Ông Tư bị ung thư và biết chắc không thể sống lâu hơn sáu tháng. Ông bình tỉnh chờ cái chết, và vui vẻ sống những ngày ngắn ngủi còn lại, mà không bi ai, không sợ hãi. Ông muốn sau khi chết, gia đình làm đám tang theo ý riêng của ông. Bà vợ nghe dặn dò cách thức làm đám tang kỳ dị, thì nói giọng buồn, với đôi mắt cầu khẩn:
- Em nghe nói ngày xưa ở
Huế, người đàn bà đầu tiên đi xe đạp, bị cả thành phố phỉ nhổ, xem như là Me
Tây, như kẽ phá hoại phong hóa nơi đất thần kinh. Cho đến khi chiếc xe gắn máy
hiệu "Velo solex" ra đời, người đàn bà đầu tiên xữ dụng, cũng bị xem
như là thứ côn đồ, cao bồi du đảng, chẵng ai dám giao du thân mật. Đến như bà
Thu, vốn là một công chúa, dù là con của vị phế đế, là người đàn bà có xe hơi,
và lái xe hơi dầu tiên ở Huế, cũng bị thiên hạ nghi ngờ oan ức đến cái đức hạnh
của bà, mà suốt đời không kiếm được một tấm chồng. Thế mà bây giờ, anh bảo em
làm đám tang khác thiên hạ, không giống ai, thì chịu sao nỗi lời tiếu đàm của
bà con, họ hàng!
Ông Tư cười, nhìn vợ và nói :
- Cái gì cũng phải có khởi đầu, có người làm trước, về sau thiên hạ thấy hay mà
làm theo. Không ai khởi đầu cả, thì làm sao có tiền lệ để mà bắt chước? Thời
trước nếu không có cô, bà nào dám tiên phong leo lên xe đạp, thì bây giờ đàn bà
đi bộ cho rã cẳng ra. Ngày nay, còn có ai xì xầm khi thấy các cô, các bà đi xe
đạp, xe gắn máy và lái xe hơi đâu?
- Sao anh bắt em phải làm cái việc khác đời, cho tội cho nghiệp em. Em đâu phải
là hạng người thừa gan dạ, để có thể phớt lờ dư luận, khen chê của thế gian ?
Ông Tư trả lời với giọng rất bình tỉnh:
- Chỉ là ước mong nhỏ nhoi cuối cuộc đời của anh, mà em cũng không giúp anh
được sao? Ai có nói gì, thì em cứ bảo đó là ý nguyện của anh trước khi chết. Mà
có lẽ, mọi người đều biết anh muốn như vậy, em khỏi cần giải thích cho ai. Em
không làm theo ý nguyện, anh chết không nhắm mắt, làm sao linh hồn siêu thoát?
Như thế, em không sợ anh về quấy phá em mãi sao?
Nghe đến đây, thì bà Hoa tái mặt. Bà vốn sợ ma, sợ người chết, sợ bóng tối, sợ
sự thiêng liêng. Bây giờ ông chồng còn sống, bà có thể lấn áp, bắt nạt ông
được, chứ sau khi ông chết rồi, thì bà phải chịu thua, phải sợ ông. Ông Tư biết
tính vợ, nên đem ma quỷ ra mà dọa trước, may ra sau khi ông chết, thì bà chịu
theo lời ước nguyện của ông.
Nếu có ai biết ông Tư đang cận kề cái chết mà ái ngại cho ông, thì ông cười vui
mà an ủi họ - chứ không phải là họ an ủi ông - rằng, nếu tin theo đạo Chúa, thì
khi chết được về thiên đàng, ngồi dưới chân Chúa, sung sướng thế sao mà ai cũng
sợ chết? Nếu theo đạo Phật, thì khi chết cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, vĩnh
cửu an bình, thì mừng vui chứ sao lại bi ai? Và nếu nói theo đức Đạt Lai Lạt
Ma, thì cái xác thân ở trần gian, có thể ví như bộ áo quần ta mang, khi nó đã
sờn cũ, xấu xí, rách rưới mục nát rồi, thì nên bỏ đi, mà mang bộ áo quần khác,
đại ý nói đi đầu thai kiếp khác, mang thân xác mới hơn. Ông Tư nói với bạn
rằng, thân xác ông bây giờ như cái quần đã mục mông, rách đáy, không còn che
được cái muốn che, thì phải bỏ đi, không xài nữa là hơn. Bởi vậy, ông bình tỉnh
đón chờ cái chết cận kề. Khi biết ông bị ung thư sắp chết, thì phút đầu tiên,
ông lặng người đi. Nhưng rất mau sau đó, ông nghĩ ra rằng bây giờ chỉ còn hai
con đường để lựa chọn. Một là rầu rĩ bi ai, than thân trách phận, oán thán trời
đất, làm cho những ngày ngắn ngủi còn lại trở thành u ám, khổ sở, muộn phiền.
Hai là bình tỉnh chấp nhận điều không thể tránh được với thái độ tích cực, lạc
quan, vui vẻ. Làm cho những ngày còn lại thành tươi vui, tốt đẹp và ý nghĩa
hơn. Khi ra đi sẽ không có chút tiếc thương vướng bận. Ông chọn con đường sau,
nên không buồn bả, không hoang mang, không bi ai. Ông thấy cuộc đời bỗng đáng
yêu hơn, đẹp hơn. Ông mở lòng vui vẻ đón nhận từng thời khắc, từng ngày còn
lại. Mỗi sáng dậy, ông ca hát nhạc vui, và nói chuyện khôi hài cùng vợ con. Ông
cố làm đẹp lòng mọi người, vì ông nghĩ rằng, sau khi nhắm mắt nằm xuống, thì dù
có muốn tử tế với những người thân thương, cũng không còn làm được nữa. Ban
đầu, vợ con, gia đình, ai cũng ái ngại, nên cư xử tế nhị, dè dặt, gượng nhẹ với
ông. Về sau, thấy thái độ bình tỉnh của ông, mọi người quên đi chuyện ông sắp
xa lìa cõi đời nầy, mà cư xử với ông không khác gì người bình thường. Đôi khi
bị vợ gắt gỏng, bị con giận hờn, bị bạn bè to tiếng, ông không buồn giận, mà
cảm thấy tức cười, và thấy thương họ hơn.
Ông Tư dặn thêm vợ rằng đừng đăng báo, không đăng cáo phó gì cả. Đừng làm rộn,
bận trí bà con gần xa, buộc họ phải thăm viếng. Không nên để phiền ai phúng
điếu chia buồn. Ông đưa tờ báo cho bà, và nói:
- Em nhìn vào mấy cái cáo phó nầy đây, đọc thấy buồn cười : Chúng tôi đau đớn
báo tin cho thân bằng quyến thuộc: Ông Nguyễn Văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào
ngày , tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi... Được Chúa gọi thì phải vui mừng, sung
sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin ? Về với Chúa là khổ lắm sao? Có đi tù cải
tạo đâu mà đau buồn? Đáng ra phải cáo phó bằng câu : "Chúng tôi hoan hỉ
báo tin cùng thân bằng quyến thuộc rằng, Ông Nguyễn văn Mỗ đã được Chúa gọi về
vào ngày, tháng, năm,..". Và đây, một cáo phó khác, cũng "khóc
báo" với thân bằng quyến thuộc là thân nhân chúng tôi đã về cõi Phật. Về
cõi ma vương quỷ sứ mới khóc báo, chứ về cõi Phật, sướng quá, mà khóc cái nỗi
gì?
Bà Hoa nhăn mặt nói :
- Anh đừng chi li bắt bẻ từng câu từng chữ . Đó là một lối nói thôi. Vì có ai
biết chắc đi về đâu mà dám vui, buồn. Nhưng cứ cho là về thiên đàng, cực lạc,
về với Chúa Phật, cho người sống an lòng. Không lẽ báo tin ông nội tôi được quỷ
sứ rước đi rồi. Dù sống có gian ác đến đâu, khi chết cũng có quyền hy vọng về
nơi lạc phúc, bình an.
Ông Tư lắc đầu nói tiếp :
- Em có thấy ông cụ Trương nằm liệt giường hai năm, không cử động được, như bị
hành hình, cả nhà lao đao lận đận chăm sóc. Hai vợ chồng bác Thu con cụ, vì khổ
nhọc quá, gây gỗ nhau, gia đình suýt tan vỡ. Khi cụ mất, cả nhà thở phào sung
sướng cho cụ, và cho mọi người trong gia đình. Thế mà khi cáo phó, cũng đau đớn
báo tin. Bà con bạn bè đăng báo chia buồn, cũng là vô cùng thương tiếc, vô cùng
đau đớn. Tang gia mừng, mà bà con lại chia buồn. Bà con muốn cụ nằm đó mãi, để
khổ thân cụ, khổ con cháu cụ lâu dài hơn nữa hay sao? Hay là họ không phải khổ
cực chăm sóc cụ, không phải đau lòng khi thấy cụ nằm liệt ra đó, nên cụ chết họ
buồn đau? Bỡi thế, khi anh chết, anh không muốn cáo phó, không muốn ai phân ưu
chia buồn. Chết cũng là một tiến trình của tự nhiên của trời đất, thì có chi mà
phân ưu, chia buồn. Có ai sống mãi được?
Bà Hoa không đồng ý, nói lớn:
- Mất mát nào mà không đau buồn? Dù biết chắc rằng, ông cụ Trương chết là thoát
được khổ đau đang hành hạ. Nhưng khi cụ mất, cả nhà cũng buồn vì mất cụ, mà vui
vì cất đi được gánh nặng, bớt được mối thương tâm khi thấy người thân yêu của
mình khổ cực nằm đó.
- Thế thì khi cụ mất, chắc chắn cả nhà vui nhiều hơn buồn, mừng nhiều hơn tiếc.
Không ai dám nói mừng khi thấy thân nhân mình chết, vì sợ thiên hạ hiểu lầm,
tiếu đàm. Thế thì đừng giả dối, nói là đau đớn, tiếc thương, mất mát. Mất cái
gì mới ngại, chứ mất cái khổ đau hành hạ, thì cầu cho mất sớm, mất đi càng
nhiều càng mau, càng tốt. Anh nghe nói người Lào có quan niệm rất hay về lẽ
sống sự chết. Khi trong gia đình có người chết, họ không bao giờ khóc lóc rầu
rĩ, mà bình tỉnh an nhiên, chắc rằng họ đã thấm nhuần cái lẽ thâm sâu của Phật
giáo, biết chết là giải thoát, rũ sạch nợ đời.
Bà Hoa hỏi:
- Hay là đời sống dân họ đau khổ lầm than quá, nên chết đi là khỏe chăng? Chết
là hết lo cơm áo, khỏi đói khát bệnh tật?
Bà Hoa nghĩ là ông Tư không thương bà đủ nhiều, nên cứ thản nhiên trước cái
chết cận kề. Bà không biết làm sao chịu nỗi cảnh cô đơn khi sống thiếu ông trên
đời. Ông Tư thường nói với bạn bè rằng, rồi ai cũng phải chết. Không chết sớm
thì chết muộn. Không chết lúc ba bốn mươi, thì bảy tám chín chục tuổi cũng phải
chết. Cuộc đời, có thể ví như một đêm, không đi ngủ lúc chín mười giờ, thì mười
hai giờ, một giờ sáng cũng phải đi ngủ. Nếu đêm không vui, thì tội gì không đi
ngủ sớm cho khỏe, mà phải thức để nỗi buồn gặm nhấm. Nếu đêm nay đau răng thì
cố thức làm gì, ngủ sớm đi mà quên đau. Nhiều người sống với thái độ như sẽ
không bao giờ chết, cho nên tích tụ của cải, bao nhiêu cũng không vừa, làm
nhiều điều không đúng, không phải. Bỡi vậy , khi biết mình sắp chết, thì hốt
hoảng khóc lóc, bi ai, mà vẫn không tránh được. Nhiều vị vua chúa đời xưa cũng
muốn sống đời, nên uồng thuốc trường sinh, mà ngộ độc chết sớm. Còn gia đình,
thì thời gian đầu thấy thiếu vắng, mất mát, nhưng rồi sau cũng quen dần, vì
phải lo lắng nhiều công việc khác trong một cuộc sống bình thường, không còn có
thì giờ mà tiếc thương, mà bi ai. Phần người chết, buông tay là xong tất cả,
bình yên vĩnh viễn. Không còn phải lo công việc làm ăn, lo cơm áo gạo tiền,
không còn lo làm giàu, lo tích trữ của cải, không còn ghen tuông, giận hờn,
không còn phải thức khuya học hành, hoặc viết văn làm thơ mệt nhọc, không còn
theo đuổi mộng lớn mộng bé, không ưu tư dằn vặt vì thời thế, vì đất nước, quê hương...
Bỏ hết. Tất cả cũng chỉ là tro bụi. Thiên hạ còn ngưỡng mộ, còn khen ngợi những
anh hùng liệt sĩ trong lịch sử, nhưng chính các người nầy có còn biết gì nữa
đâu? Cũng là một mớ xương khô mục nát, đâu có nghe, có cảm xúc, hân hoan, vui
thú gì. Có ca ngợi, nhắc nhở thì để các thế hệ con cháu về sau noi gương người
đi trước mà dìn giữ quê hương, mà sống cho đàng hoàng, cho nên người, đừng làm
việc xấu xa đê tiện.
Ông Tư dặn vợ làm một đám tang đơn giản, không mở nắp hòm cho bạn bè thăm viếng
nhìn mặt. Hát nhạc vui trong tang lễ, không khóc lóc, mà vui cười tự nhiên. Sau
khi thiêu xong thì gởi tro xương về quê nhà, đừng xây mộ, đừng đắp bia. Bà Hoa
thì chỉ muốn làm giống như tất cả mọi người. Ai làm sao mình làm vậy trong khả
năng tài chánh của gia đình. Bà không muốn làm khác ai, để họ có thể nghị dị,
bàn ra nói vào, thêm thắt thêu dệt. Nhưng bà cũng không nỡ từ chối ước nguyện
cuối cùng của ông. Hai người con của ông bà, đứa con gái đầu thì tán thành,
muốn làm theo ý kiến cũa bố, đứa con trai phản đối, vì sợ thiên hạ chê cười.
Ông nói với con : Con nên vì bố, không nên vì thiên hạ. Ông Tư xin nghỉ việc,
đi thăm bà con họ hàng, đến đâu ông cũng nói chuyện khôi hài, vui vẻ, nồng nàn
với bạn bè bà con, thức đêm, uống rượu, hát hò, ngâm thơ, ăn uống không kiêng
cữ. Theo ông, thì kiêng cũng chết, mà không kiêng cũng chết, chết sớm hơn vài
tháng, vài tuần, cũng chẵng nghĩa lý gì. Còn chẵng bao lâu nữa, kiêng cử làm
chi cho khổ thân, cho đời mất đi một phần ý vị. Ông cho rằng, đã sống đến trên
năm mươi tuổi là quá lời, quá đủ, không có gì để nuối tiếc. Thấy ông tươi vui,
người biết ông có bệnh sắp chết, cũng quên mất là ông đang bệnh, người không
biết bệnh trạng của ông, thì ông cũng không muốn nói ra làm gì. Ông đưa bà và
hai con đi chơi một chuyến trên du thuyền. Ông tham gia các cuộc chơi tập thể
trên du thuyền như hát hò, nhảy múa ca hát, tham gia các buổi hòa nhạc, uống
rượu, cho đến khi mãn cuộc. Ông vui vẻ, bình tĩnh đến nỗi nhiều khi bà quên mất
là vợ chồng không còn bên nhau bao lâu nữa.
Ông Tư chuẩn bị tinh thần cho vợ, cho con, để chấp nhận một sự thực không tránh
được. Chấp nhận với sự bình tỉnh, sáng suốt, không vui vẻ nhưng không bi ai. Có
người nói cho ông Tư nghe về kinh nghiệm của những kẽ đã chết thật rồi, mà sống
lại nhờ sự mầu nhiệm nào đó. Rằng khi chết, thì thấy mình đi vào một vùng ánh
sáng lạ, rất hân hoan sung sướng, khoái cảm tràn trề. Bỡi vậy, nên người đã
trãi qua cận tử, thì không cón sợ chết nữa, mà đón nhận như là một ân huệ của
trời đất. Ông Tư không tin chuyện cận tử, vì ông vốn con người thực tế và lý
trí, cái gì chưa kiểm nghiệm được thì chưa tin. Nhưng cho rằng, nếu được như
vậy thì càng tốt. Nếu không được vậy, thì cũng thôi.
Cuộc đời ông Tư đã trãi qua nhiều giai đoạn sướng khổ. Chưa xong đại học thì bị
kêu đi lính, tham dự những trận chiến kinh hoàng, ngày đêm trấn đóng nơi ma
thiêng nước độc, đã từng bị bắt làm tù binh, đã vượt ngục. Khi miền Nam thua
trận, phải đi tù nhiều năm. Đã sống trong chế độ hà khắc kìm khớp, bữa đói bữa
no. Đã đi qua biển tìm tự do. Và ước nguyện rằng, được sống thêm một ngày trong
xứ tự do, thì có chết cũng không có gì ø tiếc nuối. Thế mà ông đã sống thêm
được nhiều năm trong một xã hội có tự do, dân chủ. Con người được pháp luật bảo
vệ, tôn trọng. Ông biết ơn trời đất đã cho ông cái phần thưởng vô cùng quý giá
đó trong nhiều năm qua.
Ông Tư chỉ là một người bình thường, có đủ cả tốt xấu. Có chút rượu chè, nhưng
không ghiền và say sưa. Khi vui bạn vui bè, thì ai đến đâu, ông đến đó. Ông hòa
đồng cùng đám đông. Thỉnh thoảng ăn nhậu cùng bạn bè, nói chuyện trời đất, vui
chơi. Cờ bạc ông cũng có chút chút, từ xì phé, bài cào, cờ tướng, cờ vua, đi
sòng bài. Nhiều khi ông xoa mạt chược cùng bạn bè, một mạch từ sáng thứ bảy cho
đến chiều chủ nhật mới thôi, ai về nhà nấy để chuẩn bị cho ngày đi làm vào thứ
hai. Ông không mê, không lậm, biết dừng lại đúng lúc, không phải khi thua cờ
bạc thì nóng mặt cố gỡ, và gỡ cho đến bán nhà. Trai gái ông cũng có, nhưng
không làm hại đến ai, biết giới hạn của cuộc chơi. Không làm khổ vợ con, không
gây khổ đau cho người khác phái. Thuốc lá, cà phê hàng ngày, ông không ghiền,
nhưng cũng không bỏ hút thuốc. Ông Tư còn có chút máu nghệ sĩ . Ông thổi kèn
hắc tiêu rất đạt, nên lâu lâu theo người bạn Mỹ gốc Phi Châu đến các hộp đêm
thổi kèn chơi, không lấy thù lao. Ông có chân trong một ban nhạc tài tử, lâu
lâu đi trình diễn ở các nơi công cọng. Ông Tư có sáng tác vài bản nhạc, nhưng
không ai hát, và hát không ai nghe, không ai khen, nên ông không sáng tác nữa.
Ông Tư cũng thích đọc truyện, đọc thơ. Ông cũng có làm thơ, nhưng bà Hoa là vợ
ông, khuyên đừng để cho ai biết những bài thơ đó do ông viết, vì người sợ người
ta cười lây cả bà. Ông nghe vợ chê, nãn lòng, không muốn làm thơ nữa. Tuy
nhiên, có nhiều khi cao hứng, không cầm được cảm xúc, ông cũng làm thơ chơi, và
dấu kín, vì sợ vợ đọc được chê bai .
Một người bạn của ông Tư cũng thích thơ phú, thường cùng ông ngâm vịnh khi nhàn
tản, một hôm nghe ông nói về quan niệm cuộc đời, lẽ sống và cái chết. Ông nầy
ngồi nghe mà đờ ra, và nói:
- Bác chờ chút, tôi lục tìm bài thơ của một ông bạn tôi, sao mà ý tưởng của bác
với ông kia trùng nhau, như cùng học một sách. Kỳ lạ ghê. Lần đầu đọc bài thơ
nầy, tôi khoái quá, phải xin ông bạn cho tôi mượn, chạy ra phố, chụp lấy một
bản, còn cất giữ đây.
Ông Tư cầm lấy bài thơ dài, vừa đọc vừa gật gù, đọc xong ông vỗ đùi sung sướng,
nói:
- Tuyệt. Hoàn toàn giống hệt suy nghĩ của tôi. Bác đem tôi đến giới thiệu tác
giả bài thơ nầy đi. Bác xem đấy, đâu phải một mình tôi suy nghĩ khác đời đâu.
Có nhiều người cùng một ý nghĩ, nhưng không dám nói ra, không dám thi hành.
Đúng như cụ Nguyễn Công Trứ có viết là chỗ ta ngồi hiện tại, người xưa đã ngồi
rồi. Tôi dốt chữ Hán, nhớ mang máng hình như là Ngã kim nhật tại tọa chi địa,
cổ chi nhân tằn tiện ngã tọa chi . Mấy ông Tây cũng từng viết là dưới ánh mặt
trời nầy, không có cái gì mới cả. Những suy nghĩ của tôi về cái chết, sự sống,
người xưa cũng đã viết nhiều, tàng ẩn bàng bạc trong kinh Thánh, kinh Phật.
Ngày xưa khi còn nhỏ, bố mẹ tôi gởi tôi vào học nội trú trường đạo Thiên Chúa,
mỗi ngày mỗi đêm đều đọc kinh Thánh. Hồi đó tôi không hiểu hết ý nghĩa của
kinh, tôi tưởng lầm đọc kinh là ngày đêm kêu gào sự xót thương của Chúa. Tuổi
trẻ ngu muội và ngông cuồng nên tôi không có cảm tình với chuyện kinh kệ, nhưng
khi lớn lên, đọc lại kinh Thánh, tôi thấy hay quá ông ạ. Lời kinh an ủi, vỗ về
con người trong khổ đau, trong bước đường hoạn nạn, khi gặp cam go chìm nổi,
tìm được yên bình để chịu đựng mà hy vọng qua khỏi nghịch cảnh .
Ông bạn cười, nói:
- Tôi thấy nhà bác thờ Phật, mà lại nói chuyện Chúa rành rẽ. Bác có theo đạo
Cao Đài hay không?
- Không phải đạo Cao Đài, nhưng Phật Chúa gì cũng hoan nghênh. Bà xã tôi vẫn
thường đi chùa. Ngày xưa khi còn trong quân đội, đóng quân giữa núi rừng, mẹ
tôi gởi cho mấy bộ kinh Phật, không có sách vở, báo chí, buồn mà đọc chơi. Không
có tâm tu hành, nhưng đọc mãi, nó thấm vào trong tư tưởng lúc nào không hay.
Bỡi vậy, tôi có quan niệm rất rõ ràng về sự sống, cái chết, và bình tỉnh đón
nhận như một lẽ thường của trời đất, tạo hóa.
Hai người đang nói chuyện, thì có bà bạn ghé chơi. Bà nầy yêu cầu ông Tư và bạn
ông đóng tiền để mua đất chôn cất và xây mộ cho một người đồng hương Việt Nam
nghèo mới chết. Gia đình không đủ tiền để làm ma chay và mua đất chôn ở nghĩa
trang. Ông Tư móc ví, đóng ba chục đồng, và nói:
- Kêu gọi thì tôi đóng tiền, chứ thực tình trong lòng tôi nghĩ khác. Chết thì
hỏa thiêu là đẹp nhất, tốt nhất và lại vệ sinh. Chôn xuống đất cho dòi bọ nó
rúc rỉa, cho sình thối chứ có được gì. Một vạn cái xác, mới có được một cái
không thối rữa, mà cũng khô đét nằm nhăn răng ra, hôi hám xấu xí. Nằm chật chội
trong tối tăm âm u, dưới đất lạnh lẽo, chứ có sung sướng gì đâu. Rồi lâu ngày,
thịt da cũng rữa, xương cũng mục. Được bao nhiêu năm? Mà cứ nghĩ kỹ xem, nếu
mỗi người chết phải có một nấm mồ chừng hai thước vuông, thì trên thế giới nầy
từ triệu năm trước đến nay, và nhiều triệu năm sau nữa, tỉ tỉ người đã chết và
sẽ chết, lấy đâu ra đất mà chôn. Không lẽ cả thế giới nầy chẵng còn một tấc đất
mà trồng trọt, nhịn đói chết hết sao? Nhiều xứ văn minh hiện nay, người ta
thiêu xác. Bên Nhật, bên Tàu, Ấn Độ và nhiều xứ khác nữa, người chết được hỏa
thiêu. Đạo Phật chính tông, thì các tăng ni đều được hỏa táng, nhưng những
người theo đạo Phật nửa vời, thì lại chôn cất. Bày đặt ma chay linh đình cho
thêm tốn kém.
Bạn ông Tư hỏi:
- Có phải người theo đạo Chúa không dám hỏa táng? Nghe đâu họ tin có ngày phán
xét cuối cùng, và được sống lại. Bỡi vậy nên phải giữ thân thể, không muốn
thiêu tan thành tro bụi.
Ông Tư cười lớn nói:
- Chờ đến ngày phán xét cuối cùng, thì sắt đá cũng đã mũn ra tro bụi, nói chi
đến cái thân xác mong manh? Có lẽ những kẽ mê tín, kém hiểu biết, diễn dịch sai
ý nghĩa của kinh Thánh chăng? Mà dù cho xương cốt có còn, thì cũng chỉ là bộ
xương cũ mục, làm sao mà sống lại trên bộ xương đó được?
- Nghe đâu các nghĩa trang cũng chỉ bán đất trong vòng một trăm năm thôi- Bà
bạn bàn thêm - Sau một trăm năm thì không biết họ có đào lên, đem chôn ở hố tập
thể, hoặc đem thiêu đốt đi chăng? Nhưng khi mua đất chôn, thân nhân, không nghe
ai nói đến điều nầy. Mà dù cho chủ nghĩa trang có hứa miệng là bán đất vĩnh
viễn, thì sau một trăm năm, họ đào bỏ đi, cũng chẵng ai hoài công đi kiện. Lời
hứa trăm năm trước con cháu không nghe, không còn chứng cớ, cả người hứa hẹn
lẫn người nghe hứa hẹn, đã chết từ lâu. Mà có lẽ con cháu cũng vì lo làm ăn,
sinh kế, đi tứ tán, không ai còn đoái hoài chi đến mấy ngôi mộ của tiền nhân
trong các nghĩa trang đây đó.
Bạn ông Tư nói:
- Trong phim tài liệu về Tây Tạng, ở đó đạo Phật là quốc giáo, ông Phật sống
cai trị dân như vua. Khi có người chết, thì họ quàng dây kéo lê lên núi, sau đó
mấy ông chuyên môn chặt xác chết ra nhiều khúc, và ném cho chim kên kên ăn.
Trông khiếp lắm. Không biết họ làm như thế, có đau lòng thân nhân ? Rõ như câu
nguyền rủa ở xứ mình là chim tha quạ rỉa.
- Chẳng có đau lòng chi cả - Ông Tư bàn thêm - Bên đó toàn đá núi cứng. Muốn
đào đá ra làm huyệt mộ cũng quá cực khổ. Thân nhân người chết, dẫu có muốn chôn
cất đến mấy cũng không ai làm nỗi việc đó. Cho chim ăn là tiện nhất. Có điều,
không biết làm sao chim kên kên không lây bệnh người chết, biết bao nhiêu là
bệnh nan y, vi trùng, vi khuẩn. Bỡi thế, nên tôi cho hỏa thiêu là sạch sẽ và
tiện lợi nhất.
Câu chuyện bàn rộng đến phong trào Việt Kiều về quê xây lăng mộ cho thân nhân,
cho tổ tiên, đến nỗi có nhiều làng thi đua xây cất cho nguy nga, cho to lớn.
Thấy lăng mộ người khác lớn hơn, thì đập cái cũ ra, xây lại cho lớn, cho đồ sộ
hơn. Có nơi người ta đặt tên là Làng Ma, vì toàn cả lăng mộ. Ông Tư cho rằng,
xây lại mồ mả cho tổ tiên để báo hiếu, cũng là một hành động tốt, không có chi
sai trái. Nhưng thi đua nhau xây và xây cất có tính cách phô trương thì chỉ làm
trò cười cho thiên hạ. Liệu những phần mộ kia đứng vững được bao nhiêu năm, và
còn được con cháu chăm sóc đến bao giờ? Rồi cũng có ngày trở thành hoang phế,
chẵng ai đoái hoài đến, mà mục rữa với thời gian. May ra, những nơi thiêng
liêng như đền quốc tỗ Hùng Vương, lăng mộ các bậc anh hùng giữ nước, dựng nước,
mới được con cháu tiếp tục tu sửa chăm nom. Thế mà cũng có còn tả tơi, tàn tạ,
không ai chăm nom. Huống chi mình, là thứ thường dân, vô danh tiểu tốt, chưa
làm được gì. Chưa kể những kẽ là tội đồ của dân tộc, bày đặt xây lăng ướp xác,
như các ông lảnh tụ cọng sản từ Âu sang Á, từ từ rồi mồ mã cũng bị phá bỏ , san
bằng. Bỡi thế, ông Tư dặn vợ con đừng xây mộ, tạc bia cho ông làm chi.
Ông Tư mượn bài thơ của ông bạn về đánh máy và sắp xếp lại cho đẹp, in ra nhiều
bản, phóng ra một bản lớn, để dành khi ông chết sẽ sử dụng.
Chỉ bốn tháng, sau khi được báo tin ung thư, ông Tư qua đời mà không đau đớn
nhiều, không dùng hóa học trị liệu trước khi chết. Có người mách cho ông nhiều
loại thuốc ngoại khoa, ông cũng dùng thử. Trong giới bạn bè thân tình, có người
nói là ông Tư đã tự chọn lấy con đường ra đi nhẹ nhàng, không để bệnh hoạn hành
hạ trước khi chết. Ông Tư thường đùa rằng, còn nước thì còn tát, biết là dù có
tát thì thuyền cũng chìm, thì quẳng gàu đi cho đở mệt trước khi thuyền chìm.
Bà con bạn bè đến viếng tang ông Tư tại nhà, khi bước vào cỗng, họ cố sửa soạn
lại bộ mặt cho có vẽ buồn rầu, nghiêm nghị, để hợp với cảnh tang ma, dù trong
lòng họ không có chút bi ai nào. Nhưng họ nghe có tiếng nhạc vui đang rộn rã
vẵng ra từ bên trong, hòa với tiếng nhạc là tiếng cười vui vang vang, tiếng ồn
ào. Người nào cũng giật mình, vội vả xem kỹ lại số nhà, sợ đi lầm .
Vào nhà, mỗi khách viếng tang được phát một tờ giấy màu hồng, bên trên ghi bài
thơ Khi Tôi Chết . Bài thơ cũng được chụp phóng lớn, dán trên tấm bảng che kín
cả một bức tường. Khách và chủ đang vui vẻ chuyện trò, cười đùa. Không thấy
quan tài ông Tư đâu cả. Trên bệ thờ có cái ảnh ông Tư phóng lớn, miệng cười toe
toét, tóc bù gió lộng. Trước tấm ảnh có cái hộp vuông chứa tro xương của ông
Tư. Tiếng nhạc vui vang vang từ máy hát. Bài thơ in đậm nét:
Khi
Tôi Chết
Khi tôi chết, viếng tang đừng buồn bả
Cười cho to, kể chuyện tếu vui đùa ,
Trong sáu tấm biết chắc tôi hả dạ,
Lên tinh thần, ấm áp buổi tiển đưa,
Nếu làm biếng, cứ nằm nhà thoải mái
Viếng thăm chi, vài phút có thêm gì ?
Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái .
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì .
Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó,
Ai thay da mãi mãi sống trăm đời .
Kẽ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi .
Nếu có khóc, khóc cho người còn lại,
Bỡi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi .
Cũng mất mát, dáng hình , lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời .
Đừng đăng báo, phân ưu lời cáo phó
Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi ?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,
Trỗi nhạc vui cho người người ý thức,
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Thì đau buồn hạnh phúc cũng hư không .
Đừng xây mộ, khắc bia ghi tên tuổi
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài .
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đã chết tự sơ khai
Khi tôi chết đừng ma chay đình đám,
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi còn tha thiết chút tình mê
Thì cũng C, H, O, N kết lại
Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì
Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri .
Khi đọc xong bài thơ, có
người thì mĩm cười, có người vui hẵn, và nói chuyện oang oang. Họ cho rằng bài
thơ đã nói hết ý nguyện của người chết. Người chết không muốn bạn bè buồn rầu,
thương tiếc, thì việc chi mà lại làm bộ, gượng gạo tạo ra nét buồn khổ trên mặt
. Vợ con người chết cũng không tỏ vẽ buồn rầu, mà cũng không hớn hở. Không một
tiếng khóc lóc, thở than. Nhạc vui vẫn dồn dập phát ra từ máy vang dội. Khi
khách đã đến chật nhà, và đúng giờ cử hành tang lễ, bà vợ ông Tư và đứa con
trai mang áo quần trắng đứng chắp tay bên bàn thờ, cô con gái đứng bên tấm ảnh
ông, cầm máy vi âm nhoẻn miệng cười và nói:
-Thưa các cụ, cô bác chú dì, bà con bạn bè thân thiết xa gần, chúng tôi xin cám
ơn quý vị đã có lòng đến viếng tang Ba chúng tôi. Tang lễ nầy làm theo ý nguyện
của người quá cố. Không làm tang lễ theo tục lệ bình thường, vì sợ trái với ước
vọng cuối cùng của Ba chúng tôi. Chúng tôi xin nhận lấy mọi lời trách móc nếu
có từ bà con bạn bè. Ba chúng tôi đã bình tĩnh và vui vẻ đón cái chết như một
sự trở về không tránh được . Trong những ngày cuối của cuộc đời, Ba chúng tôi
rất vui, chuẩn bị kỹ cho gia đình và cho chính ông. Ông đã dặn dò chúng tôi,
không nên khóc lóc, không nên buồn rầu, vì sự thực không có chi đáng buồn cả.
Ông dặn chúng tôi vặn cuốn băng sau đây cho bà con cô bác nghe.
Người con gái đến bên bàn thờ, bật máy , có tiếng ông Tư cười hăng hắc vui vẻ,
làm một số người không cầm được, cũng cười theo. Một vài bà yếu bóng vía sợ
xanh mặt. Sau tiếng cười chào, thì có tiếng ông Tư dọc bài thơ dán trên tường,
giọng đọc rất chậm rãi, rõ ràng, như đang nói chuyện thủ thỉ với bạn bè. Mọi
người im lặng lắng nghe, người thì nghiêm trang, người thì mĩm cười. Giọng Huế
của ông Tư đọc chậm và ngân dài những đoạn ông đắc ý : Tôi đi trước, hẹn gặp
nhau ở đó . Ai thay da mãi mãi sống muôn đời, Kẽ trước người sau xếp hàng xuống
mộ, biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi. Cuối cùng, có một tràng cười ha ha
của ông Tư để chấm dứt bài thơ. Sau bài thơ, có ba ông người Mỹ, hai ông da
đen, một ông da trắng, cầm đàn và kèn trỗi lên mấy khúc nhạc vui, các ông nhún
nhẫy uốn éo, nhiều lúc dậm chân xuống sàn. Ba ông cùng lúc lắc, làm hàng một,
đi quanh phòng khách, như múa lượn trước bàn thờ ông Tư. Những ông nầy, là bạn
chơi nhạc với ông Tư tại các quán ca nhạc ban đêm.
Bỗng nhiên, bà chị ông Tư nhào ra, lăn lộn trước bàn thờ mà khóc lóc gào lớn:
- Cậu Tư ơi là cậu Tư. Chúng nó đem cái chết của cậu ra mà bêu rếu họ hàng. Vợ
cậu muốn đi lấy chồng sớm nên bày ra cái cảnh chướng tai gai mắt nầy. Con cậu
cũng là thứ bất hiếu bất mục, cha chết mà không có một giọt nước mắt, còn cười
nói lung tung. Chỉ có tôi là chị câu, thương cậu thật tình thôi, ruột đứt lòng
đau, nên khóc than đây.
Ông chồng chạy đến ôm bà kéo ra, và nhỏ nhẹ giãi bày. Bà vùng vằng và càng khóc
lớn hơn, xỉ vả bà Tư những câu tục tỉu nặng nề. Bà Tư ôm mặt khóc lóc. Bà chị
chồng nói lớn: Mai mốt chúng mày chết, bà đến phóng uế lên hòm chúng mầy. Nhiều
người bà con đến phụ ông chồng lôi bà chị ông Tư ra xe chạy đi.
Khách viếng tang lảng ra, và có người lẵng lặng ra về không chào hỏi ai, vì sợ
gia quyến ngượng ngùng. Cô con gái ông Tư đứng ra xin lỗi mọi người vì chuyện
không may, không vui vừa xẫy ra.
Một bạn thân của ông Tư, quen nhau từ thuỡ trung học, đại diện bà con, đến
trước bàn thờ, vỗ vào hộp tro xương, cười ha hả và nói:
- Tư ơi, ông là số một rồi đó, chả có ai bằng ông. Ông hiểu tận tường lẽ huyền
vi của tạo hóa. Sống cũng vui, mà chết cũng vui. Sống cũng dám làm, mà chết rồi
cũng dám làm, và làm được. Tôi cũng ước mong rằng, sau khi chết, vợ con làm cho
tôi một đám tang như thế nầy, thì vô cùng sung sướng. Tưởng ông nói đùa chơi,
ai ngờ làm thật.
Một vị mục sư là bạn thân của gia đình, cũng đến trước bàn thờ, và đoan chắc
rằng bây giờ ông Tư đã được về với Thiên Chúa. Ông cho rằng thái độ của ông Tư
trước cái chết rất sáng suốt, đáng khâm phục, và đáng được mọi người noi theo.
Một vị sư già, có bà con họ hàng với ông Tư, đã từng viết nhiều sách Phật và
rao giảng đạo từ bi, nói trước linh vị :
- Bần đạo không cần đọc kinh cầu siêu cho thí chủ. Bỡi linh hồn thí chủ đã thực
sự siêu thoát trước khi chết. Thí chủ không vướng bận cõi trần, không hệ lụy
vào cái thân xác tạm bợ. Thanh thản ra đi như kẽ đi chơi, thong dong, dễ dàng.
Thí chủ đã hiểu thấu đáo cái lẽ vô thường trong đạo pháp.
Mọi người ra về, lòng nhẹ nhàng, tưởng như đi trong mơ. Từ phía nhà ông Tư, còn
vang vọng nhạc vui đưa tiển đám tang khách.
Sau tang lễ, bà Hoa vợ ông Tư thở phào. Bà vui mừng vì đã làm được đúng lời căn
dặn của chồng mà không bị tai tiếng. Bà chỉ sợ tai tiếng thôi. May mắn, đa số
bà con đều tán thành nghi thức tang lễ, và nếu không tán thành, họ cũng im
lặng, chỉ có bà chị ông Tư gây rắc rối thôi.
Nắm tro xương của ông Tư được vợ con gói kỹ bốn năm lớp, bỏ vào hộp bằng chất
nhựa dày, để cho khỏi vỡ, rồi gởi bảo đảm về Việt Nam. Chiếc xe chở hàng của
hãng vận chuyển bị tai nạn trên đường ra phi trường. Xe rơi từ cầu xa lộ cao ba
từng xuống đất, thùng xe vở nát, hàng hóa tung vung vãi, rách nát, cháy xém.
Anh tài xế gảy hết tay chân và xương sống, hấp hối. Người ta đồn rằng anh tài
xế buồn vì bị vợ cắm sừng, đã uống rượu say xỉn, không điều khiển được tay lái.
Cái hộp tro xương của ông Tư bị rách và cháy xém mất một phần địa chỉ, được gởi
lầm đi ngao du qua xứ Nambia bên Phi Châu. Cô con gái ông Tư hỏi tin tức bên
nhà hàng ngày, qua liên mạng máy vi tính, về cái hộp tro xương, mãi đến hai ba
tháng vẫn chưa nhận được. Bà Hoa viết nhiều thơ khiếu nại hãng chuyên chở. Họ
trả lời là sẽ bồi thường cho bà hai trăm sáu mươi tám đồng. Bà Tư khóc lóc,
thuê luật sư đâm đơn kiện. Sáu tháng sau, nhờ còn có địa chỉ người gởi, nên cái
hộp tro xương được hoàn trả cho gia đình, với ghi chú là không có địa chỉ người
nhận. Bà Hoa mừng ôm cái hộp mà khóc ròng.
Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận Việt Nam.
Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, thì tấm lòng hoài.
Tràm Cà Mau