Đầu năm Mèo, giở sấm Trạng Trình đọc:
“ Mèo kêu rợn tiếng, quỉ ma tơi bời “
Đầu tiên là quỉ độc tài Ben Ali gặp năm xui, tháng hạn đụng phải anh bán hàng rong Bouazizi. Cứ ngỡ rằng, phú lít khuyển ưng, khuyển phệ của chúa độc tài Ali làm gì cũng được, sá gì chuyện đạp đổ gánh hàng của gã dân ngu, khu đen hèn mọn Bouazizi! Chẳng ngờ rằng người dân bé nhỏ đó, khi bị du vào bước đường cùng, trong cơn tuyệt vọng vùng lên lần cuối: Đem thân mình thắp sáng, làm ngọn đuốc soi đường, thức tỉnh dân tộc Tunisia tiếp bước, lật đổ ách độc tài Ben Ali, đưa cuộc cách mạng Hoa Lài đến thành công rực rở!
Kế đến, là Trùm sò Mu Bà Rắc của xứ Ai Cập huyền bí. Nhà độc tài 30 năm trường trị, nhất thống giang hồ, một sớm, một chiều bỗng thấy mình nằm trong củi sắt khiêng ra giáp mặt ba tòa công lý. Ông cũng còn may là chỉ bị xỉ nhục mà chưa mất mạng. Công lớn giải thoát ách độc tài cho nhân dân Ai Cập còn phải dành cho hàng sĩ quan trẻ sớm thức tỉnh, đứng về phía nhân dân, khiến cho công cuộc giải trừ chế độ độc tài áp bức sớm thành tựu.
Gã độc tài râu dê Ghadafi mới thật là thảm hại. Sau 8 tháng ra tay bắn giết điên cuồng khiến cho năm, sáu chục ngàn dân Libya mất mạng, rốt cuộc rồi chui cống chạy chết vẫn bị dân quân cách mạng lôi đầu ra bắn bỏ. Thây bị kéo nhục nhã, lê la trên đường phố, kết thúc 42 năm làm độc tôn hoàng đế cũng là tạm kết một giai đoạn của Mùa Xuân Ả Rập!
Việc khủng bố toàn cầu Bin Laden bị Seal Mỹ phơ, đem thây quăng xuống biển bỏ qua. Việc độc tài con con Assad xứ Syria còn cù cưa để đó.
Bây
giờ là độc tài đảng trị xứ xã nghĩa nhà ta. Sau 66 năm trên Miền Bắc, 36 năm
trên cả nước, ách độc tài toàn trị đè nặng trên dân tộc Việt Nam, xã hội chia
lìa, con giết cha, vợ giết chồng giành giựt của. Tham quan, ô lại từ trên chí
dưới mặc sức hoành hành, ra tay cướp giựt! Công an bắt người đánh đập là chuyện
thường ngày, nhiều trường hợp đánh chết người cũng vô tội vạ, có khi còn giả
côn đồ xông vô Nhà Thờ đánh đập giáo dân như trong sự kiện Thái Hà. Cảnh sát
thi hành pháp luật hành động như côn đồ, hoặc quăng lưới cá hoặc liệng dùi cui
vào bánh xe cho dân chạy xe té gãy cổ! Quan tòa xã nghĩa dụ vợ can phạm vô
phòng ngủ giảng luật xã nghĩa. Bí thư xã nửa đêm chun lộn địa chỉ vô mùng dzợ
dân giảng đạo đức đảng viên đảng cướp sạch. Ôi thôi! Còn nhiều “chiện” lắm
không sao kể xiết!
Ngày 5 tháng 6 năm 2011, trên xứ xã nghĩa xãy ra chuyện lạ lùng, có một. Trên hai đầu đất nước, đất Đồng Nai-Bến Nghé trên ba ngàn dân, đất Thăng Long cổ kính trên một ngàn dân Hà Thành, đồng đứng lên biểu tình “tự phát”, biểu lộ lòng yêu nước chống xâm lăng.
Từ bấy đến nay, đã 12 lần như vậy, qui mô lớn nhỏ khác nhau, bị vùi dập, bắt bớ, đánh đập nhiều ít khác nhau nhưng tấm lòng yêu nước sắt son vẫn còn y như vậy!
“ Tụ tập đông người” bị thiên triều ra lịnh cấm chỉ, lũ thổ quan, nha sai y lịnh thi hành. Bị ngăn cấm ngặt nghèo, ta nẩy ra sáng kiến. Mười lăm thanh niên nam, nữ đất Bến Nghé, cảm hứng “ Giọt Mưa Thu “, rủ nhau “Biểu tình thầm lặng trong mưa”, dong xe tà tà chờ cơ hội. Thấy vắng bóng bọn nha trão, ta dừng lại, hô khẩu hiệu một hồi rồi biến cuộc biểu tình thầm lặng thành “ biểu tình chạy “, khoát áo mưa NO – U, ta ngạo nghễ diễu qua dinh thái thú thành hồ. Nơi đất Bắc, Thăng Long Thành hoài cổ, Chị Minh Hằng đội nón lá bài thơ “Hoàng Sa – Trường Sa – Việt Nam” hiệp cùng các bạn mặc áo “lưởi bò bị cắt”, ta dạo bờ hồ Gươm, nhớ tích xưa vua Lê hoàn kiếm sau khi bình định xong giặc nhà Minh. Cũng nhớ lại tích xưa, mùa xuân Kỷ Dậu, Quang Trung Đại Đế hành quân thấn tốc vào Thăng Long, đánh đuổi bọn Việt gian Lê Chiêu Thống theo giặc xâm lăng nhà Thanh, Tôn sĩ Nghị chạy về Tàu. Cũng nhớ lại tích xưa, Đinh Bộ Lĩnh phất “ Ngọn cờ Bông Lau “ đánh dẹp thập nhị sứ quân, thống nhất đất nước, lập nền tự chủ “ Đại Cồ Việt “.
Tranh đấu ôn hòa bị đàn áp thô bạo, bỗng xãy ra sự kiện lửa cháy “Tháp đôi Hà Nội”! Có tổ chức xưng danh “Phong trào Toàn dân Cứu nước” ra tuyên ngôn nhận trách nhiệm về hành động nầy. Lập tức, có những người tự nhận “chủ trương tranh đấu bất bạo động” lên tiếng trên trang mạng, chỉ trích những ai tán dương hành động bạo lực nầy là chống cộng cực đoan, quá khích vì thù hận ngày trước.
Nhân dịp xuân về, xin gởi theo đây bài viết từ hơn mười lăm năm về trước, người tù Miền Nam dù cực khổ lẽ nào vẫn nhìn ngắm non sông gấm vóc Tổ tiên với tấm lòng thanh thản, không thù hận.
TIẾNG HÁT DƯỚI CHÂN RẶNG TRƯỜNG SƠN
Cảnh và Tình của người tù trên dất Bắc
Trong ánh nắng vàng le lói của buổi sáng mùa Đông lặng lẽ, tiếng hát run rẩy
cất lên:
Suối A Mai chảy dài ra Bến Ngọc
Đường ta đi qua Dốc Phục Linh
Đường ta đi đường nghĩa, đường tình
Đường đi hạnh phúc chúng mình đắp xây
Dưới chân Rặng Trường Sơn đoàn tù rách rưới, tả tơi, lầm lũi đào đấp theo tiếng
hát ẻo lả, ủ ê. Mà nào có phải là tiếng hát, chỉ là mấy câu "nói lối"
hững hờ của người tù tên Đạt, nguyên sĩ quan quân báo Tiểu Khu Bình Tuy. Anh
Đạt lúc nầy yếu đuối lắm rồi mà phải theo sự cưỡng ép của lũ tù gọi là Thường
Trực Thi Đua, tức là lũ tù phản tỉnh lập công, mà phải gắng gượng, xướng ca. Mà
mấy chữ cuối cũng không phải là "chúng mình đắp xây". Chính ra là
"chúng mình Thi đua", nên người viết tự ý sửa đi cho nó bớt mùi xã
nghĩa, làm hỏng đi vẻ đẹp của Sông Núi Trường Sơn.
A Mai là tiếng sắc tộc, gã tù chẳng hiểu nghĩa là gì mà cũng không ai bảo cho
gã biết, bèn tự giải thích liều là suối mang tên người con gái đẹp như đóa hoa
mai: Suối Nàng Mai. Cũng giống như tính khí thất thường của người đẹp, dòng A
Mai thay đổi theo mùa. Mùa khô hạn, nàng thu hình thành một dòng suối nhỏ, nước
trong vắt, dịu dàng, róc rách chảy về xuôi. Mùa mưa lũ, nàng dâng lên tràn ngập
bãi bờ thành dòng sông rộng, ào ạt cuốn trôi. Gặp nơi ghềnh đá chắn ngang, sóng
vỗ ghềnh, bọt tung trắng xóa. Một buổi trưa hè đổ lửa vừa buông cuốc ngồi bệt
nơi ghềnh đá ven bờ, nhìn về phía thượng nguồn, một chiếc bè tre phăng phăng
lướt xuôi dòng. Trước mủi bè, một em bé người sắc tộc đứng dạng chân, tay hoành
ngang ngọn sào tre, trông lẫm liệt khác nào Trương Phi hoành xà mâu, trấn giữ
cầu Trường Bản. Chiếc bè tre cơ hồ lao vào ghềnh đá, vậy mà phía sau người cha
thản nhiên ngồi. Kịp khi mủi bè sắp chạm vào ghềnh đá rồi nương theo sức bật
của dòng nước lùi ra, đứa bé nhẹ nhàng chọc chiếc sào tre vào vách đá. Chiếc bè
liền quay quắt, lướt xuôi dòng. Cảnh trí trông còn đẹp hơn cảnh Gable-Monroe
vượt "Dòng Sông Không Bao Giờ Trở Lại" trên phim ảnh. Gã tù vốn
gốc dân Xứ Thủ (Thủ Dầu Một - Bình Dương), thuở học trò, mỗi khi Hè đến,
vẫn bơi lội dọc ngang trên Dòng sông Thủ. Vậy mà có lần gã suýt vùi thân nơi
Dòng A Mai xinh đẹp mà cuốn hút đó. Buổi chiều, sau một ngày lặn
lội đường xa, cặp tre già nặng trĩu vai gầy. Vừa về tới bờ A Mai, gã tù
vất phịch bó tre, ngồi thở dốc. Rồi, thay vì đợi các bạn tù kết bè dã
chiến, vượt suối an toàn, gã cởi quần áo, lột dép cầm tay, một mình
lội đứng qua dòng. Có ngờ đâu lúc nầy tuổi gã đã ngoài bốn mươi
lại thêm bịnh đói triền miên, sức lực đã mỏi mòn. Cho nên mới ra tới
giữa dòng, gã đà kiệt sức. Khốn nỗi, nếu buông quần áo, nhất
là đôi dép độc nhất ra để rảnh tay bơi lội thì những ngày dài
sắp tới, khi vượt rừng, băng núi, gai gốc, đá tai mèo thì đôi chân
trần liệu sẽ ra sao? Cho nên gã đành đánh liều với số mạng, cố
gắng đến đâu hay đến đó. May sao vừa lúc ấy, chiếc bè phía
sau vừa lao tới, gã vươn tay bám chặt vật cứu tinh. Vậy là thoát nạn.
Suối A Mai chảy dài ra Bến Ngọc
...
Vượt rừng núi Lào Cai một đêm Hè mưa rơi tầm tã, xuyên qua Thị Xã Vĩnh Yên, đổ
xuống bến đò Ấm Thượng. Chiếc tàu sắt men theo sông nhánh, đưa đoàn tù Miền Nam
đổ bộ lên Bến Ngọc vừa lúc chiều buông. Cảnh chiều tà trên bến vắng thật là hiu
quạnh. Khói cơm chiều nhà ai vờn lửng lơ trên mái rạ. Gã tù ngẫn ngơ, mường
tượng trong tâm tưởng tiếng hát biệt ly sầu:
Bến ấy ngày xưa người đi
Vấn vương, biệt ly ...
Đàng trước mặt, nẻo mòn quanh co, mất hút trong cảnh rừng núi tăm tối, mịt mù.
Đàng sau lưng, dòng sông lặng lẽ, lững lờ trôi. Lòng người tù khoắc khoải, rồi
đêm nay biết sẽ về đâu? Vì ấn tượng ban đầu ấy mà về sau, mỗi lần trẩy qua Bến
Ngọc gã tù vẫn thấy lòng buồn man mác:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ
Mà cảnh ấy có gì vui? Trên bến vắng,
núi rừng Trường Sơn lặng ngắt. Dưới bến sông chỉ độc chiếc thuyền con đơn côi,
cắm sào đợi khách. Không gian vắng lặng như tờ. Vậy tại sao bến ấy có tên đẹp
đẻ là Bến Ngọc? Phải chăng vào thuở yên bình xưa cũ, khi lòng người còn thanh
thản, chưa nặng trĩu lụy phiền, một đêm trăng sáng, ánh trăng chiếu giải trên
bến vắng. Dòng sông gợn sóng lăn tăn, phản chiếu ánh trăng thanh, tỏa
sáng lấp lánh trông như ngọc. Vì vậy mới đặt tên là Bến Ngọc chăng? Rời Bến
Ngọc một quãng đường thì đã tới chân Dốc Phục Linh.
Khen ai khéo đặt tên Dốc Phục Linh, bởi vì mỗi lần qua là mỗi lần đờ đẫn, chỉ
vượt qua rồi mới lấy lại thần hồn. Ngày đó, toàn Trại Tân Lập, kể cả Phân trại
K6 giam tù "biệt kích" cũ của Miền Nam, đều kéo ra Bến Ngọc để vận
chuyển những gì còn lại của xác Trại Số 1, Lào Cai, bị Trung Cộng tràn qua biên
giới đánh sập. Lần đó, gã cùng một bạn tù khiêng một bó cột kèo nặng trĩu. Gã
bắt đầu vượt Dốc Phục Linh vào lúc trưa đứng bóng. Trời nắng chang chang, không
khí tan loãng, nhẹ tênh, mặc cho gã phì phò hít thở mà không hớp được bao nhiêu
dưỡng khí. Dốc thì dựng đứng, gánh nặng oằn vai, từng giọt mồ hôi chảy vào mắt
cay xè, gã dấn bước trèo lên một cách vô hồn. Chỉ khi được lịnh nghỉ, gã định
thần nhìn lại mới hay mình đang đứng trên đỉnh dốc. Nhìn quanh tìm kiếm, gã
không thấy nơi nào có đủ bóng râm tránh nắng. Những cụm tre thưa, những thân
cây còm cỏi làm sao tỏa được bóng râm mát mẻ? Gã bật ra tiếng chửi thề khi bỗng
nhiên nhớ lại mấy câu thơ tiền chiến chết tiệt của văn nô Tố Hữu:
Bận lên đã vậy, bận xuống cũng không phải nhẹ nhàng, phải ra sức kềm lại sức
nặng từ phía sau đẩy tới, có thể xô ngả xuống hố sâu bên vệ đường. Xuống hết
dốc một quãng thì bắt đâu vào xóm. Đường tuy bằng phẳng mà gã tù vì mệt mỏi nên
vẫn bước lặt lè. Phía trước mặt đi ngược lại, chị dân làng áo quần lếch thếch,
gánh nặng oằn vai. Vậy mà miệng không ngớt kêu thương, "Tội nghiệp các Bác
quá!" Mà nào ai biết ai tội nghiệp hơn ai? Lũ tù kia chiều nay còn có chén
"sắn dui" nho nhỏ tạm qua cơn đói khát. Còn Chị? Chiều nay biết chị
có mang về được chút khoai, sắn cho bầy con nhỏ để chúng được no lòng? Vậy mới
biết, giữa những người cùng khốn, tình yêu thương vẫn ấp ủ trong lòng.
Ngày nay, nơi xứ người, gã cựu tù vẫn mơ màng. Một mai khi nghiệp "Ác
Cộng" đã được giải trừ, gã sẽ về thăm lại chốn tù đày thuở nọ. Để có dịp
ngắm nhìn Bến Ngọc dưới trăng thanh, lấp lánh khoe ánh ngọc. Để buổi chiều tà
trên đỉnh Dốc Phục Linh, ngồi lặng ngắm bầy chim sãi cánh tìm về tổ ấm. Để đắm
mình trong Dòng A Mai trong vắt, rồi nửa đêm thao thức, văng vẳng bên tai xào
xạt, sóng bổ ghềnh.
Nguyễn
Nhơn