rã khắp
nơi.
Sau cùng chiếc xích lô đỗ trước một tòa
nhà thật to. Đó là Bộ Giáo Dục. Lúc trả tiền xe, chú
xích lô quất tôi bốn chục đồng. Tôi điếng người.
Bốn chục hồi đó lớn lắm. Tôi cự thì nó lại mắng
tôi. Không muốn đôi co tôi đành bấm bụng trả tiền.
Vào trong Bộ Giáo Dục tôi đi kiếm anh Tùng. Sau khi biết
là tôi phải trả tiền xe những bốn chục bạc, anh kêu
lên:
“Trời ơi! Sao nó lấy dữ vậy!”. Tôi nói:
“Ai biết đâu. Thấy nó chạy xa quá trời…”
– “Thôi
chết rồi! Từ ga xe lửa lại chỗ anh có tí đường à.
Nó đánh vòng vòng để lừa em lấy tiền”. Tôi nói:
“Thôi kệ! Miễn nó đưa mình tới nơi tới chốn an toàn là được rồi”.
Tối hôm đó tôi ngủ
ở nhà anh Tùng. Anh chị và các cháu chen chúc nhau ở
trong buồng trên lầu một chung cư. Vào trong nhà anh chị
là tôi đi tìm ngay nhà bếp vì tôi muốn hâm lại một số
đồ ăn thăm nuôi tôi mang theo từ Sài Gòn. Nhà anh trống
hổng, không có bếp, không có nồi nấu nướng. Ngạc
nhiên tôi hỏi anh Tùng thì được biết là dân Hà Nội ở
tập thể không nhà nào có bếp núc nồi niêu gì ráo
trọi. Công chức nhân viên bộ đội ở ngoài bắc ăn cơm
trưa và chiều ở cơ quan rồi mới về nhà. Trong giỏ đồ
ăn thăm nuôi mà mẹ chồng tôi và tôi đã dành mấy tháng
trời để sửa soạn phần lớn là đồ ăn khô có thể
để được rất lâu, nhưng tôi vẫn sợ một số ít có
thể bị thiu sau ba ngày ba đêm ở trên tàu.
Mấy
tháng trước tôi lên Sở Công An quận Năm xin giấy phép
ra bắc thăm nuôi chồng. Theo thủ tục tôi đem giấy khai
sinh và một cái thư của chồng tôi viết từ trại cải
tạo chứng minh có người nhà ở tù. Thư phải kèm cả
phong bì có đóng dấu, phải nói rõ tên tuổi, số tù, ở
trại nào, lại còn phải chỉ rõ đường đi nước bước
để người trong này ra thăm không bị lạc đường. Trong
khi chờ giấy phép tôi sửa soạn đồ ăn thăm nuôi cho
nhà tôi. Hồi đó bánh mì không được mua tự do. Mua cái
gì cũng phải trình hộ khẩu. Gia đình sĩ quan ngụy không
được mua gì ngoài một tháng bốn lít dầu với ít ổ
bánh mì. Với hộ khẩu có tên tôi và mẹ chồng, một
ngày chúng tôi chỉ mua được hai ổ. Chúng tôi chỉ dám
ăn một ổ còn để dành một ổ xắt miếng ra đem lên
mái nhà phơi khô. Còn mì gói thì tôi gom góp của người
nọ người kia từ mấy tháng trước. Ngoài bánh mì, mì
gói, còn mắm ruốc xào sả, cơm rang phơi khô…
Sáng
hôm sau anh Tùng đưa tôi trở lại nhà ga Hàng Cỏ. Trong
ga người đông vô kể. Tôi thấy có rất nhiều đường
rầy đến những thành phố khác nhau: Yên Bái, Việt Trì,
Thái Nguyên, Lào Cai… Trong thư của chồng tôi có chỉ
dẫn cách thức đến trại từ Hà Nội. Tôi nghĩ anh sao
chép theo cái mẫu có sẵn mà tất cả tù nhân trong trại
cải tảo gửi về cho thân nhân chứ sao mà anh có thể
biết rành vậy. Nhà tôi ở trại tù Tân Lập thuộc tỉnh
Phú Thọ. Từ Hà Nội đáp chuyến tàu đi Yên Bái. Đi hơn
nửa đường thì xuống ga Ấm Thượng. Ga này cách trại
tù Tân Lập khá xa, phải đi đò mới tới.
Anh Tùng
chạy vào mua vé tàu cho tôi. Anh nói cái tuyến đường
sắt tôi đi là tuyến đường đi Việt Trì, Yên Bái, Lào
Cai. Trước khi lên tàu anh Tùng dặn dò tôi rất kỹ
lưỡng. Anh nói:
“Ở trên tàu quân ăn cắp như rươi,
phải cẩn thận dữ lắm”.
Trước kia tôi cũng có nghe
mấy bà thăm nuôi kể lại là tụi cướp đường đánh
hơi mấy bà vợ sĩ quan ra thăm nuôi có mang nhiều đồ ăn
nhiều tiền, tụi nó chờ thời cơ là giựt đồ, nhất
là ở những khúc đường rừng. Tôi sợ lắm, không bao
giờ rời cái giỏ xách tay đựng áo lạnh, tiền bạc,
giấy tờ. Đi ngủ tôi cũng phải gối đầu lên nó. Anh
Tùng còn sợ lên tàu tôi đói bụng không biết đường
mua thức ăn nên anh dúi vào tay tôi một bao ny lông đựng
cơm nắm trộn muối mè và thịt kho.
Chuyến tàu từ
Hà Nội đi Yên Bái thật khủng khiếp. Nó bê bối hơn
chuyến tàu từ Sài Gòn ra ngoài Bắc nhiều. Tàu chật
ních. Người đứng người ngồi, đồ đạc ngổn ngang
trên sàn tàu. Đã thế mấy thằng du côn ngồi banh chân
banh cẳng choán hết lối đi. Tôi có đi qua chúng nó cũng
làm ngơ chẳng thèm co chân lại. Mặt chúng câng câng dễ
ghét. Tôi tìm được chỗ ngồi trong góc, đút cái giỏ
đồ ăn dưới ghế, tay ôm cứng cái bọc quần áo có
giấy tờ tiền bạc. Chuyến tàu chợ này chạy chậm lắm.
Đã chạy chậm lại còn ngừng ở rất nhiều ga. Mỗi lần
tàu ngưng là cả một cảnh hỗn loạn. Người lên người
xuống chen nhau cãi vã cứ ồn cả lên. Trước khi chạy
tàu giật một cái mạnh, xô mọi người về một phía.
Một anh cán bộ vừa bước lên tàu. Anh ta nhìn
quanh. Vì ghế đã chật hết mà dưới sàn hàng hóa để
ngổn ngang, anh ta đành ngồi bệt xuống sàn, dựa lưng
vào một cái cửa cầu tiêu, ở gần cửa lên xuống. Tôi
để ý trên chuyến tàu Yên Bái này có nhiều cán bộ đi
hơn là ở trên chuyến tàu từ Nam ra Bắc. Chắc họ đi
công tác. Thường cán bộ đi đâu cũng quấn ở bụng cái
khăn lông, cái ruột tượng đựng gạo, lưng đeo ba lô,
lại cài thêm nồi niêu, xoong chảo lủng la lủng lẳng.
Anh này mặc bộ ka ki vàng bạc màu, đội nón cối, đi
dép râu, chỉ có ba lô, không mang theo đồ nấu nướng.
Anh ta có đồ ăn làm sẵn. Mở ba lô, anh lấy gói cơm ra
ăn. Anh ta ăn bốc. Từ tốn. Chậm rãi. Thản nhiên. Lát
lát anh ta lại né người xịch sang một bên. Một hành
khách mở hé mở cửa cầu tiêu, lách vào.
Tôi cũng
lấy bánh chưng bóc ăn. Bánh chưng còn nóng tôi vừa mua
lúc tàu ngừng ở ga trước có người lên tàu bán. Bánh
chưng một đồng một cái. Tôi còn mua cả chuối. Chuối
ăn rất ngon. Ăn xong, vừa thấy có người mở cửa cầu
tiêu đi ra tôi vội vàng ôm cái bọc bước tới. Cầu
tiêu lúc này người ta xử dụng liền liền nên tôi không
thể chần chờ.
Vừa mở cánh cửa
cầu tiêu tôi bật ngửa! Trên lối đi vào, trên bệ ngồi
bầy nhầy một thứ nước vàng đặc sền sệt của phân
người trộn lẫn với nước tiểu. Ngay chỗ lỗ nhà trồ
phân vung lên như một cái bánh bò. Từ đống phân đó vô
số những con ruồi trâu bay vù lên, đâm thẳng vào mặt
tôi! Hoảng hồn tôi vội quay trở ra, đóng cửa lại. Một
mùi hôi thối theo tôi nồng nặc.
Tôi ngồi chịu
trận sau đó cả tiếng đồng hồ trong cơn mót tiểu mỗi
lúc một tăng làm người tôi co quắp lại. Nhưng nghĩ đến
cái cầu tiêu gớm ghiếc kia tôi lợm người không dám
trở lại. Cũng may mà tôi đã ăn bánh và chuối trước
đó, nếu không tôi không thể nào nuốt trôi bất cứ thứ
gì vào bụng. Trong khi đó anh cán bộ vẫn ngồi thoải
mái. Ăn xong cơm, anh ta chậm rãi đưa ngón tay trỏ lên
miệng mút mút rồi xòe các ngón tay ra thè lưỡi liếm
lòng bàn tay. Lát sau, đầu dựa vào chiếc cánh cửa –
chiếc cánh cửa hôi thối – anh ta lim dim đôi mắt như
còn đang tận hưởng dư vị của gói cơm ngon lành anh vừa
ăn xong.
Đến trưa tàu rời đồng bằng tới vùng
trung du. Bên ngoài là núi đồi rừng cây nối tiếp. Đến
một khoảng rừng trống tàu hỏa ngừng lại giữa đường,
chắc là theo lời yêu cầu của hành khách để họ đi
tiêu đi tiểu. Thiên hạ đổ xô ra cửa. Tàu đỗ lưng
chừng một ngọn đồi. Một bên là rừng cây có bờ dốc
đứng. Một bên là cánh đồng có dốc thoải xuống. Nhìn
phía bên rừng có cả trăm người đàn ông đứng thành
một hàng dài, lưng quay phía tàu, tôi ngần ngại. Tôi bảo
một con bé trông đồ cho tôi rồi tôi xuống tàu ở phía
bên kia. Không nhìn thấy một ai, lại thấy một con dốc,
tôi đi lần xuống. Tôi ngồi xuống tiểu trên bờ cỏ,
mắt tôi nhìn ngược lên con tàu hỏa ở trên kia mà lòng
lo sợ nó chạy mất. Tôi đi tiểu lâu lắm. Sau mấy giờ
đồng hồ nhịn trên tàu, bọng đái của tôi tê liệt,
tôi cố rặn mà nước tiểu không ra. Càng kinh hãi vì sợ
tàu chạy lại càng khiến tôi không tiểu được. Sau cùng
tôi phải cố trấn tĩnh và tập trung tư tưởng. Đến
lúc nước tiểu vừa thoát ra được thì một tiếng còi
hụ vang lên và con tàu từ từ chuyển bánh!
Kinh
hoảng tôi kéo vội quần lên, chạy lên bờ dốc. Con dốc
dựng ngược hơn tôi tưởng. Cứ mỗi lần hai tay tôi bám
vào đất vào đá để níu lên thì đất lại lở ra và
tôi lại tụt xuống. Tôi tụt xuống như thế hai ba lần.
Cứ mỗi lần tụt xuống thì ở phía trên một toa tàu
xẹt qua! Thất kinh, bàn tay tôi quớ quá thụp bám, trong
khi dòng nước tiểu trong quần tôi vẫn tiếp tục chảy
dọc xuống đùi. Đến lúc tôi tìm được một khúc rễ
cây để bám lên được và chạy đến sát đường rầy
thì vừa vặn hai toa tàu chót đi ngang. Rất may tàu chạy
không nhanh vì đang lên dốc. Tôi víu được cái thanh sắt
ở cửa đu lên. Tàu hỏa có hai mươi toa. Đó là cái cửa
của toa tàu chót!
Tôi đi lần lên trên tìm về toa
tàu của mình, toa số tám, như người mất hồn. Từ đó
cho lúc xuống ga Ấm Thượng tôi ngồi im bất động. Tôi
tưởng tượng cái cảnh nếu tôi bị bỏ lại giữa rừng
thì không biết số phận của tôi ra sao. Lúc đó hai ống
quần của tôi ướt nhẹp, ép cái lạnh cái nhớp nháp
vào da đùi tôi. Nhưng nghĩ đến cái cầu tiêu khủng
khiếp tôi không dám vào đó để thay quần khác.
Mãi
8 giờ tối tàu mới đến Ấm Thượng. Cùng xuống với
tôi tại ga này có khoảng ba bốn chục người. Tất cả
đều là dân đi thăm nuôi thân nhân tại trại tù Tân
Lập. Xuống ga chúng tôi tập trung tại một cái trạm
trình giấy tờ. Trạm là một căn nhà lá lợp tranh. Chúng
tôi ngồi chờ riết tại đó cho đến sáng. Trời lạnh
như cắt da cắt thịt. Có bao nhiêu áo tôi bận hết mà
vẫn thấy rét. Sáng hôm sau đoàn người lũ lượt đi
xuống một bến đò gọi là bến Ngọc, nơi đó có phà
chở chúng tôi đi ngược dòng sông. Sông khá to, vùng này
người ta gọi là suối, có tên gọi là Suối Mai. Chiếc
phà tựa như chiếc xà-lan tôi thường thấy chở dừa chở
chuối ở bến đò Thủ Thiêm. Cả một ngày trời phà
chạy trên sông tôi nhìn cảnh vật hai bên bờ và thấy
núi non ở miền Bắc khác hẳn trong Nam. Núi ở đây cao
hơn, nhọn hơn, ít cây hơn và có nhiều đá xanh. Hai bên
bờ lác đác những căn nhà chòi cất cao như kiểu nhà
sàn của người Thượng. Phà đi lâu lắm. Đến tận
chiều tối chúng tôi mới đến nơi, một bến đò nằm
tuốt phía dưới sâu. Đây là vùng đồi núi, từ bến
muốn lên đường cái phải lên cái dốc thiệt cao. Mọi
người hì hục dinh đồ lên. Lên trên đó có xe Molotova,
một lại xe nhà binh của Liên Xô, chờ sẵn. Xe đưa chúng
tôi một quãng đường khoảng 10 cây số đến một cái
trạm thì ngừng. Mọi người xuống xe. Lúc đó đã tám
giờ tối. Tôi ninh ninh là đã đến Tân Lập. Té ra còn
phải cuốc bộ thêm cả tiếng đồng hồ nữa mới đến
trại. Hành lý đồ đạc của mọi người được chất
đầy trên một chiếc xe trâu, một loại xe giống như xe
bò ở miền Nam nhưng do hai con trâu kéo. Dưới ánh trăng
mờ mờ, đoàn người thăm nuôi lặng lẽ đi bộ theo xe
trâu trên con đường rừng.
Khoảng 10 giờ đêm
chúng tôi đến trại Tân Lập. Mọi người trình giấy tờ
ngoài cổng và được hướng dẫn đến một dẫy nhà lá
ở phía ngoài trại. Nhà này dùng làm chỗ ngủ cho dân
thăm nuôi. Đó là loại nhà ở ngoài Bắc gọi là “láng”,
nhà lá lợp tranh, cột gỗ lấy trong rừng, chắc là do
những ông tù cải tạo làm và được ngăn ra từng phòng
nhỏ. Mỗi người được cấp phát một cái mền Trung
Quốc có lông đỏ thật dầy. Trời ban đêm quá lạnh, có
lẽ trong đời tôi chưa bao giờ phải ngủ ở một nơi
giá buốt như thế.
Sáng ra tôi trở dậy, đứng
xúc miệng đánh răng tôi nhìn xuống núi. Phía dưới kia,
trong làn sương sớm, ba tên công an dắt một đoàn tù cải
tạo vác cuốc đi vào rừng lao động. Tuy nhìn từ xa
nhưng tôi thấy rõ đoàn người ai nấy đều ngoái cổ
ngước nhìn lên ngọn đồi chỗ tôi đang đứng và tôi
hình dung nỗi nôn nao của họ không biết trong số những
bóng đàn bà thấp thoáng trên kia có người vợ thân yêu
của mình không.
Lúc ấy lòng tôi cũng
nôn nóng không kém họ. Đã năm năm rồi còn gì. Năm năm
không hề thấy bóng dáng anh. Kể từ ngày cuối tôi tiễn
anh với mớ hành trang và thức ăn tôi sửa soạn rất kỹ
để anh dùng trong thời gian xa cách mà lúc ấy tôi nghĩ
là chỉ có hai tháng. Sau năm năm chờ đợi, chốc nữa,
tôi sẽ gặp anh. Nhưng “chốc nữa” bây giờ tưởng
như dài vô tận. Đã 10 giờ sáng rồi mà tên anh chưa
thấy gọi trên loa.
Ngồi bó gối trong phòng đợi
tôi lấy bánh chưng ra bóc ăn. Ăn xong còn đói tôi sực
nhớ ra là trong bọc còn gói ny lông cơm anh Tùng đưa tôi
ở ga Hàng Cỏ từ hai hôm nay mà tôi quên khuấy đi mất.
Tôi giở ra thì nắm cơm đã thiu. Thấy giữa phòng cạnh
một cái bàn có để một cái sọt rác, tôi bèn vất cái
bao cơm và cái lá bánh chưng vào đó.
Nghe trên loa
đọc tên nhà tôi tôi lật đật đi vô phòng tiếp tân.
Tù cải tạo và thân nhân chỉ được phép gặp nhau trong
phòng đó nửa tiếng đồng hồ. Cứ người nọ ra thì
người khác vô. Lúc tôi vào còn đứng ở cửa thì có
một anh bộ đội đang quát một cặp vợ chồng. Hết giờ
thăm rồi mà bà vợ cứ bịn rịn mãi không chịu đi ra.
Anh cán bộ hét to:
“Khẩn trương lên!”
Không biết bà ta không hiểu hay giả đò không hiểu, bà ta cứ tỉnh bơ, cứ lần chần rề rà gói đồ ăn thiệt là chậm. Bà rỉ rả nhắn chồng, nhắn có một câu mà cứ nói tới nói lui hoài. Tôi đứng chờ mà cũng sốt cả ruột. Thấy anh cán bộ tức giận quá tôi sợ cho ông chồng, sợ hắn trù ông ta tội nghiệp, nên mới nói chữa:
“Ở trong Nam người ta không nói khẩn trương. Người ta bảo nhanh lên hay lẹ lên. Nói khẩn trương chắc ông bả không hiểu đâu!” Anh ta liền nói
“Nhanh lên!” tức thời hai ông bà kia trả lời
“Rồi, rồi! Đi liền! Đi liền!”
Ông
chồng cho vội đồ ăn vào bao rồi lật đật đi trở vô.
Còn bà vợ quay qua nhìn tôi, cười khì khì, có vẻ khoái
trí vì đã lừa được anh cán bộ.
Phòng tiếp tân
có một cái bàn như kiểu bàn ăn, nhà tôi ngồi một đầu
bàn, tôi ngồi một đầu, công an ngồi ở giữa.
Thoạt
tiên, tôi không nhận ra người ngồi phía bên kia đầu
bàn, là anh. Nhà tôi vốn xưa nay tạng người đã gầy
gò, nhưng bây giờ thì chỉ còn da bọc xương. Thoáng
trong một giây ở đầu bàn kia là một khuôn mặt hốc
hác; không, nói cho đúng đó là một chiếc sọ người có
dính thịt, của một người lạ mặt. Rồi cái khuôn mặt
ấy thu nhỏ lại, là anh, ở cặp mắt. Nhìn nhau, tôi biết
ngay là anh đã đọc được nét sửng sốt trong ánh mắt
tôi, và qua đó, như tấm gương soi, lần đầu tiên sau
năm năm trời cải tạo, anh mới ý thức được cái diện
mạo mới của mình.
Tôi biết là mình chỉ được
phép gặp anh có nửa tiếng và nửa tiếng đó sẽ vụt
qua nhanh lắm, nên tôi cố hết sức đè nén xúc động,
không dài dòng tỉ tê mà chỉ tóm tắt cho anh biết rành
rẽ về hiện tình ở nhà, tình trạng sức khỏe của mọi
người, nhất là của mẹ chồng tôi, bà con những ai đã
chết, đã đi xa, những người đã lập gia đình, có con…
Còn biết bao nhiêu những điều khác – nhớ nhung, xót
thương – tôi chỉ biết lặng lẽ gửi đến anh qua ánh
mắt. Tôi hoàn toàn không nói với anh một lời về những
khó khăn chồng chất mà hai mẹ con tôi phải chịu đựng
trong cuộc đổi đời.
Lát sau họ đưa đồ ăn của
tôi vô bầy lên bàn. Công an mở từng gói từng gói đồ
ăn ra, họ lấy chiếc đũa khều khều kiểm tra từng li
từng tí một. Xong tôi hốt đồ ăn bỏ lại trong gói. Tù
thăm thân nhân từ trại đi ra mỗi người đẩy một cái
xe cút kít. Chúng tôi bỏ đồ ăn lên xe. Nửa giờ ngắn
ngủi đã hết, nhà tôi đẩy xe đồ ăn vào trại, tôi đi
trở ra, chấm dứt chuyến thăm nuôi tôi đã để cả sáu
tháng trời sửa soạn.
Trở ra phòng khách tôi thấy
người ngồi chờ đông lắm. Nhiều bộ mặt mới, chắc
là những người này đi trên những chuyến tàu sau tôi.
Tôi phải ngồi chờ ở đây cho đến hết giờ thăm nuôi
lúc 5 giờ chiều mới có xe đưa về.
Trong lúc ngồi
nói chuyện với một bà thăm nuôi, tôi nhìn cái giỏ rác
ở giữa phòng, trên miệng giỏ còn vắt cái lá chuối
gói bánh chưng tôi vứt vào đó lúc nẫy trước khi vào
phòng tiếp tân. Bỗng tôi chú ý, ngạc nhiên. Rõ ràng cái
lá chuối còn dính một ít bánh chưng sao bây giờ nó sạch
bóng sạch trơn như thể có con chó nào liếm láp. Quay qua
bà bên cạnh tôi hỏi:
“Ủa, có con chó nào ở đây mà tôi không thấy hả? Nó liếm sạch bách cái lá chuối gói bánh chưng tôi mới vứt ở kia trước khi gặp nhà tôi”. Bà ta nhìn lá chuối nói:
“Ở đó mà chó! Mấy ông tù chứ còn ai vào đây nữa! Mà phải ông nào có phước lắm được điểm tốt lắm mới được phép ra ngoài này dọn dẹp không phải đi lao động… Tôi đi thăm nuôi ba lần rồi tôi biết. Mấy ổng khổ lắm! Khổ còn hơn con chó!”.
Nửa tin nửa ngờ, tôi bước lại gần cái giỏ
rác nhìn vào bên trong. Tôi lặng người. Nắm cơm thiu
biến mất. Chỉ còn lại cái bao ny lông trong giỏ.
Tôi
nghĩ đến anh lòng buồn rầu. Chắc chắn anh không phải
là người “có phước” kia. Bởi vì tôi biết chắc anh
không thể nào là người có “điểm tốt”. Tôi nghĩ
tới đêm qua tôi ngủ ở đây trong căn trại này, đến
cái giá rét mùa đông đất bắc thật là khủng khiếp và
tôi nghĩ là mình chắc chết nếu đêm qua tôi không có
cái mền Trung Quốc. Đó mới chỉ là một đêm trong đời
tôi. Còn anh, còn những người khác… không có cái mền
Trung Quốc, không có cả một nắm cơm thiu tôi vứt đi,
tháng này năm nọ như thế… Thảo nào mà anh trông rộc
cả người đi, tôi không còn nhận ra anh nữa.
Hết
giờ thăm nuôi chúng tôi mấy chục người bắt đầu rời
trại đi xuống một con dốc dài. Lúc đó mới năm giờ
chiều nhưng vì mùa đông đêm tới sớm nên trời đã gần
tối. Sương chiều bắt đầu lan xuống thung lũng. Xuống
gần cuối dốc thì gặp một đoàn tù cải tạo đi lên,
tôi không biết đó có phải đoàn vác cuốc tôi trông
thấy hồi sáng sớm hay không. Họ đi lao động ngược
dốc trở về trại. Đoàn tù dài lắm chắc khoảng cả
trăm người được hướng dẫn bởi ba tên cán bộ cầm
súng, một tay dẫn đầu, một tay đi giữa, một tay đi
sau cùng. Lần này vì đi gần nên tôi trông thấy rõ đôi
mắt những người tù, những đôi mắt thật buồn, thật
tội nghiệp.
Lần đi về chúng tôi không đi lại
con đường cũ, không đi phà trên sông như ngày hôm trước
mà có xe Molotova chở thẳng chúng tôi đến ga Ấm Thượng.
Xe đi trong đường rừng suốt ba tiếng đồng hồ. Đến
ga khoảng 8 giờ tối.
Vừa ngồi ở trạm không lâu
thì có chuyến tàu trờ tới. Tàu vừa ngừng ở trạm thì
đoàn người thăm nuôi, phần lớn là đàn bà trong số có
nhiều bà cụ vội vã chen nhau trước cửa toa tranh nhau
lên. Toa tàu chắc đã nghẹt người bên trong nên nhiều
người không lèn vào được. Đã thế lại có những
thằng mất dậy ngồi dạng cẳng ở bậc cửa choán hết
lối đi. Một cảnh hỗn loạn xẩy ra. Ông trưởng trạm
chạy ra nói:
“Thôi! Lên vừa vừa thôi! Ở lại còn
chuyến nữa 9 giờ. Làm gì mà chen dữ vậy!” Nghe thấy
thế tôi khều mấy người tôi mới quen lúc ở trại ở
lại với tôi. Tôi nói:
“Đợi chuyến sau đi! Việc gì mà phải chen lấn. Mà tàu cũng sắp chạy đến nơi rồi, nó chỉ ngừng ở ga có 8 phút thôi”
Lúc ấy có một bà
lão trên bẩy chục tuổi, mặc dù tàu đã hụ còi mà còn
ráng bám vào cửa tính đu lên. Mới chân trên chân dưới
thì tàu phát chạy lôi bà ta sền sệt trên mặt đá răm
cạnh đường rầy một quãng dài rồi quẳng bà lão nằm
sóng sượt trên đất. Mọi người chạy tới vực bà đưa
vào trong trạm. Một chân của bà máu me ướt đẫm cả
quần. Bà ta người quê ở Vĩnh Long lặn lội từ đó ra
thăm con. Buổi trưa, lúc chúng tôi ngồi chờ xe trong phòng
đợi ở trại Tân Lập, bà ta khóc quá trời kể tôi nghe
con bả đi lao động đốn cây, bị té lăn xuống núi gẫy
cẳng. Trong trại tù làm gì có nạng. Anh ta dùng hai khúc
cây chặt ở trong rừng làm nạng chống khập khễnh từ
trong trại đi ra khu tiếp tân gặp mẹ. Bây giờ thì cả
con lẫn mẹ đều bị gẫy chân.
Một tiếng sau thì
chuyến tàu 9 giờ tới. Chuyến này cũng đông không kém
chuyến tàu trước và cảnh chen lấn để lên tàu lại
tái diễn. Tôi để ý là những toa ở phía sau có ít
người lên xuống hơn những toa đầu nên tôi cùng với
vài người chạy dọc theo đường rầy về phía cuối
tàu. Vừa lên toa thì tàu hụ còi. Chúng tôi xô nhau lên
toa.Vào được trong toa rồi thì quái lạ, toa tàu tối
thui! Tôi nghĩ bụng: “Người ta không bật đèn chắc để
tiết kiệm điện. Không thấy đường, tốt nhất là mình
nên đứng yên một chỗ”. Tôi mừng thầm là dù sao mình
cũng leo lên được chuyến tàu chót.
Tàu chạy. Nó
giựt một cái mạnh làm tôi xiêu người một bên. Hoảng
hồn, sợ bị té, tôi từ từ ngồi xuống. Tôi ngồi bệt
xuống sàn. Tay tôi quờ quạng trong bóng tối xem có cái
ghế ngồi nào ở chung quanh không. Trống hổng. Sờ phía
sau lưng tay tôi đụng thành tàu, tôi chống tay lùi dần
đít về phía sau, cho đến khi tôi dựa được lưng vào
đó.
Tôi ngồi yên như thế lâu lắm. Thường
thường khi con mắt đã quen với bóng tối tôi có thể
nhìn thấy được cảnh vật dù rất lờ mờ. Đằng này
không. Tuyệt nhiên trong toa tối đen như mực. Bỗng tôi
có một cảm giác là lạ là tôi không ở trong một toa
tàu hỏa bình thường. Tôi xòe bàn tay mò mò trên sàn để
thám hiểm xung quanh. Bỗng tay tôi mò trúng một đống gì
sền sệt ướt ướt. Tôi đưa tay lên mũi ngửi. Trời!
Cứt heo! Tôi hoảng hồn: “Ủa! Cứt heo đâu trên xe lửa
vậy ha!”. Ngồi lê trên sàn tôi quờ quờ phía trước.
Tay tôi đụng mấy con heo. Chúng nằm cả đống ở đó.
Thì ra đây là toa chở heo! Không muốn ngồi gần mấy con
heo tôi dịch qua phía bên kia để tránh. Hơn nữa sàn tàu
nhớp nháp dơ dáy quá tôi phải tìm cho ra chiếc ghế để
ngồi. Mò mãi không ra ghế. Tay tôi lại đụng thêm một
bãi gì bầy nhầy. Đưa tay ngửi: Cứt vịt! Một bãi
khác: Cứt gà! Tôi quờ tay lên trên. Gà vịt một bày ở
đó. Thôi, tôi rút lui, không muốn thám hiểm thêm.
Tôi
thụt lui, thụt lui. Tôi không về đúng chỗ cũ vì khi tôi
ngồi dựa vào thành tàu tôi ngồi ở giữa hai người,
chắc là hai người đàn ông, lúc ấy đang ngủ gục ngáy
khò khò. Hồi sau một cái đầu ngoẹo sang đè xuống vai
tôi. Nghĩ thằng cha này lợi dụng bóng tối để dê mình
tôi đẩy mạnh ra. Nhưng hình như hắn chỉ ngủ say, người
hắn mềm xuội, chốc chốc cái cổ lại vẹo sang một
bên. Tôi nhích người phía bên kia để tránh thì lại
đụng thằng thứ hai. Thằng này còn tệ hơn! Cái đầu
nó gục lên vai tôi nặng đến độ tôi không hất ra
được. Rồi hự một cái. Trời ơi nó ói! Nó ói nhớt
dãi thốc vào cổ tôi, chẩy xuống ướt cả phần trên
chiếc áo. Thôi rồi! Mấy thằng này nó say xe chứ không
phải dê mình. Tôi ngồi chịu trận như thế. Lâu lắm.
Suốt đêm. Bên cạnh tôi hai người đàn ông bây giờ đã
ngủ say, ngáy khò khò. Tiếng ngáy to cộng thêm cái cổ
nhớp nháp của tôi đưa lên một mùi chua nồng làm tôi
rùng mình, không sao chợp mắt được. Đến gần sáng có
lẽ vì quá mệt tôi thiếp đi.
Lúc tỉnh dậy thì
tàu vừa đến ga Hà Nội. Trời sáng bạch. Hai người bên
cạnh tôi vẫn còn ngủ vùi. Nhìn gương mặt của họ tôi
mới biết đó là hai người thượng, có lẽ họ ói mửa
vì không quen đi tàu. Tôi nhìn khắp trong toa. Nào heo nào
gà nào chuối nào bắp nào bí nào khoai… lổn ngổn đầy
trong toa. Thì ra những toa ở trên là toa hành khách còn
những toa ở cuối tàu chỉ để chở hàng, thảo nào mà
đêm qua không có ai tranh nhau lên.
Lúc tôi xuống tàu
gặp lại mấy bà quen họ rủ tôi đi mướn khách sạn.
Ai nấy đều khuyên tôi là dù có người quen cũng không
nên ở vì nhà cửa Hà Nội chật và đông đúc lắm. Mấy
người chung nhau mướn khách sạn ở Đường Thành. Tôi
tắm rửa sạch sẽ rồi ngủ một giấc dài. Đến chiều
tôi kiếm anh Tùng. Anh Tùng lấy xe chở tôi đi. Ngồi sau
chiếc xe đạp cũ kỹ của người anh họ lần đầu tiên
trong đời tôi thăm Hà Nội 36 phố phường.
Hôm
sau anh Tùng ra ga Hàng Cỏ tiễn tôi vào Nam. Anh nói là lần
tới ra thăm nuôi thì nhớ lại ghé anh. Hai chữ “lần
tới” làm tôi nhớ đến câu nói của nhà tôi trước
khi chia tay. Anh cũng nhắc đến “lần tới”. Tôi nói
với anh là mỗi lần ra bắc tốn kém lắm, có thể phải
bán cả cái xe Honda đi. Anh bảo: “Thì bán!” Tôi không
nói gì. Anh không biết rằng cái xe chính là nồi cơm của
mẹ con tôi, bán đi thì lấy gì mà sống. Bây giờ, sau
chuyến thăm nhà tôi, tôi lại có thêm một lý do nữa để
tin rằng sẽ không có “lần tới”. Nghĩ đến hai chuyến
tàu đi và về trên tuyến đường ga Ấm Thượng tôi rùng
mình. Tôi thật tình không muốn phải đi lại tuyến đường
ấy một lần thứ hai.
Rất may cho chúng tôi là một
năm sau chuyến thăm nuôi ấy nhà tôi được thả về.
*
Xuống ga Lào Cai chúng tôi được nhân viên của
hãng du lịch đón và đưa chúng tôi đi Sapa, cách Lào Cai
khoảng hơn ba chục cây số. Trên chiếc xe van ngoài ba
chúng tôi còn có Brian, người bạn mới của con rể tôi
và hai du khách người Úc. Xe đi trên con đường đèo chật
hẹp quanh co. Tôi nhìn hai bên đường. Phong cảnh nơi đây
tuyệt đẹp. Sương hòa lẫn mây giăng phủ dẫy núi cao.
Lưng chừng những ngọn đồi bờ đất chạy ngoằn ngoèo
ôm lấy những khoang ruộng vàng rực trong ánh nắng mai
từng lớp từng lớp đi lên như những bậc thang.
Gấp
cuốn sách “Vietnam: the update guide book” đặt trên đùi,
Thảo quay qua hỏi tôi:
– Đêm qua mẹ ngủ ngon
không?
Tôi trả lời con:
– Mẹ ngủ cũng tàm
tạm.
Thật ra đêm qua trong toa tàu tôi trăn trở mãi
không ngủ được và khi tôi thiếp đi giấc ngủ lại đầy
mộng mị.
Con tôi rời Việt Nam lúc còn nhỏ. Nó
thuộc một thế hệ khác và lớn lên trong một thế giới
khác. Sau khi nhà tôi mất nó trở thành giọt máu thân
thương duy nhất của tôi. Tuy thế không bao giờ tôi tâm
sự với nó về những chuyện buồn cũ. Bởi vì tôi biết
chắc dù mình có diễn tả cách nào nó cũng chẳng thể
nào hình dung ra nổi chứ đừng nói đến chuyện thấu
hiểu. Vả lại nói cho cùng nó cần gì biết những chuyện
xưa ấy.
Thảo nhìn ra ngoài xe rồi giơ máy ảnh
chụp hai người đàn bà thượng vai đeo gù lưng bọc con
đi dọc ven đường. Nó nói:
– Cuốn sách này
“rate” Sapa những 3 sao. Họ nói Sapa cũng như vịnh Hạ
Long là hai thắng cảnh du khách không thể bỏ qua khi đến
miền bắc của Việt Nam.
Tôi yên lặng. Tôi ao ước
được như con tôi: đến Sapa và nhìn Sapa dưới con mắt
thuần túy của một du khách. Dưới con mắt vô tư ấy
Sapa dễ dàng được đánh giá bằng con số của những
ngôi sao. Còn tôi, tôi không thể nhìn cảnh trí nơi đây
một cách bàng quan như thế. Tôi không thể nhìn nó mà
không kèm theo những xúc động vui buồn hết sức riêng
tư.
Vui vì Sapa là một thị trấn trong mộng tưởng
của nhà tôi mà hôm nay tôi thay mặt anh đến thăm. Hồi
anh còn bé đã có một lần cha anh kể anh nghe về Sapa và
anh cứ nhớ mãi. Từ đó Sapa ăn sâu vào tuổi thơ anh như
một cảnh trí thần tiên. Trong tâm tưởng anh Sapa là một
thị trấn nằm trên mây, một thị trấn lãng đãng chìm
đắm trong sương khói. Đó là nơi anh chờ đợi nhiều
nhất để đến trong chuyến trở về Việt Nam của chúng
tôi. Chẳng may anh mất trước chuyến đi được dự trù
không lâu.
Buồn vì cảnh trí nơi này chưa chi đã
làm tôi muốn ứa nước mắt. Khi tôi nhìn xuống chân đồi
kia trong làn khói sương bay tỏa một đoàn mấy người
thượng mang gùi vào rừng đốn củi tôi không khỏi liên
tưởng đến cái cảnh ba tên công an cầm súng dẫn một
đoàn tù dài vác cuốc vào rừng lao động, đoàn tù cúi
mặt lầm lũi đi trong sương sớm.
NGUYỄN TƯỜNG THIẾT