8:24 CH
Chủ Nhật
28
Tháng Tư
2024

Nguyễn Tất Nhiên, nhà thơ biểu tượng? (Phần cuối) Nguyễn Bảo Hưng

21 Tháng Hai 201212:00 SA(Xem: 17982)

Nguyễn Tất Nhiên, nhà thơ biểu tượng? (Phần cuối)

Posted: 19/02/2012 in Biên Khảo / Phê Bình, Nguyễn Bảo Hưng
Thẻ:

Nguyễn Bảo Hưng
Viết để tưởng niệm nhà thơ bất hạnh quá cố

blank
Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên (1952-1992) – Tranh Đinh Cường

Sau ngày 30-4-1975, thời gian còn kẹt lại ở Việt Nam, Nguyễn Tất Nhiên đã sinh sống ra sao ? Tôi nào có biết. Lo lắng cho số phận mình chưa xong, tôi đâu có thì giờ quan tâm đến chuyện người khác, nhất là giữa anh và tôi chẳng có một mối liên hệ thân tình nào. Mãi sau này tôi mới biết anh đã vượt biên trốn khỏi Việt Nam vào năm 1978. Thời gian ba năm kẹt lại ở Việt Nam anh có phải đi cải tạo như tôi, hay may mắn không thuộc diện phải ra trình diện học tập ? Nhưng dẫu có thế nào chăng nữa, tôi cũng phỏng đoán là anh không thể thích nghi với khung cảnh sống đột ngột đổi mới này. Bản chất con người thơ chân phương, chắc chắn anh cảm thấy bị chết ngộp trong cuộc sống khuôn đúc chỉ đòi rập ra một loại tình cảm đơn điệu. Làm sao anh tìm ra được cảm hứng trước cảnh người người buộc phải đeo mặt nạ để làm bộ nhảy múa reo mừng. Bởi vậy bất chấp gian nan hiểm nghèo, anh quyết định tìm đường ra đi. Anh tìm đường ra đi do thôi thúc của hồn thơ sáng tạo, như cánh én tìm về phương nam nắng ấm theo tiếng gọi của bản năng. Phương nam, với anh, là không khí tự do trong lành, điều kiện phát triển hồn thơ anh. Và ước mơ của anh trở thành hiện thực : Sau bao gian nan trắc trở, cuối cùng anh được đặt chân lên đất Pháp, quốc gia đầu tiên tiếp nhận anh là dân tị nạn.

Pháp quốc ! Đất nước của Cách Mạng 1789. Cái nôi của Bản Tuyên ngôn Nhân quyền. Quê hương của Victor Hugo, của Lamartine, của Baudelaire, của Prévert…, những nhà thơ đã bao lần anh được nghe nhắc tên tuổi… Ôi ! Ba Lê, thủ đô của ánh sáng, trung tâm văn hóa nghệ thuật thế giới ! Cái địa danh mỗi lần được nghe nhắc đến đã làm dấy lên trong anh biết bao ước mơ thầm kín, nay không ngờ lại trở thành hiện thực. Nhưng sau vài buổi đi dạo trên đại lộ Champs-Elysées như một du khách nhàn hạ, nhìn ngắm những cửa tiệm nguy nga tráng lệ, các dòng người qua lại như mắc cửi, chẳng mấy chốc cái tâm trạng lâng lâng phơi phới ấy đã biến đi để nhường chỗ cho một nỗi ê chề buồn tủi khi anh phải đối diện với hiện thực. Ôi, Tự Do ! Tự Do ! Hai chữ Tự Do anh hằng mơ ước chỉ có là vậy sao ? Ở Việt Nam sau 75, vì không được sống và bày tỏ cảm xúc theo ý muốn, anh ao ước tự do, thèm khát được ca ngợi tự do. Nhưng nay được sống trên mảnh đất tự do, sự háo hức ca ngợi tự do nay chỉ như một đống tro tàn. Ở một xứ mà tự do đã trở thành thứ không khí thở hít hàng ngày, mấy ai còn cần tới anh ca tụng hai chữ Tự Do nữa. Riêng với bản thân anh, hai chữ Tự Do nay cũng chỉ đồng nghĩa với tấm thẻ tị nạn công nhận anh được quyền sinh sống và tìm kiếm công ăn việc làm trên đất Pháp mà thôi. Và anh đã bộc lộ nỗi niềm thất vọng đầu tiên bằng lời lẽ cay đắng như sau :

kẻ vượt biển đã tới bến mạnh lành
nhưng chết ngay khi đặt chân lên bờ đất
kẻ leo rào đã chụp được Tự Do
nhưng tức thời buông tay bổ ngửa
là ta.
(Nguyễn Tất Nhiên : « Chuông Mơ, Paris, khúc tháng chin », tr.8. Văn Nghệ xuất bản – California 1987)

Trước đây, khi còn ở Việt Nam, anh đã được nghe ca tụng biết bao điều về Paris . Nào là thủ đô của ánh sáng, nào là trung tâm của văn hóa nghệ thuật, nào là ga Lyon đèn vàng nơi đưa tiễn em về xứ mẹ. Rồi lại còn những buổi hẹn hò với người em gái tóc vàng, mắt xanh, sợi nhỏ trong căn gác trọ nữa… Ôi, mấy lời thơ phổ nhạc ấy, mỗi lần nghe có ai cất lời ca, anh lại thấy cuộc đời ở bển sao mà nó ồ mề lý, mế ly đời ta thế …. Nhưng nay có mặt trên xứ sở của văn hóa nghệ thuật rồi, anh lại không tìm ra được nguồn cảm hứng sáng tác. Những lời lẽ diễn tả tâm tình của một vài chàng trai được qua Pháp du học trong khoảng thập niên 1950-60 có thể là những rung cảm chân thành đấy. Nhưng ở cương vị một kẻ tị nạn, nếu anh vẫn đem tâm tình ấy ra hâm lại bằng những vần điệu cũng mang hơi hướng thơ Cung Trầm Tưởng, Nguyên Sa, anh biết chắc sẽ chỉ nặn ra được một thứ văn chương văn nghệ, văn chương ảo giác mà thôi. Là con người thơ để nói lên tiếng nói chân thật, anh đành gửi gấm nỗi lòng qua mấy lời lẽ thô kệch như sau :

em thì xa quá xa
làm sao nghe tiếng dội dồn
hơi thở người
vỗ theo từng nấc thang cây xưa rích
Paris
ta mỗi bữa lếch thếch leo
mút bảy tầng
sống – tóc cọ quẹt nóc nhà
sống – nơi đặc biệt
dành riêng cho hạng ở đợ.
(Chuông Mơ, bdd. tr.9)

Phải chăng tâm sự ê chề này đã thúc đẩy anh rời bỏ cái xứ sở anh hằng mơ ước để xin tới định cư tại quận Cam bang California có nhiều nắng ấm, là nơi anh nghe nói tề tựu hầu hết tập thể người Việt tị nạn và cũng là nơi anh mong tìm lại được bàu không khí quê hương.

Thời gian lưu lạc tại Mỹ, anh sinh sống ra sao ? Tôi không may mắn, ít có hân hạnh được quen biết nhiều các giới văn nghệ sĩ nên không có điều kiện để thăm hỏi những gì họ biết về anh. Nhưng có lẽ nhờ vậy, tôi đỡ tốn thì giờ, mất công lọc lựa để lấy ra một vài dữ kiện hữu ích trong số các mẩu tin thuật lại, phần đông thường là giai thoại có thêm mắm thêm muối để tăng phần hấp dẫn. Rút cục, tôi đành trông cậy vào mớ tư liệu cỏn con tôi gom góp được. Cái mớ tư liệu ấy, vỏn vẹn chỉ có một số ít bài thơ của anh và dăm ba bài báo nói về cái chêt của anh hoặc nhắc nhở tới anh. Tư liệu như vậy, quả là có ít. Nhưng may mắn thay, trong số này lại lọt vào một bài viết đặc biệt của Khánh Trường. Khánh Trường ! Cái tên nay được nhắc đến như là họa sĩ hơn là nhà văn, nhà báo. Vậy mà cũng cái tên ấy, trong năm đầu của thâp niên chót thế kỷ trước, đã có lần gây náo động trong giới cao thủ võ lâm chuyên nghề múa bút ở hải ngoại vì cho ra mắt tạp chí Hợp Lưu với chủ trương đi tìm sự hòa giải hòa hợp bằng con đường văn hóa dân tộc và nhân bản (11). Nhưng hôm nay tôi có nhắc đến Khánh Trường, không phải để nói về anh, mà vì cái bài anh viết về Nguyễn Tất Nhiên trên tờ Hợp Lưu số 58 tháng 3&4 năm 2001 khi anh còn đứng tên chủ biên và giữ mục ngày… tháng… dưới bút hiệu Kim Thi. Trong bài viết này, phần nói về Nguyễn Tất Nhiên vỏn vẹn có bảy trang thôi (H.L 58, tr.118-124). Nhưng với tôi, đây là một tài liệu quí giá còn hơn cả thỏi vàng ròng : Vào buổi chạng vạng tối giữa mùa đông rét mướt, có kẻ lại thích lang thang vào nghĩa trang đi tìm sưởi ấm tâm hồn giữa những tấm mộ bia, thì những điều người ấy nói lên về một con người đã khuất, tôi tin phải là lời lẽ của một tấm lòng. Bởi vậy, bằng một phương pháp tiếp cận văn học mới và dựa trên những điều Khánh Trường viết ra, tôi hi vọng có thể tìm hiểu thêm về con người thơ Nguyễn Tất Nhiên, diễn biến tâm hồn anh trong giai đoạn cuối đời để rồi đi đến quyết định tối hậu (ít ra là cũng theo óc tưởng tượng và cảm nhận của riêng tôi).

Những ngày đầu được sống trong khung cảnh sinh hoạt của khu Little Saigon với những cửa tiệm, hàng quán y hệt Sài Gòn và giữa những đồng hương có người chỉ thích nói toàn tiếng Việt làm như không cần biết tiếng Mỹ là gì, anh tưởng mình đã là cánh chim tìm được về tổ ấm. Nhưng chẳng bao lâu cảm giác lạc lõng bơ vơ lại trở vê với anh. Và hơn bao giờ hết anh mới thể nghiệm được điều mà anh đã linh cảm qua mấy lời thơ anh thốt ra tại Việt Nam khi vừa mới đôi mươi:

Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ
phải ê chề cho tóc bạc với thời gian
phải đau theo từng hớp rượu tàn
phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định !
(Giữa Trần Gian Tuyệt Vọng, 1972, Khánh Trường trích lại – H.L 58 bdd, tr.219)

Điều mà anh linh cảm, ấy là cái bất hạnh anh sinh ra thuộc dòng dõi các nhà thơ mang số kiếp bị nguyền rủa (la race des poètes maudits). Lỡ sinh ra với nghiệp chướng (hay thiên chức ?) phải (được ?) là nhà thơ chỉ có thể nói lên những lời thơ đậm đặc tâm hồn Việt Nam, anh cảm thấy không thể hội nhập xã hội mới như những người khác. Trong lúc mọi người hân hoan phấn khởi như kẻ vừa thoát địa ngục tới được thiên đàng, thì anh lại càng thấm thía điều mà anh đã linh cảm sau khi được đặt chân lên đất Pháp :

phải, ta đánh rơi ta
nát vụn
sau khi đánh rơi Việt Nam
bên kia bờ biển mịt .
(Chuông Mơ – bdd, tr.9)

Ta đánh rơi ta nát vụn, bởi vì cái Hạnh Phúc và Tự Do khiến anh phải liều mạng vượt biển để tìm kiếm đâu có phải chỉ là sự mưu tìm một khung cảnh tồn tại thích hợp đáp ứng cho nhu cầu hưởng thụ của một sinh vật chỉ thích sống phóng túng theo bản năng ? Và tự do tư tưởng đâu có phải chỉ là quyền ăn nói vô tội vạ bằng những lời đao to búa lớn để, hễ gặp dịp, là phang ngay một trận, bằng không thì lại sực mùi bốc thơm ? Bởi vậy trong khung cảnh sống mới mẻ mà mọi người đều cho là thích hợp, anh lại sống như một kẻ mộng du. Và chỉ những kỷ niệm xa xưa với những hình ảnh và rung cảm thuần khiết Việt Nam mà anh gợi lại qua mấy bài thơ như Nhớ Nội, Cứ Ngỡ Như Là Mới Nhớ Thôi, Chở Em Đi Học Trường Đêm… mới làm anh thức tỉnh như những hồi « Chuông Mơ ». ( mời coi phần phụ lục). Trạng thái mộng du ấy ngày càng ăn sâu vào tâm thức anh để rồi dần dà biến thành một thứ bệnh hoang tưởng. Là người sống gần gũi bên anh, Khánh Trường đã ghi nhận những biến chuyển trong tâm hồn anh như sau : « Những tháng cuối cùng trước khi tự chọn cho mình cái chết bằng những viên thuốc, bệnh tình Nguyễn Tất Nhiên khá nặng, hắn thường xuyên sống đật dờ trong thế giới khác, đầy ắp hoang tưởng… Ám ảnh và hoang tưởng mỗi ngày mỗi nặng, chúng tôi ngại rồi sẽ đến lúc Nhiên hoàn toàn không còn biết mình là ai. » (Hợp Lưu 58 ; bdd. tr.219-220). Cái mà mọi người đều cho là bệnh hoang tưởng ấy, theo tôi, chính là biểu hiện của hội chứng (syndrome) một não trạng không thích nghi được với môi trường sống mới. Thế nhưng, đồng thời với sự phát triển của chứng bệnh hoang tưởng ấy, có lúc Khánh Trường lại phát hiện nơi Nguyễn Tát Nhiên sự kiện đặc biệt như sau : « Thế mà, lạ lùng thay, giữa cõi tối tăm của tâm thức mù lòa ấy, lại lóe sáng những tia lửa của tài hoa khi Nhiên chạm đến thơ ca. Những sáng tác của Nhiên thời kỳ này chân thật đến nao lòng. » (HL 58 ; bdd. tr.220). Và Khánh Trường đã dẫn chứng bằng bài thơ « Buồn ơi… » mà tôi lấy ra một vài trích đoạn sau :

buồn ơi…
tôi bỏ tôi chìm đắm
trong tiếng làm thinh của ghế bàn
ghế bàn không xẻ chia sầu thảm
nhưng biết làm thinh lặng cảm thông

buồn ơi tôi muốn như bàn ghế
chịu đựng đời không biết thở than!
(…)
buồn ơi…
tôi bỏ tôi rời rã
bất lực làm sao trước cuộc đời

ừ nhỉ, bây giờ tôi mới biết
ghế bàn nên kính trọng như thầy
bàn ghế dạy tôi diều nhẫn nhục
dạy tôi bình thản thứ tha đời

buồn ơi tôi muốn như bàn ghế
thương đời như thể bỉ khinh tôi!
(…)
buồn ơi…
tôi có tôi-bàn-ghế
nguyện hiến cho đời một tấm lưng.
(Hợp Lưu 58; bdd. Tr.221-222)

Mấy câu “buồn ơi…” này của Nguyễn Tất Nhiên làm tôi nhớ lại hai câu thơ trong bài “Milly ou la terre natale” của Lamartine mà hồi còn là học sinh trung học tôi vẫn thích chép đi chép lại tuy đã thuộc làu làu :

Objets inanimés avez-vous donc une âme
Qui s’attache à notre âme et la force d’aimer ?

Hỡi vật vô tri, phải chăng các ngươi cũng có một linh hồn
Đã quyện vào hồn ta làm ta phải biết luyến thương ?

Giờ đọc lại, tôi thấy hai câu trên, thơ thì có thơ thật, nhưng tâm tình của Lamartine hãy còn thuộc về cái chung thiên hạ, vẫn chưa ra khỏi cái thiên la địa võng của những công thức ước lệ, và hình thức diễn tả hãy còn ít nhiều trí tuệ : Chúng chỉ nói lên tâm trạng hoài niệm các cảnh vật làm ta gắn bó và tìm cách lý giải nỗi luyến nhớ ấy. Cái buồn của Nguyễn Tất Nhiên, trái lại, cô quạnh hơn, cá thể hơn, đau đớn hơn : Nó là tiếng kêu tuyệt vọng của một nỗi cô đơn cùng cực không tìm ra được sự đồng cảm nơi những người đã từng trải qua những cảnh ngộ như mình, đành phải tìm an ủi nơi bàn ghế là những vật vô tri vô giác, nhưng lại đươc coi là những nhân chứng biết cảm thông.

Trước mấy câu thơ này, Khánh Trường thắc mắc tự hỏi : « Tôi chịu, không thể nào hiểu hắn làm những bài thơ ấy vào lúc nào, và cái gì đã giúp hắn tỉnh táo để có thể nặn ra được mớ chữ nghĩa giàu hấp lực kia. Cái hấp lực người bình thường chúng ta thúc thủ, đã đành, mà ngay cả nhiều tài năng thi ca khác cũng sẽ vất vả vô cùng, nếu muốn thủ đắc. » (Hợp Lưu 58 ; bdd. tr.220). Cái hấp lực của mấy câu thơ xuất thần ấy, theo tôi, ấy là những lúc anh được trở thành kẻ thấu thị (le voyant) theo chữ của Rimbaud, nghĩa là những lúc anh hoàn toàn thức tỉnh và tìm lại được cái ngã con người thơ đích thực nơi anh, chứ không phải cái « Tôi là kẻ khác » (Je est un autre – Rimbaud) (12), tức thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên dưới con mắt người đời.

Cuối cùng, bởi không tìm ra được sự đồng cảm, nên Nguyễn Tất Nhiên cứ phải buồn, nên Nguyễn Tất Nhiên sinh tuyệt vọng. Để rồi, một sớm thu, anh đành đi tìm quên lãng. Anh đi tìm quên lãng trong một khung cảnh thanh tịnh hài hòa của một sân chùa vắng vẻ. Nơi đây chỉ có lá rơi xào xạc. Nơi đây chỉ có chim muông ca hót. Nơi đây anh được gần gũi với thiên nhiên. Nơi đây anh được trở về với cuộc sống cội nguồn.

Nguyễn Tất Nhiên ! Thế là anh lại quyết chí ra đi. Anh đã ra đi thật rồi. Anh ra đi để đi tìm quên lãng. Anh ra đi để được đi vào lãng quên. Nhưng sao hôm nay tôi lại chợt nhớ tới anh. Nhưng sao hôm nay tôi lại thèm được ở bên anh. Thèm được ở bên anh trong những giây phút ngắn ngủi ấy. Thèm có mặt bên anh để, nếu không xin được làm kẻ đồng hành, thì ít ra cũng chúc anh hoan hỉ lên đường.

Nguyễn Tất Nhiên ! Người đời đã chỉ muốn nhìn anh nằm ngủ vùi trong chiếc Toyota cũ kỹ như một con người thua cuộc. Nhưng tôi, tôi thấy anh ra đi thật cao cả ! Nhưng tôi, tôi thấy anh ra đi rất tuyệt vời ! Nguyễn Tất Nhiên, anh ! Anh ra đi dẫu có trong lãnh đạm. Anh ra đi dẫu có giữa thờ ơ. Nhưng anh ra đi sao làm tôi lại ham muốn. Nhưng anh ra đi sao bắt tôi phải thèm thuồng. Trong bộ quần áo nhàu nát cùng với gương mặt tóc râu bờm sờm ấy, anh chính là hình ảnh của người khách phong sương muôn thuở, yêu sóng cả sông dài, yêu trời cao biển rộng. Và chiếc Toyota cũ kỹ chính là chiếc xe lãng tử sẵn sàng đưa anh tới những phương trời lộng gió. Cõi sống này sao nó nham nhở kệch cỡm quá ! Nên anh buộc lòng phải dứt khoát ra đi.

Cuộc viễn du lần này tôi biết anh chuẩn bị đã từ lâu. Anh chuẩn bị âm thầm lặng lẽ. Anh chuẩn bị trống trải cô đơn. Anh chuẩn bị mà không muốn thố lộ cùng ai. Bởi vì, đã mang tâm tư khát vọng ấy, và trong cõi đời ấy, có nói năng chi cũng thừa.

Trước giờ khởi hành, tôi biết anh hân hoan phấn khởi lắm. Tim anh rộn ràng. Mắt anh ngời sáng. Tai anh nghe trổi dậy khúc nhạc giục dã với những lời mời gọi quyến rũ như những vần thơ kết thúc bản trường ca « Viễn Du » của nhà thơ Baudelaire (13) :

O Mort, vieux capitaine, il est temps ! levons l’ancre !
Ce pays nous ennuie, O Mort ! Appareillons !
Si le ciel et la mer sont noirs comme de l’encre,
Nos cœurs que tu connais sont remplis de rayons !

Verse-nous ton poison pour qu’il nous réconforte !
Nous voulons, tant ce feu nous brûle le cerveau,
Plonger au fond du gouffre, Enfer ou Ciel, qu’importe ?
Au fond de l’inconnu pour trouver du nouveau !
(Baudelaire : Le Voyage.- Les Fleurs du Mal – p.186; GF Flammarion , Paris, 1991)

Hỡi Thần Chết, vị thuyền trưởng già nua, tới giờ rồi !
nhổ neo thôi !
Cõi này làm ta chán ngấy, hỡi Thần Chết ! Nào ta lên đường !
Nếu trời và biển đều tối đen màu mực,
Tâm can ta, ngươi cũng biết, lại chan hòa ánh sáng !

Hãy rót trong ta chất độc dược làm ta hưng phấn !
Bởi có ngọn lửa đang hừng hực trong não nên ta muốn
Lao xuống đáy vực thẳm, dù Địa Ngục hay Thiên Đường,
có xá chi ?
Miễn là ở tận cùng cõi xa lạ kiếm ra được cái mới mẻ.

Những người lính ở tuyến đầu thường lâm vào cảnh khốn quẫn, bị địch bao vây tứ bề. Những lúc đó họ thường có quyết định táo bạo là đánh thốc vào địch để phá vỡ vòng vây. Nhờ vậy cũng có lúc họ thoát hiểm. Về tới đơn vị, với đồng đội, khi kể chuyện lại cho nhau nghe, họ chỉ tóm gọn hành động gan dạ đó trong câu nói cụt lủn : « Đi vào cái chết để tìm ra cái sống ! »

Nguyễn Tất Nhiên ! Khi bóng đêm bỗng đổ ập xuống mảnh đất thân yêu, anh đã một lần vượt trùng dương đi vào cái chết để tìm ra cái sống. Nhưng những nơi anh được đặt chân tới vẫn chưa làm anh toại nguyện. Bởi vậy lần này anh quyết tâm xông thẳng vào Cõi Chết để tìm ra Sự Sống. Giờ này anh hẳn đang ở chốn hào quang rực rỡ, nơi đó anh đã gặp được Chân, Thiên, Mỹ anh hằng mơ ước.

Nguyên Tất Nhiên ! Xin chào Anh, người chiến sĩ tiên phong dũng cảm ! Cám ơn Anh đã để lại cho chúng tôi những ý thơ tuyệt vời !

Nguyễn Bảo Hưng
Viết xong ngày 28-01-1012 – Đầu xuân Nhâm Thìn
Nguồn: Tác giả gửi


(11) … « Chúng tôi quan niệm rằng, tác phẩm, dù rằng đứng trên quan điểm nào, nếu thực sự giá trị, thực sự đáp ứng được lòng mong muốn của đa số độc giả thầm lặng, thì dứt khoát đó phải là tiếng nói nhân bản (chữ in đậm do tôi NBH), tiếng nói của lòng lương thiện. Văn học nghệ thuật không chỉ đáp ứng cho hiện tại, nó sống mãi với thời gian. Chế độ chính trị nào rồi cũng qua đi, cái còn lại sẽ vẫn là cái cận nhân tình, cái đẹp, cái tốt.. Lịch sử là thước đo chuẩn xác nhất để minh định giá trị thực sự của một tác phẩm. Vài mươi năm sau, mọi nhãn hiệu tự gắn hay bị gắn cho người cầm bút sẽ được bóc đi, còn lại chăng vẫn là cái cốt lõi. Đó là một sự thật, dù biện minh cách nào chúng ta cũng không thể phủ nhận…

… Chính vì vậy, trong tiến trình thực hiện hợp lưu văn hóa (bao gồm giữa trong và ngoài nước lẫn Việt Nam với thế giới), điều trước tiên phải phục hồi văn hóa dân tộc. Muốn phục hồi văn hóa dân tộc, phải có tập hợp dân tộc, ở đó mọi thành phần không phân biệt quá khứ chính trị hay địa dư đều có đất đứng, đều cùng góp công sức của mình để đáu tranh loại bỏ mọi thé lực độc tài, chuyên chính, bị trị, vốn là nguyên nhân gây ra thực trạng bi thảm hiên nay tại quê hương. »
(Hợp Lưu số 1 tháng 10-1991 : « Thư tòa soạn », tr.4-5)

(12) Để nắm được ý nghĩa đúng câu « Je est un autre » của Rimbaud, trước hết ta hãy xét về mặt ngữ pháp (syntaxe). Bình thường, ta phải viết hoặc « Je suis un autre » hoặc « Il est un autre », có thế mới đúng với cách chia vẹc bờ của mấy ông Tây. Vậy mà Rimbaud đã cố ý viết sai mẹo văn phạm, ấy là vì ông muốn lưu ý ta rằng cái mà ta vẫn xưng tôi (je) để phân biệt với anh (tu), với nó (il) trong giao tiếp xã hội hàng ngày, thực ra nhiều khi chỉ là cái tôi nhân vật, cái tôi ta muốn được là, cái tôi ta thích hiện ra trước mắt mọi người, chứ không phải là cái tôi mang bản ngã ta đích thực.

Nhưng khi viết ra câu này, chủ đích của Rimbaud không chỉ nhằm lột mặt nạ cái tôi giả mạo, cái tôi kẻ chiếm chỗ (l’usurpateur), cái tôi nhân vật xã hội, mà là để nói lên cái thiên chức của nhà thơ, theo ông. Muốn nắm được cái tinh hoa trong câu nói của Rimbaud, ta cần đặt nó trong ngữ cảnh (contexte) được viết ra.

Rimbaud đã viết câu « Je est un autre » hai lần trong hai lá thư, được biết dưới tên gọi « Lettres du voyant » (Những lá thư của kẻ thấu thị) : một cho thầy dạy là Georges Izambard (13-5-1871), và một cho người bạn là Paul Demeny (15-5- 1781). Đặc biệt trong thư gửi thày học có đoạn viết như sau : « Je veux être poète, et je travaille à devenir voyant… Il s’agit d’arriver à l’inconnu par le dérèglement de tous les sens… C’est faux de dire : Je pense : on devrait dire : On me pense… Je est un autre. » (Rimbaud : Poésies complètes – Le Livre de Poche.- Librairie Générale Française, 1984 ; p.200). (Tôi muốn được là nhà thơ, và tôi đang lao tác để trở thành kẻ thấu thị nghĩa là đạt tới cõi xa lạ bằng cách làm nhiễu loạn mọi giác quan của mình. Nói rằng : Tôi suy tưởng là không đúng. Lẽ ra ta phải nói : người ta suy tưởng trong tôi… Tôi là một kẻ khác.) Đoạn văn tuy ngắn ngủi nhưng đậm đặc ý nghĩa : Nó đưa ra cái nhìn mới mẻ, có thể nói là cách mạng, của Rimbaud về thi ca. Trước hết nó đánh dấu một đoạn tuyệt với các dòng thi ca truyền thống, đặc biệt là với dòng thi ca lãng mạn trước nó. Với Rimbaud, cái tôi vẫn là nguồn cảm hứng và được dùng làm chất liệu cho các nhà thơ lãng mạn không phải là cái tôi đích thực. Không hẳn là các nhà thơ ấy thiếu chân thành. Nhưng những tâm tình mà họ ưa đem ra kể lể ấy, thực ra chỉ là cái tôi mang tâm thức của một tập thể, của một thế hệ, của một thời thượng đã xâm nhập và lấn át cái tôi mang bản ngã đích thực nơi mỗi người chúng ta. Đó là ý nghĩa của câu : « On me pense ». Bởi vậy, nhà thơ muốn nói lên được cái tôi đích thực, phải tìm cách tự giải thoát khỏi cái « Je est un autre » bằng cách làm nhiễu loạn mọi giác quan (le dérèglement de tous les sens) để cởi bỏ mọi cảm nghĩ,suy tư đã xếp nếp. Có thế ta mới mong được trở thành kẻ thấu thị (le voyant) để nói lên cái ngã đích thực (le vrai moi) nơi ta.

Câu « Je est un autre », Rimbaud viết ra khi mới sắp tròn 17 tuổi, vậy mà chẳng mấy chốc đã trở thành câu nói để đời. Ấy bởi nó là kết quả của của một khổ công tư duy tìm kiếm để sáng tạo cách tân, chứ không phải chỉ là một hình thức viết loạn chiêu để hù hè thiên hạ.

(13) Charles Baudelaire (1821- 1867) được tôn là huynh trưởng của Verlaine, Rimbaud, Mallarmé trong dòng thơ biểu tượng. Ông cũng được coi là người sáng chế ra loại « Thơ bằng văn xuôi » (poésie en prose) với nhiều bài « Thơ bằng văn xuôi » (Poèmes en prose ) đăng rải rác trên nhiều nhật báo. Nhưng tác phẩm khiến tên tuổi ông được nhắc đến nhiều nhất đó là tập « Les Fleurs du Mal » (1857). Trước tiên, với người đương thời, vì ngay khi tập thơ được in ra, ông đã phải vác chiếu hầu tòa (cũng như Gutave Flaubert với cuốn « Madame Bovary » vài tháng trước đó) do một số bài thơ bị liệt vào hạng văn hóa đồi trụy. Nhưng tên tuổi Baudelaire được lưu truyền hậu thế không phải nhờ vào mấy bài thơ gây tai tiếng ấy, mà do những giá trị tiêu biểu của tập thơ ông. Trước hết là những bài thơ nói lên nhãn quan và mỹ học biểu tượng : Thiên nhiên là khu rừng mà mỗi gốc cây là một biểu tượng và ở đó mọi giác quan đều có thể tương ứng đối đáp nhau. (« Correspondances », Sdd. tr 62-63). Bên cạnh đó là một số bài thơ khác đưa ta vào một thế giới mới mở đường cho thi ca hiện đại: thế giới của những điều cấm kỵ, thế giới của le Mal. Le Mal, : cái từ chủ chốt mà theo dòng văn học phải đạo chính thống thời ấy, và ngay cả tới giờ, những gì có dính líu tới le Mal phải được coi là điều cấm kỵ nghĩa là ta chỉ được quyền nói lên để làm dấy lên những cảm giác khinh khi, ghét bỏ chứ không phải để ca ngợi. Vậy mà nhãn quan của Baudelaire lại khác. Ông cho rằng ở những cái mà người đời cho rằng chỉ đáng khinh thường, ghét bỏ vẫn có phần nào của cái đẹp cần được nói lên (như nọc rắn cũng có thể biến thành một thứ thần dược). Đó chính ý nghĩa của cái tựa ông đã chọn cho tập thơ của ông : « Les Fleurs du Mal » = « extraire la beauté du Mal » hay là nói lên cái đẹp chắt lọc từ những cái được coi là tồi bại xấu xa. Thí dụ như bài « Le vin des chiffonniers. Sdd. tr.152-153 » (Men say của những người lượm giẻ rách) : Dưới ánh đèn vàng héo hắt của một khu phố ngoại ô tồi tàn dáng đi siêu vẹo chuếnh choáng hơi men của một người chuyên nghề lượm rẻ rách, miệng nói lảm nhảm, tự xưng mình là vua chúa đang ban phát ân huệ cho thiên hạ. Hình ảnh đó, nói chung, được coi là biểu hiện cho sự sa đọa bệ rạc. Nhưng với Baudelaire lại khác. Bằng cặp mắt nhân bản và cảm thông, ông lại phát hiện vẻ đẹp siêu thoát toát ra từ cảnh ngộ của một kiếp sống lầm than tăm tối chỉ biết tìm an ủi trong say sưa để được sống huy hoàng chốc lát với ảo ảnh hào quang về mình.

PHỤ LỤC

Sau đây là mấy bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên trong tập « Chuông Mơ » (1987) được nhắc tới trong bài viết :

nhớ nội

mưa nắng hai mùa trên xứ nội
vun trồng từng luống mạ vồng khoai
mấy dây trầu « lẹt » tươi màu lá
ôm ấp hàng cau với tháng ngày

ngoài ngõ dàn bàu rợp bóng trưa
bờ nương lả ngọn mấy cây dừa
đàn gà tíu tít bương tìm thóc
đống lúa phơi vàng sân gió đưa

no gió diều lên ở cuối đê
ca dao quê cũ ngọt hương thề
phên tre mái lá hai bà cháu
hủ hỉ vui ngầm hưởng thú quê

từ lúc giặc về, con biệt xứ
nát lòng chim quốc nhớ quê hương
mấy thu vàng úa đời xa cội
chẳng biết mộ phần nội có yên ?
(Anaheim, Ca. Ngày 28-12-82)

cứ ngỡ như là mới nhớ thôi

tâm hồn tôi có một dòng sông
chảy qua nhà cô bạn chung trường
chiều sông dâng sóng miên man gió
bay tóc bay hồn tôi thanh tân…

tâm hồn tôi có một bờ sông
bên cạnh nhà cô bạn chung trường
chiều miên man gió sông dâng sóng
dâng tuổi dâng tình tôi mênh mông…

tâm hồn tôi thức trắng đêm dài
em bay áo trắng nắng ươm mây
chiều êm nắng rủ nhau đi ngủ
trên tóc ai lành ru ngủ vai…

tâm hồn tôi có quẩn quanh tôi
có một sông quanh khúc quẩn đời
có một bàn tay ôm cặp, gói
cả mộng mơ kia, luyến tiếc này…

tâm hồn tôi có tuổi thơ tôi
có một bâng khuâng thức trắng đời
đời cứ rủ nhau đi ngủ cả
tôi thức cho buồn ngỡ… mới thôi
(Westminter, Ca. Ngày 04.7.87)

chở em đi học trường đêm

chở em đi học mưa, chiều
tóc hai đứa ủ đôi điều xót xa
mưa thánh thót, mưa ngân nga
(hình như có bão băng qua thị thành!)
bàn tay thiếu máu lạnh tanh
cóng tôi chịu đựng cho đành luyến thương!

chở em đi học mưa, buồn
tôi Honda cũ trèo luôn dốc đời
thình lình chết máy như chơi
đừng tin lắm chuyện xa vời nhớ em!

đèo nhau qua dãy cột đèn
khẳng khiu soi dõi đường đêm bóng người
bóng xấp nhập, bóng tách rời
bóng co, bóng dãn, bóng trôi dập dềnh…
(dối gian như bóng dối hình
dối gian theo những lời tình gió bay…)

đèo nhau qua đoạn đời này
cầu Trương Minh Giảng nghe đầy hoàng hôn
mưa rỉ rả, mưa nguồn cơn
mưa đâm lóc thịt, mưa dầm thuộc da…

chở em đi học mưa nhòa
đường loang loáng nước lập lòa loáng cây
lạnh vừa đủ siết vòng tay
run đi em để sau này…nhớ nhau…

chở em sa vũng lầy nào
về nhà nói mẹ qua cầu sẩy chân!
(Westminter, Ca. ngày 06.7.87)

chuông mơ

áo em trắng cả sân trường trắng
tan học chiều nay có ngẩn ngơ?
chiều nay anh ở xa lăng lắc
không cách chi về đón tiểu thơ!

chiều nay ở đất bon chen
cái mộng tan theo cái thấp hèn
cái thực lem theo ngày sông vội
không cách chi dài phút nhớ em !

chiều nay em bước ngang giáo đường
mắt Chúa chắc buồn thăm thẳm hơn
chắc cây thánh giá thành di tích
chuyện một người chuộc hoài công !

chiều nay em còn măng tóc mai
hay đã lao tâm luống bạc rồi ?
chiều nay vừa đến giờ tan học
hay vừa buông cuốc chặm mồ hôi ?

chiều nay em bước trên quê hương
chắc tóc không còn óng ả chuông
chắc chuông không mượt nâng tà tóc
chắc tóc và chuông đã…đoạn trường !

chiều nay em bước trên quê hương
chắc Chúa chẳng nhìn như mọi hôm
bởi vì mắt Chúa và em đã
lóng lánh vùi chôn ngấn lệ lòng !

áo em trắng cả sân trường trắng
tan học trong đời anh thẩn thơ
đời anh quên, nhớ, quên… nhiều lắm !
chiều chiều xứ Mỹ cũng chuông mơ…
(Westminter, Ca. Ngày 23.7.87)

Mấy bài thơ này, với tôi, khá tiêu biểu cho thế giới thơ Nguyễn Tất Nhiên. Bài “Nhớ nội” gợi lên trong ta những hình ảnh hiền hòa, trung hậu đậm đặc tâm hồn muôn thuở con người Viêt Nam, đất nước Việt Nam. Hai bài “Cứ ngỡ như là mới nhớ thôi”, “Chở em đi học trường đêm” nói lên mối tình e ấp ngu ngơ của đôi trẻ vào cái thời còn là thủa ấy – cũng mới đây thôi – nhưng sao làm ta lại ngỡ được trở về với không gian trong lành vô tội của khu Địa đàng khi mà A dong và E Va còn chưa dại dột ghé răng cắn vào trái cấm. Còn bài “Chuông mơ” nói lên nỗi niềm hoài hương đã bám rễ trong tâm thức anh khiến Nguyễn Tất Nhiên không tìm ra được lối thoát trong môi trường sống mới.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
20 Tháng Mười Một 2012(Xem: 14888)
“ Sông có thể cạn, đá núi lâu ngày cũng mòn nhưng miên viễn tình người VN và tình đồng đội giữa những người lính VNCH.”. cho dù thời gian có bị phôi pha nhưng tuyệt đối chẳng bao giờ thay đổi.
19 Tháng Mười Một 2012(Xem: 15497)
Bố lên ở trên Thiên Đường rồi, mẹ yên tâm. Con đã xin vào nội trú ở trường dưới Hamburg, ngày mai con sẽ về dưới đó, con không ở lại đây lâu để làm phiền mẹ và em đâu, con về ở tạm đây là vì bố muốn thế
18 Tháng Mười Một 2012(Xem: 13781)
Đừng hối tiếc những sai lầm đã phạm. Có rất nhiều việc buộc chúng ta phải lầm lạc. Chúng ta là con người, cho nên chúng ta lầm lạc
18 Tháng Mười Một 2012(Xem: 14075)
Đời là một chuyến đi không biết điểm đến. Rất ít ai đến được điểm mình dự định. Thông thường ta bắt đầu cuộc hành trình với một ý niệm đích điểm trong đầu
18 Tháng Mười Một 2012(Xem: 14793)
Người ta bảo rồi thời gian sẽ xóa nhòa hết nhưng cho mãi nhiều năm sau này, tôi không bao giờ quên được hình ảnh Mai nằm trên chiếc bàn ở bệnh viện
16 Tháng Mười Một 2012(Xem: 17896)
Nhưng dù có đi đâu, ở đâu, mỗi khi bắt gặp cơn mưa đầu mùa, lòng ta lại nhớ về cái âm thanh lộp độp của những tàu chuối sau hè…
15 Tháng Mười Một 2012(Xem: 13410)
Ước mong Thái Thụy Vy, nhà-thơ-yêu-màu-tím, sáng tác nhiều hơn để cho vườn hoa văn học Việt Nam hải ngoại nói riêng mang nhiều sắc thái độc đáo, và để cho nền văn học Hoa Kỳ nói chung, vốn đã đa dạng lại càng thêm phong phú.
11 Tháng Mười Một 2012(Xem: 14035)
"Hai bờ Bến Hải" vẫn còn khi đảng Cộng Sản Việt Nam càng ngày càng trân tráo, ngang ngược, dựa vào thế và lực của Tầu và súng đạn chúng đang có trong tay, nên cứ chà đạp dân quyền và nhân quyền toàn thể dân tộc Việt
05 Tháng Mười Một 2012(Xem: 13559)
Còn tôi, tôi không thể nhìn cảnh trí nơi đây một cách bàng quan như thế. Tôi không thể nhìn nó mà không kèm theo những xúc động vui buồn hết sức riêng tư.
02 Tháng Mười Một 2012(Xem: 13909)
Qua câu chuyện của hai người già, bộ phim có lẽ đang nhắn nhủ một điều rất trẻ: lắng nghe, yêu thương và để những người thân của chúng ta được sống với đam mê của họ. Vì cuộc đời rất ngắn.
29 Tháng Mười 2012(Xem: 16482)
Ngay lúc đó, nó đã mong sẽ thôi không lớn nữa, cứ sống mãi với ruộng vườn cùng với ông bà ngoại trong căn nhà gỗ, với ánh đèn dầu và lũ bạn rách rưới tinh ranh vẫn hằng đêm cùng nó đọc làu làu những con chữ đầu đời.
26 Tháng Mười 2012(Xem: 16146)
Hơn ba mươi năm lìa bỏ quê ra đi, tôi đã trở lại ba lần. Cả ba lần, không lần nào tôi tìm được quê hương ngày xưa. Tất nhiên tôi không buồn vì những thay đổi ngoại cảnh
22 Tháng Mười 2012(Xem: 18647)
Đúng như vậy, vào khoảng hơn mười giờ sáng, tôi thấy anh tới phòng, chào và nói một câu tôi nghe quá quen thuộc. Dịch ra tiếng Việt thì anh đã nói: “Tôi là Frostic đây, thầy còn nhớ tôi không?”
21 Tháng Mười 2012(Xem: 15797)
Từ chuyến đi đó đến nay, tôi đã nguyện với lòng mình rằng tôi sẽ không bao giờ trở về cho đến khi nào quê hương Việt Nam không còn bóng ma cộng sản đã gây ra bao nhiêu cảnh tang tóc đau thương cho quê hương, cho đồng bào của tôi.
21 Tháng Mười 2012(Xem: 18339)
Cười ha hả Hiệu và Bảng đi ra sau lái tàu để một mình Đạt đứng tần ngần nhìn dòng kinh nước trong một màu vàng của phèn. Người lính trẻ mới đổi về đơn vị tác chiến của hải quân chợt thở dài.
18 Tháng Mười 2012(Xem: 17807)
Chính nụ cười của bạn mang lại hạnh phúc cho những người xung quanh, và tất nhiên nó cũng mang lại hạnh phúc cho chính bản thân bạn nữa. Điều ngọt ngào nhất bao giờ cũng đến phía sau những nỗi cô đơn dù không thể diễn tả thành lời.
16 Tháng Mười 2012(Xem: 26131)
Bộ môn nghệ thuật của miền Nam trước 1975 biểu tượng sự tự do và phóng khoáng với những khuôn mặt vang bóng một thời
13 Tháng Mười 2012(Xem: 16493)
Mẹ có thể dạy con cách chia sẻ, nhưng không thể bắt con sống quảng đại Mẹ có thể dạy con niềm kính trọng, nhưng không thể ép con tôn trọng người
08 Tháng Mười 2012(Xem: 21051)
Lòng tôi chợt nhói lên một niềm đau khi nghĩ tới số phận của những cựu quân nhân và công chức của Miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Ai còn? Ai mất?
02 Tháng Mười 2012(Xem: 16687)
Tôi làm thơ không phải để in và bán. Tôi làm thơ cho những trăn trở và mất mát của riêng tôi và dường như có sự thôi thúc của người chồng quá cố của tôi như là anh đã chọn cho tôi
01 Tháng Mười 2012(Xem: 17021)
Chiến tranh đã cướp mất tuổi thanh xuân của bao nhiêu người vợ trẻ. Chỉ còn lại Việt Nam, một quê hương điêu linh, một dân tộc bất hạnh triền miên trong chiến tranh và nghèo khó.
30 Tháng Chín 2012(Xem: 20955)
Bạn bè đồng lứa có đứa đã biết e ấp làm điệu với những bạn trai, với những người tình, nhưng tôi chưa một lần xao xuyến với những cái lẻ tẻ này.
29 Tháng Chín 2012(Xem: 17511)
Cuộc chiến tranh ý thức hệ kéo dài 30 năm đã để lại cho thành phố Sài Gòn, đồng thời cũng là thủ đô của Nam Việt Nam những hệ lụy thuộc về lịch sử. Đấy là thành phố “được" giải phóng và trước khi “được giải phóng” ngay trong lòng của nó đã có những cuộc tương tàn
28 Tháng Chín 2012(Xem: 18066)
Bác sĩ Nguyễn văn Phúc (Medical Doctor), là một thuyền nhân (boat people) Việt Nam, theo gia đình qua Tây Đức lúc 18 tháng. Bác sĩ đã tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa tại đại học Giessen, Cộng Hoà Liên Bang Đức năm 2005 lúc 26 tuổi
27 Tháng Chín 2012(Xem: 18954)
Tình yêu và sự quan tâm lo lắng của cha mẹ là món quà quý giá nhất mà chúng ta được tặng từ khi mới chào đời.
26 Tháng Chín 2012(Xem: 17426)
“Về hưu làm chi? Phải làm việc cho đến khi chết. Một đời đẹp nhất, có ý nghĩa nhất, đáng sống và ích lợi nhất là làm việc cho đến chết. Có việc làm đều đều, hàng ngày bận rộn, sẽ kéo dài tuổi thọ
24 Tháng Chín 2012(Xem: 17894)
Khá lắm! Khá Lắm! Dám làm dám chịu, thật là anh hùng! Dĩ nhiên là chú biết… Nhưng đó là một kỷ niệm thời thơ ấu mà! Ngày xưa chú còn nghịch ngợm hơn cháu nữa đấy! Cảm ơn cháu có lời chúc!
23 Tháng Chín 2012(Xem: 20633)
Chẳng qua là họ muốn tạo thời cơ để kiếm cho cái … đít của họ một cái… ghế! Đến đây thì vở tuồng trên sân khấu đang chuyển sang lớp “gà nhà bôi mặt đá nhau” … Cái mặt đã trở thành “một vấn đề”!
21 Tháng Chín 2012(Xem: 16944)
Do đó, quan niệm đó đã đến lúc phải thay đổi. Người phụ nữ Việt Nam đã đến lúc phải được bình đẳng. Bình đẳng không phải vì quyền lợi mà để nhận trách nhiệm xây nước và dựng nước.
17 Tháng Chín 2012(Xem: 18687)
Trong giấc ngủ tôi thường gặp cha mẹ, gặp ngay trong những ngôi nhà cũ ở Việt Nam, gặp bạn bè cũng gặp trên đường phố Việt Nam từ ngày rất xa xưa, và bao giờ trong mơ cũng đối thoại bằng tiếng Việt
11 Tháng Chín 2012(Xem: 19946)
Tôi đốt thêm một điếu thuốc rồi đặt lên cuộn dây dừa, vái lâm râm: " Cương ơi ! Mầy có linh thiêng thì về đây hút với tao một điếu ! ". Tự nhiên, tôi ứa nước mắt!
09 Tháng Chín 2012(Xem: 19496)
Tôi yên tâm và tiếp tục chăm chú học nhưng… chỉ hơn một tuần sau, vào một ngày cách đây hơn bốn chục năm. Tôi được tin Mẹ tôi bị đứt mạch máu và qua đời! Vâng, Mẹ lại nói dối tôi và đây cũng là lần nói dối cuối cùng của Mẹ !!!
07 Tháng Chín 2012(Xem: 21227)
nỗi cô đơn buồn bã hay hoài niệm về một quãng đời đã mất! Tôi thương ông cụ, và nghĩ đến tuổi già mai sau của tất cả chúng ta. Cụ ơi, bài hát đó là bài gì vậy cụ ???
06 Tháng Chín 2012(Xem: 39134)
Vậy đó, ông nội và cháu có nhiều điểm giống nhau. Cháu sẽ lớn, sẽ trưởng thành. Ông một ngày nào đó sẽ ra đi. Bà nội nhìn ông mà nhớ cháu. Hạnh phúc của ông bây giờ là sống vô tư như trẻ con. Hạnh phúc của bà bây giờ là không còn giận hờn mà con tim đầy ắp những yêu thương và bổn phận.
03 Tháng Chín 2012(Xem: 18921)
Duy có điều đáng lưu ý là phần kết luận của cuốn phim. Phần thông điệp chính của cuốn phim có thể làm cho chúng ta bất bình và đau đớn. Phải chăng đây là cuộc sống thực sự của các gia đình Việt Nam tan tác trong chiến tranh và đoàn tụ trong hòa bình.
02 Tháng Chín 2012(Xem: 19893)
Một món quà từ cô bé mắt màu xanh biển và tóc màu cát đã dạy tôi biết coi trọng thời gian của cuộc sống và biết nhận thấy sự yêu thương.
01 Tháng Chín 2012(Xem: 21285)
Không trách, mà còn khen. Áo quần chỉ là ngoại vật. Chúng vô tri vô giác, không tội tình gì. Chúng là vật ngoại thân, không là một bộ phận của thân thể con người…
31 Tháng Tám 2012(Xem: 19337)
Nhân chuyến thăm Việt Nam mới đây của đại diện Bắc Hàn với những lời tuyên truyền ca tụng tốt đẹp về nước này, xin giới thiệu đến quý độc giả bài viết sau đây để biết thêm phần nào sự thật về Bắc Hàn.
29 Tháng Tám 2012(Xem: 20649)
Kiếp phù sinh như hình như ảnh; Có chữ rằng vạn cảnh giai không. Ai ơi lấy Phật làm lòng, Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
28 Tháng Tám 2012(Xem: 19898)
Tôi tự hỏi, đối với bà, đâu là nỗi đau lớn nhất trong 13 năm này: những đau khổ về thân xác trong trại cải tạo, hay nỗi đau tình cảm phải chia lìa với gia đình và con dại? Thời gian có xoa dịu được những nỗi đau này không? Hay mất mát sẽ vĩnh viễn là mất mát?
27 Tháng Tám 2012(Xem: 19187)
Dung kinh ngạc, không ngờ Sơn lại có nhiều bằng hữu đến thế. Lành lặn cũng nhiều, tàn phế cũng không ít. Cũng có những người đàn bà mắt ngấn lệ, ngập ngừng buông những nắm đất phủ trên quan tài của Sơn
26 Tháng Tám 2012(Xem: 18146)
Ý nghĩ và hành động xấu xa, tàn ác hung dữ thì nên diệt ngay trong ý nghĩ, không cho phát sinh. Nếu lỡ đã tiến hành thì nên ngừng lại và dứt bỏ không làm nữa.
24 Tháng Tám 2012(Xem: 19399)
bà không nỡ quay mặt với họ, dù rằng bà đau đớn vì mất đi hình ảnh người em ruột thân thương gần gũi ngày xưa, dù rằng bà xấu hổ giùm người em ruột tham lam, tính toán và ích kỷ bây giờ. Và nỗi đau đớn ấy, sự xấu hổ ấy sẽ theo bà về Mỹ, và theo bà cho đến hết cuộc đời.
23 Tháng Tám 2012(Xem: 28124)
để tưởng nhớ người bạn gẫy cánh trên chiến-trường các bay trên nơi bạn mình rớt mở canopy ném xuống cho bạn một bao thuốc lá Lucky-strike. Hôm nay nhớ anh viết về anh, tôi đốt một điếu thuốc để đay cho anh, mong anh thích Marlboro lights .
23 Tháng Tám 2012(Xem: 20396)
ng ngày 1-5, tôi bước ra khỏi Bệnh xá, đứng trên Quốc lộ 4, tôi nhìn về hướng Cần Thơ, thấy mặt trời lên đỏ rực, báo hiệu một ngày mới. Lúc đó tôi không hề biết rằng, đó là cái ngày đầu tiên của một hành trình bi thảm khác, có tên gọi là “Mạt Lộ”.
21 Tháng Tám 2012(Xem: 20893)
Mấy đứa nhỏ ở nhà ráng lo cho chúng đi du học hết đi. Ngày xưa thì hết tị nạn chính trị đến tị nạn kinh tế, còn bây giờ thì phải kể thêm tị nạn giáo dục nữa. Mà thật ra thì thời buổi này, ở cái đất nước này, mọi chuyện đều phải tính hết, không thể ù lì chờ nước tới chân mới nhảy.
15 Tháng Tám 2012(Xem: 21473)
tất cả gặp nhau một chút rồi chia tay. Từng ngày hãy gieo vào tâm thức những hạt giống thiện lành, thay vì phá hoại cuộc sống mình và người bằng những tâm hành tiêu cực!
14 Tháng Tám 2012(Xem: 18123)
Và vì vậy mà tôi biết, sẽ có một ngày, tôi bỏ lại tất cả nơi đây để về với mẹ. tôi chỉ xin lạy Phật ngàn lạy, vạn lạy mà cầu cho ngày đó đến trước khi quá muộn
13 Tháng Tám 2012(Xem: 19310)
Đứa con út ốm đau Vẫn hằng đêm đòi sữa Chẳng còn gì bán nữa Ngoài giọt máu mẹ cha
11 Tháng Tám 2012(Xem: 21840)
Giọt nước mắt của người chồng Mỹ với người vợ Việt, của người cha Mỹ khóc thương cho đứa con trai vắn số cũng mặn như giọt nuớc mắt của bất cứ người chồng người cha nào khác . Có khác gì đâu. Vô thường!