1:16 CH
Chủ Nhật
5
Tháng Năm
2024

Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh - Hoàng Yên Lưu

23 Tháng Mười 201312:00 SA(Xem: 11255)

Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh

vanghehy-large-content
Hoàng Yên Lưu

Hai nhà văn có công đầu xây dựng nền văn học quốc ngữ, đặc biệt là báo chí, và có nhiệt tâm cải thiện văn hóa, xã hội của chúng ta trong giai đoạn giao thời giữa Đông và Tây hồi đầu thế kỷ XX là Nguyễn văn Vĩnh (1882-1936) và Phạm Quỳnh (1892-1945).
Cả hai đều uyên thâm hai nền học cổ-kim, đều xuất thân hạng đầu trường Thông ngôn, bước đầu sự nghiệp đều bỏ quan trường sang làm báo và cùng qua đời vào tuổi trung niên, tuy nhiên ông Vĩnh dù lớn hơn ông Quỳnh 10 tuổi nhưng cấp tiến hơn ông Quỳnh trong sinh hoạt cũng như về quan điểm và văn phong.
Sự khác biệt giữa hai nhà văn tiền phong kỳ cựu trên được Giáo sư Nghiêm Toản trong bộ Việt Nam Văn học sử trích yếu so sánh như sau:
“Nguyễn văn Vĩnh nổi tiếng dịch rất nhiều sách Tây và có công hội họp các nhà văn tân, cựu cùng thời, lập nên một cơ quan văn học (Đông dương tạp chí) trong buổi quốc ngữ mới sơ khai, gây thành phong trào yêu mến tiếng Việt trong hàng thanh niên trí thức.
Ông dịch đủ các loại: thơ ngụ ngôn, kịch, truyện dài, truyện ngắn, song hay nhất là mấy bộ: Gil Blas de Santillane, Manon Lescaut (Mai nương lệ cốt), Les Trois Mousquetaires (Ba người ngự lâm pháo thủ), Les Misérables (Những kẻ khốn nạn), toàn là văn phẩm có giá trị và rất nổi danh.
Ông dịch thật tài, chỉ cần thoát ý, không cần đúng từng chữ từng câu; lời văn ông có tính chất Việt nam hoàn toàn, làm cho hứng thú kẻ đọc tăng lên; nhiều đoạn ông dịch sát nghĩa vô cùng và văn linh hoạt tự nhiên; chúng ta không ngờ rằng trước đây 30 năm (kể tới năm cuối tiền-bán thế kỷ XX) chữ quốc ngữ mới ở bước đầu, đã có thể diễn dịch được hết ý nghĩa tinh thần câu văn Pháp.
Phạm Quỳnh khác hẳn Nguyễn văn Vĩnh, vì ông chuyên về mặt tư tưởng và lưu ý khảo các học thuyết Thái Tây để luyện cho quốc văn có thể phô diễn được những ý niệm mới; văn phẩm của ông đều đăng ở Nam Phong tạp chí rồi sau in lại thành sách trong Nam Phong tùng thư.
Phần dịch có: Phương pháp luận của Descartes, Đời đạo lý của Paul Carton… Trứ thuật có: luận thuyết, ký sự (Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam kỳ, Pháp du hành trình nhật ký…).
Song trong văn nghiệp của ông, loại khảo cứu mới là phần quan trọng. Xin tạm kể:
- Về phía Pháp: học thuyết Montesquieu, Voltaire, Rousseau… chính trị nước Pháp, Văn minh luận, Thế giới tiến bộ sử.
- Về phía Á đông và Việt Nam: Người quân tử trong đạo Khổng, Phật giáo lược khảo, Hán Việt văn tự, Ca dao tục ngữ, Việt nam thi ca, Văn chương lối hát Ả đào…
Văn ông Vĩnh giản dị nhẹ nhàng, văn ông Quỳnh chắc chắn trang nghiêm; cho nên ta có thể nói văn ông Vĩnh dễ phổ cập trong đám dân thường, còn văn ông Quỳnh có tính chất đạo mạo của nhà học giả”.
Giữa hai ngôi sao văn học đầu thế kỷ XX, Phạm Quỳnh và Nguyễn văn Vĩnh, thì người đương thời lớp lớn tuổi, có khuynh hướng bảo thủ, trọng ông Quỳnh hơn ông Vĩnh. Nhưng với đám trẻ tuổi của thế hệ 1932 như Vũ Bằng (1913-1984), Nguyễn Vỹ (1912-1971)… lại tỏ ra thích ông Vĩnh hơn ông Quỳnh. Ta hãy thử đọc lại hồi ký Văn thi sĩ tiền chiến (ký ức văn học Khai trí xb-Saigon-1970) của Nguyễn Vỹ khi nhà thơ so sánh hai tay kiệt liệt trên văn đàn đã kể trên, hy vọng biết thêm về họ và ảnh hưởng của họ đối với độc giả và giới cầm bút đương thời:
Tác giả những vần thơ Bạch nga, nhớ lại lần đầu tiên trông thấy Nguyễn văn Vĩnh:
“Hồi hãy còn là một sinh viên bé nhỏ, tôi đã coi Nguyễn Văn Vĩnh như bậc Đại Nhân, siêu quần bạt tụy, tài trí vô song. Chỉ vì tôi đã đọc hết của ông bản dịch bộ sách LES MISÉRABLES của VICTOR HUGO. Trước đó, tôi đã đọc vài bản dịch Chinh Phụ Ngâm ra tiếng Pháp, bài Le Lac ra tiếng Việt, tôi đã không được thỏa mãn. Từ khi đọc mấy bài Fables de La Fontaine của Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra Việt ngữ, và bộ sách dịch “Những kẻ khốn nạn” của ông rất là vĩ đại, thì mỗi lần chỉ thấy cái tên của ông tôi đã cúi đầu khâm phục rồi.
Vào khoảng năm 1930, báo L’Annam Nouveau của ông bằng Pháp văn ra đời. Tôi mua ngay từ số 1, cũng như các bạn trẻ ham học hồi đó. Dù là sinh viên nghèo, chúng tôi cũng ráng mua cho được, mỗi tuần hai kỳ, các số báo L’Annam Nouveau cho đến khi nó tự đóng cửa, vì ông Vĩnh bị vỡ nợ.
Mê Việt văn của ông, thích cả Pháp văn của ông, tôi chỉ ao ước được gặp ông một lần, được hầu chuyện với ông, dù trong một tiếng đồng hồ. Một buổi chiều vào khoảng ba giờ, một người bạn cùng tôi đang đi trên vỉa hè phố Hàng Gai, bỗng người bạn chỉ tôi một ông to béo, mặc âu phục trắng đội mũ trắng bự giống như cái “mũ thuộc địa” (casque colonial của Tây hồi đó), ngồi trên chiếc xe môtô kềnh càng, nổ bình bịch và kêu rầm rầm, từ hàng Bông chạy thẳng xuống hàng Gai. Chúng tôi đứng lại ngó ông. Lúc ông chạy vụt ngang qua chúng tôi, tôi cúi đầu chào. Ông không trông thấy. Nhưng tôi vui sướng vô cùng. Tôi đã thấy mặt nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh.
Trong ba năm còn là cậu sinh viên nhỏ bé, tôi chỉ thấy ông Nguyễn Văn Vĩnh có một lần đó thôi. Nhưng hình ảnh của ông nhà văn to lớn kia đã in sâu vào trong trí nhớ của tôi, và mỗi khi tôi nghĩ đến ông, hay đọc một bài báo, một quyển sách của ông, thì, lạ quá, tôi cứ nghe tiếng xe môtô nổ bình bịch và chạy rầm rầm bên tai tôi”.
Còn chân dung Phạm Quỳnh được Nguyễn Vỹ hồi ức qua lăng kính tình cảm bản thân:
“Một hôm, bọn học sinh chúng tôi, được các giáo sư cho biết là chiều thứ bảy ông Phạm Quỳnh sẽ diễn thuyết tại giảng đường của trường Cao đẳng, chúng tôi nô nức đợi đến chiều ấy để nghe.
Ông chủ nhiệm tạp chí Nam Phong sẽ diễn thuyết bằng tiếng Pháp, về một đề tài rất hấp dẫn: Le Paysan Tonkinois à Travers le Parler populaire (Người dân quê Bắc Việt, xét qua ca dao bình dân).
Kể ra chúng tôi đọc tạp chí Nam Phong đã lâu lắm rồi. Riêng tôi, tôi đã được đọc nó thỉnh thoảng một đôi quyển, của Thầy tôi mượn ở đâu về, vì thời bấy giờ tạp chí Nam Phong ít có bán ở các tiệm sách. Hầu hết độc giả Nam Phong là những quan lại, hoặc một số “trí thức thượng lưu” và “trung lưu” mua năm. Khuynh hướng chính trị gác hẳn ra một bên, chỉ đứng về phía văn học mà thôi thì chúng tôi, tất cả thanh niên trí thức lúc bấy giờ, đều phục cái tài cao học rộng của ông Phạm Quỳnh.
Chữ Pháp, ông viết rất trôi chảy, với một lối hành văn rất bóng bẩy văn hoa, vừa giản dị, khúc chiết, vừa dồi dào ý tưởng.
Việt văn của ông cũng thế. Câu văn rất được săn sóc, điêu luyện theo như hành văn Pháp, rất thận trọng trong việc dùng chữ. Ông đưa đẩy ngòi bút dịu dàng, chững chạc, không dây dưa rườm rà, hoặc nặng nề theo kiểu một số nhà Nho, như ông cử Dương Bá Trạc hay ông Lê Dư, cũng không cứng rắn và đôi khi quá giản dị, thực tế, như cú pháp của ông Nguyễn Văn Vĩnh.
Văn của Phạm Quỳnh là lối văn quí phái, “lối văn hàn lâm viện” như người Pháp nói.
Không thể nào không nhìn nhận rằng thời bấy giờ, ai đọc văn của Phạm Quỳnh cũng đều phải phục văn tài của ông.
Nhất là tụi thanh niên chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi cuốc bộ trên vỉa hè phố Hàng Da, thấy ông Phạm Quỳnh ngồi chễm chệ trên chiếc xe kéo nhà, sơn màu gạch bóng loáng, từ trong cổng nhà ông đi ra, hoặc đi đâu về.
Đi xe kéo nhà như thế, là sang nhất lúc bấy giờ. Ông mặc quốc phục Việt, áo dài the đoạn, hoặc Satin. Không bao giờ Phạm Quỳnh mặc Âu phục, chân luôn luôn mang giày Escarpin (một kiểu giày của những người trưởng giả thời ấy), đầu chít khăn đóng, mắt đeo kính trắng. Vì điệu bộ quí phái ra vẻ bệ vệ của ông mà đám thanh niên trí thức chế nhạo ông, đặt cho ông cái biệt hiệu là “Kính trắng tiên sinh”. Tiếng Bắc, kính tức là kiếng trong tiếng Nam…
Hôm chiều thứ bảy ấy, ông Phạm Quỳnh diễn thuyết bằng tiếng Pháp tại giảng đường Cao đẳng Đông Dương ở Hà Nội, đường Bobillot, sinh viên đến nghe rất đông. Ở từng dưới, là các dãy ghế danh dự, có ông Thống sứ Bắc Kỳ chủ tọa, với tất cả các nhân vật cao cấp Pháp Việt ở Hà Nội, đa số là Tây và Đầm. Còn chúng tôi là sinh viên thì chen nhau đứng chật bao lơn từng trên, – theo tiếng thông dụng các rạp hát lúc bấy giờ gọi là trên “chuồng gà” (poulailler). Tôi đứng với một đám nam sinh và nữ sinh trường Thuốc và Sư phạm, phía bên trái. Có một cô bạn cứ ho từng cơn, khiến chúng tôi rất bực mình.
Sau lời giới thiệu của viên Giám đốc Học Chánh Bắc Kỳ, ông Phạm Quỳnh từ phía sau giảng đường ung dung bước ra diễn đàn. Ông rất bình tĩnh, thong thả, bệ vệ.
Lúc bấy giờ không có micro, nhưng Phạm Quỳnh cất tiếng nói rõ ràng, chững chạc, êm ái. Chúng tôi ở trên “chuồng gà” nghe rất rõ. Đứng nói mấy lời cảm ơn các quan khách, rồi ông thong thả ngồi xuống ghế, trước chiếc bàn gỗ gụ lớn, trải tấm khăn nhung xanh màu da trời.
Ông đủng đỉnh gỡ cặp kiếng trắng gọng bạc để xuống bàn, lấy cặp kiếng trắng gọng vàng đeo vào, và rút trong túi áo ra một xấp giấy đánh máy.
Ông cất tiếng nói. Ông không chúi mũi xuống giấy như nhiều diễn giả khác đọc như đọc bài văn tế. Ông cũng không nói lung tung lộn xộn như một số diễn giả khác không theo một dự thảo hoạch định trước. Ông đã viết sẵn bài thuyết trình, rồi theo đó mà nói, thỉnh thoảng mới ngó vào giấy, nói rất tự nhiên, rất lưu loát, văn hoa… Tất cả đều phục ông Phạm Quỳnh có tài hùng biện, hoạt bát, duyên dáng mà vẫn nghiêm nghị. Lần đầu tiên chúng tôi được nghe một người Việt Nam diễn thuyết trước công chúng tri thức Việt Pháp trên 500 người, bằng tiếng Pháp lưu loát hấp dẫn như thế. Hôm ấy, ông Phạm Quỳnh đã gây được lòng khâm phục hoàn toàn của toàn thể thính giả Pháp và Việt.
Tôi ra về thỏa mãn. Từ đó về sau, cũng như hầu hết các bạn trẻ sinh viên, tôi đã đọc tất cả các sách của Phạm Quỳnh xuất bản. Tác phẩm của ông đều là những bài ông đã viết đăng trong Nam Phong, và gom góp in ra thành sách. Dù nghèo túng đến đâu, chúng tôi cũng ráng để dành tiền mua sách của Phạm Quỳnh. Chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều trong các sách của ông. Chúng tôi cũng chịu ảnh hưởng nhiều trong lối hành văn và cách diễn đạt tư tưởng của bậc văn sĩ tài hoa ấy”.
Trong phần cuối của hồi ức về hai nhà văn tiền phong, thi sĩ Nguyễn Vỹ so sánh:
“Giới trí thức Hà Nội Tiền chiến thường so sánh hai nhân vật này, vì họ hoàn toàn trái ngược nhau. Trên bình diện chính trị, ông Phạm Quỳnh chủ trương Bảo Hoàng, yêu cầu chính phủ thuộc địa áp dụng đúng đắn Hiệp ước Patenôtre (1884), trao trả quyền hành chánh cho Bảo Đại ở cả Trung và Bắc Kỳ, theo một hiến pháp do Phạm Quỳnh soạn thảo, và được các báo Pháp đương thời gọi là “Constituion Pham Quynh”.
Nguyễn Văn Vĩnh, trái lại, đòi thực hành cho Trung Bắc Kỳ một chính sách mà ông gọi là Administration Directe (trực trị), nghĩa là dẹp bỏ ngôi vua, để Pháp trực tiếp cai trị với sự tham gia hành chánh trực tiếp của nhân dân do Thượng, Hạ Nghị Viện của nhân dân bầu cử. Người Pháp dĩ nhiên ủng hộ Phạm Quỳnh.
Chủ trương “trực trị” của Nguyễn Văn Vĩnh bị Phạm Quỳnh đả kích kịch liệt trong các bài xã thuyết của ông đăng trong nhật báo Pháp France-Indochine ở Hà Nội. Để “an ủi” Nguyễn Văn Vĩnh, Chủ nhiệm kiêm Chủ bút báo L’Annam Nouveau, Chính phủ Pháp tặng ông Bắc Đẩu Bội Tinh (Légion d’Honneur) là huy chương cao quý nhất của Pháp, nhưng ông Vĩnh không nhận.
Vụ huy chương này hoàn toàn giữ kín, dư luận dân chúng không hay biết gì, nhưng các giới trí thức và cách mạng ở Hà Nội đều biết rõ, và sự khí khái của ông Nguyễn Văn Vĩnh cương quyết từ khước “Légion d’Honneur” của Pháp, được các giới ấy, nhất là giới trí thức thanh niên, nhiệt liệt hoan nghênh.
Uy tín của Nguyễn Văn Vĩnh càng được tăng cao từ vụ này.
Về phương diện thuần túy văn học, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh cũng hoàn toàn trái ngược nhau.
Nam Phong Tạp chí, nguyên là do tiền trợ cấp của Chính phủ thuộc địa Pháp, và người sáng lập là Giám đốc Chánh trị vụ của Phủ Toàn quyền Đông Dương, tức cũng như Tổng Giám đốc Mật thám Phủ Toàn quyền.
Phạm Quỳnh có một lối văn Hàn lâm (style académique) rất văn hoa, nhưng chững chạc, nghiêm nghị, bệ vệ, văn Pháp cũng như văn Việt; khác hẳn lối văn giản dị thiết thực hoàn toàn bình dân của Nguyễn Văn Vĩnh, văn Pháp cũng như văn Việt của ông Chủ nhiệm L’Annam Nouveau và cựu Chủ bút Trung Bắc Tân văn, Đông Dương Tạp chí, thật là lưu loát, và thường châm biếm, đúng với truyền thống hài hước của tinh thần dân tộc Việt Nam. Văn Phạm Quỳnh có rất ít điểm hài hước hóm hỉnh đó.
Thanh niên Tiền chiến ưa tìm học hỏi nơi tri thức uyên thâm và văn chương hoa mỹ của Phạm Quỳnh, gác ngoài lập trường chính trị của ông, cũng như họ thích những kinh nghiệm về văn hóa tổng hợp, khoáng đạt, cởi mở, bình dân của Nguyễn Văn Vĩnh. Cho đến nếp sống cá nhân, gia đình, xã hội của hai người cũng cách biệt nhau xa.
Phạm Quỳnh đeo kính trắng gọng vàng, ngồi chiếc xe kéo nhà quí phái, đi đứng thong dong, nói cười mực thước, chỉ giao thiệp với hạng thượng lưu, vì vậy mà các giới thanh niên trí thức Hà Nội gọi ông là “Kính trắng Tiên sinh” và “Học phiệt”.
Trái lại, Nguyễn Văn Vĩnh thích mặc sơ mi, quần “short”, cỡi xe môtô, giao du với đủ các giới, nói to, cười lớn, ưa đánh tổ tôm, săn bắn và có óc phiêu lưu.
Ông Vĩnh có hai vợ, một bà Bắc, một bà Đầm lai, cả hai đều phải lo giúp đỡ ông, và gia đình ông tuy thuộc về giới thượng lưu nhưng luôn luôn túng thiếu.
Công việc kinh doanh của ông về sách báo, xuất bản, rất là rộng lớn mà phương diện tài chánh lại không được dồi dào.
Phạm Quỳnh, trái lại, được sung túc, ra vẻ danh gia thế phiệt, đại trưởng giả.
Kết cuộc số phận, hai ông đều là nạn nhân của hai thái cực: Phạm Quỳnh ra làm quan, lên bực Đại thần được tín dụng bên cạnh ngai vàng, quyền cao chức cả tột bực, để rồi, sau cùng, bị chết thê thảm… Nguyễn Văn Vĩnh bị phá sản, vì sự nghiệp văn chương rủ một người bạn Pháp, cũng có óc phiêu lưu văn nghệ như ông, đi qua Lào để tìm mỏ vàng! Sau cùng, ông chết ở Lào vì bệnh sốt rét rừng, xa quê hương, gia đình, bạn hữu, như một “bôhêmiên” bất cần định mạng”.
Hoàng Yên Lưu
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
05 Tháng Chín 2011(Xem: 12298)
04 Tháng Chín 2011(Xem: 12688)
02 Tháng Chín 2011(Xem: 14013)
Những tưởng đây là dịch vụ có phần… điên rồ, song nó lại thu hút không ít sự hiếu kỳ của công chúng. Hơn 200 người trên mọi miền Malaysia đã đăng ký tham gia “hành trình” có một không hai này.
18 Tháng Tám 2011(Xem: 13183)
Hoa Kỳ và Singapore đang thảo luận chi tiết về một kế hoạch đồn trú cho một loại chiến hạm tàng hình (stealh) thuộc loại mới nhất của Hoa Kỳ gọi là LCS.
09 Tháng Tám 2011(Xem: 13385)
Phở là một món ăn hoàn toàn do người Việt Nam sáng chế ra, một món ăn rất bình dân và được phổ biến một cách rộng rãi không những trên toàn cõi Việt Nam, mà còn trên khắp thế giới nữa. Ở đâu có người Việt Nam, ở đó có Phở, và ngược lại,
06 Tháng Tám 2011(Xem: 13997)
Hàng năm, tháng 7, từ hai mươi năm nay, anh em bạn bè điện thoại cho nhau, gọi nhau, rủ rê nhau làm sao ráng gặp nhau, ráng đi Giỗ Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy. Anh em tuổi mỗi ngày một cao, mỗi năm kiểm điểm, lại vắng mặt vài tên
04 Tháng Tám 2011(Xem: 12225)
Bác Sĩ Henriette Bùi, biểu tượng của cộng đồng người Việt hải ngoại cũng như tại Paris nói riêng, một nhân vật đặc biệt, chứng nhân của cả một thế kỷ Việt Nam đầy biến động.
31 Tháng Bảy 2011(Xem: 13196)
Hàng năm cứ vào độ trăng tròn tháng Bảy âm lịch, tức khoảng trung tuần tháng Tám dương lịch là ngày lễ Vu Lan trở về. Vào ngày này các chùa Việt Nam và Trung Hoa thường thiết lễ rất trọng thể và các Phật tử đến tham dự rất đông đảo để cầu nguyện cho cha mẹ hiện tiền được an lạc, cha mẹ quá vãng được siêu sanh tịnh độ,
27 Tháng Bảy 2011(Xem: 12466)
Những người còn sống sót để đến được các miền đất tự do phải cảm thấy một bổn phận linh thiên đối với những người đã tử nạn trên đường đi. Đó là những bạn đồng hành trên đường đi tìm tự do nhưng không được may mắn như chúng ta. Trong những cơn nguy khốn, họ là những đồng đạo đã cầu nguyện cùng một đức Phật, cùng một đức Chúa như chúng ta
26 Tháng Bảy 2011(Xem: 13263)
Chỉ là một hòn đảo nằm chơ vơ giữa Thái Bình Dương, nhưng cảnh đẹp mê hoặc cùng tấm lòng hiếu khách của người dân Hawaii đủ khiến hòn đảo này được mệnh danh là thiên đường của hạ giới
19 Tháng Bảy 2011(Xem: 14423)
Bức tượng Marilyn Monroe Nghệ Thuật thì phải tuyệt tác rồi Khoảnh khắc "tốc váy" nổi tiếng của "biểu tượng sex thế kỷ 20" đã được tạc tượng cao tới 8m và đặt tại Chicago.
18 Tháng Bảy 2011(Xem: 12223)
vị tu sĩ được nhiều người gọi là Phật Sống này nói rằng “thế giới là của nhân loại, và quốc gia là của người dân -- chứ không phải của đảng nào, vua nào, hay lãnh tụ tinh thần nà
10 Tháng Bảy 2011(Xem: 13500)
Tham vọng về đất đai của chúng tôi, nếu có là chỉ xin vừa đủ đất để chôn những người tử trận không thể trở về nhà….. Yên lặng như tờ. Yên lặng đến nỗi có thể nghe được chiếc kim rơi….
09 Tháng Bảy 2011(Xem: 19613)
Tác phẩm “Tội Ác và Hình Phạt” của Đại Văn Hào Fyodor Dostoevsky đã cung cấp nền móng cho các nhà văn viết về thứ tội ác thúc động do một thứ triết lý sống, viết về cách bào chữa cho tội ác bằng những phương pháp không tưởng, về giá trị của bản ngã qua các hành động.
07 Tháng Bảy 2011(Xem: 11268)
Để tưởng niệm người đã có công hiện đại hóa nền văn học nước nhà qua những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn mà ông chủ trì và sáng tác, Việt Thức nhận đăng tải một thi phẩm truy niệm – cảm đề của thi sĩ Vũ Hoàng Chương sáng tác đầu năm 1964 và bản dịch tiếng Anh của Chu Việt kèm theo bài “nỗi niềm” của dịch giả.
04 Tháng Bảy 2011(Xem: 14011)
Thấm thoắt đã nửa thế kỷ trôi qua, Giờ Thứ Hai Mươi Lăm vẫn là một trong những cuốn tiểu thuyết tuyệt vời nhất, hàng trăm năm mới có tác phẩm hay như vậy
03 Tháng Bảy 2011(Xem: 14803)
Trong vòng một thập kỷ trở lại đây, Quân đội Mỹ liên tục đầu tư tiền của để nâng cấp và phát triển các hệ thống vũ khí chiến lược. Có những hệ thống vũ khí mà người ta chưa bao giờ biết tới
29 Tháng Sáu 2011(Xem: 13061)
Có nhiều nơi ở miền Nam mình đã đi qua, đã ở đó, đã nghe nói tới hoặc đã đọc được ở đâu đó...riết rồi những địa danh đó trở thành quen thuộc;nhưng chắc ít khi mình có dịp tìm hiểu tại sao nó có tên như vậy?
29 Tháng Sáu 2011(Xem: 12951)
Biểu tượng quốc gia của Mỹ, Tượng Nữ Thần Tự Do chào mừng những người đói nghèo và kiệt sức, những người đã bị chính quê hương mình từ chối, những kẻ vô gia cư, những người bị dập vùi sau cơn bão tố! Thế rồi, sau đó chính họ là những người đã xây dựng nên nước Mỹ của ngày hôm nay!
28 Tháng Sáu 2011(Xem: 13468)
Chính sách "cho đi rồi lấy lại" (Give and Take policy) của Mỹ đã được áp dụng rộng rãi trong các vấn đề đối nội và đối ngoại. Và hầu như khi nào Mỹ cũng áp dụng chính sách "Give and Take
24 Tháng Sáu 2011(Xem: 16088)
So với tư cách một vài trường hợp của những vị tướng khác, những vị tướng trong hàng trí thức, xuất thân từ những trường võ bị, nhưng vị thì chết vì thượng mã phong, hay vị thì chỉ được biết vì thành tích đoạt người yêu của thuộc cấp hoặc cướp vợ của bạn, thì Lê Quang Vinh, xét cho cùng, quả thật xứng đáng được vinh danh là một Tướng, một loạn tướng anh hùng.
19 Tháng Sáu 2011(Xem: 14151)
Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, sống đời lưu vong, nhưng ngày đêm vẫn vọng tưởng Cố Hương, vẫn nhớ tiếc về những năm tháng của một thuở đã xa, mà lòng rưng rưng, mà tim quặn thắt; bởi chỉ còn biết tìm lại qua những câu hát, lời thơ của một thời đã mất:
14 Tháng Sáu 2011(Xem: 13113)
Do đó chữ thần tượng ở đây không phải trong ý hướng thần thánh hóa, mà thần tượng vì con người đơn giản bình dị của Ngài đã ban cho mỗi chúng ta lòng hoan hỷ vô biên khi được sống bên Ngài
09 Tháng Sáu 2011(Xem: 12072)
Đối với chúng ta, những người Việt Nam, tên tuổi Eiffel sẽ mãi mãi được ghi nhớ không chỉ như một công trình sư lỗi lạc đã để lại cho nhân loại những kỳ đài kiệt tác, mà còn là cha đẻ của những công trình đã trở thành dấu ấn ba miền của đất nước
09 Tháng Sáu 2011(Xem: 18630)
hoàn thành cây cầu bắc ngang qua sông Hậu Giang trong năm 2010 mới đây, không sao có thể bù đắp được sự mất mác những di sản văn hóa nêu trên. Những di sản nầy vốn đã in sâu trong ký ức của người Cần Thơ và không bao giờ nhạt phai trong lòng cư dân các tỉnh Miền Tây.
04 Tháng Sáu 2011(Xem: 13051)
Hạnh phúc không phải do tìm kiếm là có được, mà phải do ta tạo ra...
04 Tháng Sáu 2011(Xem: 12764)
“Chúng ta có xem rẻ mạng sống của người Phi châu hơn mạng sống của chúng ta không? Bill và tôi cho rằng không có sinh linh nào mang giá trị hơn hay kém so với sinh linh khác. Chính sự công bằng này là lý do để quỹ từ thiện của chúng tôi hoạt động”
01 Tháng Sáu 2011(Xem: 13276)
Từ những chiếc lá mỏng manh, đơn giản, con người cũng có thể tạo nên những kiệt tác nghệ thuật. Quả thật, óc sáng tạo và tài năng của con người là không có giới hạn, hãy cùng chiêm ngưỡng những tác phẩm kỳ diệu này nhé!
29 Tháng Năm 2011(Xem: 13749)
Một Khoa Học Gia Gốc Việt, Tiến Sĩ Định Nguyễn, hiện là Trưởng Công Trình Nghiên cứu Chế tạo loại Vũ khí mới mang tên Free Electron Laser (FEL). Đây là loại Vũ khí mới để phá huỷ Hoả Tiễn tấn công của đối phương, kể cả Hoả Tiễn DF-21D của Trung Cộng
29 Tháng Năm 2011(Xem: 13649)
Sự tính toán chính xác ảnh hưởng của chăn nuôi đối với môi trường là cơn ác mộng toán học. Và dù tính chi li hay xuê xoa, dù chỉ là 5-10%, hoặc lên tới 50% lượng khí làm Trái đất nóng lên, thì ngành chăn nuôi vẫn thuộc loại hình hoạt động làm hủy hoại môi trường lớn nhất.
28 Tháng Năm 2011(Xem: 12922)
Ba triệu người Việt lưu vong là ba triệu trái tim nồng nàn vẫn yêu thương Việt Nam và thắp sáng mãi Sàigòn Hòn Ngọc Viễn Đông nay thắp sáng ở xứ người. Sàigòn đã ra đi và tương lai sẽ có lúc, Sàigòn trở lại, như một Châu Về Hiệp phố. Sàigòn khi ấy sẽ rực sáng tin yêu của Tự Do, Dân Chủ và Phú Cường.
26 Tháng Năm 2011(Xem: 12092)
Hãy quên đi chuyện cướp những máy bay, bởi vì, ông nói,những tên khủng bố sẽ không bao giờ cướp máy bay nữa, vì chúng biết rằng người trên phi cơ sẽ không khoanh tay và sẽ chống cự.. Aviv tin rằng an ninh phi trường hiện nay lỏng lẻo,chúng ta đã chỉ phản ứng thay vì đóng góp để kiện toàn hệ thống chông khủng bố hửu hiệu.
25 Tháng Năm 2011(Xem: 12197)
Bất cứ người dân nào cũng tò mò muốn biết: Chiếc VLHN của Mỹ có hình dạng như thế nào? Và bên trong nó có chứa đựng những gì? Thành phần và nguyên tắc hoạt động của chiếc VLHN luôn là bí mật
24 Tháng Năm 2011(Xem: 12072)
22 Tháng Năm 2011(Xem: 12520)
Đến nay thì 4 chiếc ấn, không biết ở đâu, ai giữ, nhưng theo Tô Vũ nghĩ thì chắc chắn ở trong tay của bọn cộng sản. Tuy nhiên cũng có tin đồn rằng Hoàng đế Bảo Đại giữ một chiếc bảo ấn bằng vàng
18 Tháng Năm 2011(Xem: 11937)
Họ tưởng tượng chiến tranh có thể kết thúc nhanh hơn. Rõ ràng, nếu chúng tôi nghỉ ra cách có thể kết thúc cuộc chiến tranh sớm, thì chúng tôi đã làm điều đó rồi
17 Tháng Năm 2011(Xem: 11955)
Chánh Án Jacqueline Nguyễn vừa được Thị Trưởng Antonio Villaraigosa và HĐTP Los Angeles vinh danh vào lúc 10 giờ sáng Thứ Sáu, 13 Tháng Năm, trong một buổi lễ tổ chức tại Phòng Thương Mại Los Angeles
15 Tháng Năm 2011(Xem: 13175)
Nghệ thuật “vẽ tranh” độc đáo trên cánh đồng lúa Nhật Bản Kể từ năm 1993, năm nào người dân làng Inakadate ở Nhật Bản cũng tạo những bức tranh tuyệt đẹp trên cánh đồng lúa, nhằm thu hút khách du lịch.
14 Tháng Năm 2011(Xem: 13068)
Louis Pasteur là một nhà bác học thực hiện được bốn lý tưởng: Niềm Tin, Hi Vọng, Lòng Bác Ái và Khoa Học (Faith, Hope, Charity and Science).
12 Tháng Năm 2011(Xem: 13144)
Người Mỹ đã sử dụng máy bay lên thẳng “tàng hình” trong chiến dịch bí mật đột kích tiêu diệt Bin Laden? Các mảnh vỡ còn sót lại của chiếc máy bay bị trục trặc cho thấy đây là loại máy bay lên thẳng khác hoàn toàn với các loại thông thường.
12 Tháng Năm 2011(Xem: 11967)
Hoa Kỳ sẽ đưa ra một hệ thống báo động công cộng mới sẽ thông báo cho các điện thoại di động trong trường hợp xảy ra một tình huống khẩn cấp. Hệ thống này được bắt đầu đưa vào sử dụng tại các thành phố New York và Washington DC và sẽ hoạt động trên toàn quốc chậm nhất là vào tháng Tư năm 2012.
12 Tháng Năm 2011(Xem: 11887)
Tập đoàn Boeing của Mỹ hôm 5/5 tuyên bố đã thử thành công máy bay ném bom tàng hình không người lái Phantom Ray tại căn cứ quân sự Edwards ở California vào ngày 27/4 vừa qua.
11 Tháng Năm 2011(Xem: 12127)
Ngũ GiÁc Đài đã đề nghị họ phát triển một mẫu máy bay hình chim có thể bỏ vừa trong túi quần để phục vụ việc do thám và trinh sát. Họ nói rằng, chiếc máy bay có thể giống một con chuồn chuồn hay chim ruồi.
08 Tháng Năm 2011(Xem: 12672)
Bí mật của chiếc máy đọc ý nghĩ này là một thể hình trụ nhỏ được cấy vào trong não con người, cài sẵn chương trình có khả năng nhận biết được những sóng não do não bộ tạo ra khi con người nghĩ đến một điều gì! Các nhà khoa học tin rằng thành công của nghiên cứu có thể ứng dụng cho những người bị tổn thương não.
08 Tháng Năm 2011(Xem: 13342)
Chuyển tiếp đến quý vị nào thích NGHIÊN CỨU tìm hiểu về Kinh tế thì đọc bài nầy mới thấy hay.
05 Tháng Năm 2011(Xem: 11333)
Bài viết và hình ảnh tổng hợp cập nhật, Biệt Kích Hải Quân Hoa Kỳ hoàn thành sứ mạng diệt tên khủng bố Bin Laden.. Xin mời Quý Vị theo dỏi…
24 Tháng Tư 2011(Xem: 28299)
Những hình ảnh và chú thích, hướng dẩn đến mộ phần của Cố Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM và thân nhân. Xin mời Quý Vị xem, phổ biến, giúp tài liệu cho những ai có lòng và cơ hội, muốn đến thăm nơi an nghĩ cuối cùng của Cố Tổng Thống và thân nhân.
22 Tháng Tư 2011(Xem: 14905)
Với mục đích ngăn chặn nạn làm giả, đồng 100 USD được thiết kế lại với nhiều họa tiết khó bắt chước hơn. Dự kiến, đồng tiền này sẽ chính thức được đưa ra lưu thông từ ngày 10/2/2011.
13 Tháng Tư 2011(Xem: 12332)
kho vàng của CDTLB New York được cho là kho vàng lớn nhất thế giới, nơi lưu trữ khoảng 1/4 trữ lượng vàng của thế giới. Hai trăm năm trước, danh hiệu này thuộc về ngân hàng Trung ương của Anh. Nhưng sau khi đế quốc Anh bước vào giai đoạn thoái trào và buộc phải bán vàng, nước Mỹ đã trở thành người mua lớn nhất của Anh, và kho chứa vàng của Anh giờ chỉ là kho chứa đồ
12 Tháng Tư 2011(Xem: 11663)
Trong năm 2007, Mỹ và chó mèo đã chết bất ngờ, họ thấy thực phẩm thú vật của Trung Quốc có chứa melamine. Đầu năm 2008, tại Trung Quốc, sự gia tăng bất thường trong trường hợp trẻ em bị sạn thận đã được báo cáo.