11:31 SA
Thứ Bảy
27
Tháng Tư
2024

Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh - Hoàng Yên Lưu

23 Tháng Mười 201312:00 SA(Xem: 11226)

Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh

vanghehy-large-content
Hoàng Yên Lưu

Hai nhà văn có công đầu xây dựng nền văn học quốc ngữ, đặc biệt là báo chí, và có nhiệt tâm cải thiện văn hóa, xã hội của chúng ta trong giai đoạn giao thời giữa Đông và Tây hồi đầu thế kỷ XX là Nguyễn văn Vĩnh (1882-1936) và Phạm Quỳnh (1892-1945).
Cả hai đều uyên thâm hai nền học cổ-kim, đều xuất thân hạng đầu trường Thông ngôn, bước đầu sự nghiệp đều bỏ quan trường sang làm báo và cùng qua đời vào tuổi trung niên, tuy nhiên ông Vĩnh dù lớn hơn ông Quỳnh 10 tuổi nhưng cấp tiến hơn ông Quỳnh trong sinh hoạt cũng như về quan điểm và văn phong.
Sự khác biệt giữa hai nhà văn tiền phong kỳ cựu trên được Giáo sư Nghiêm Toản trong bộ Việt Nam Văn học sử trích yếu so sánh như sau:
“Nguyễn văn Vĩnh nổi tiếng dịch rất nhiều sách Tây và có công hội họp các nhà văn tân, cựu cùng thời, lập nên một cơ quan văn học (Đông dương tạp chí) trong buổi quốc ngữ mới sơ khai, gây thành phong trào yêu mến tiếng Việt trong hàng thanh niên trí thức.
Ông dịch đủ các loại: thơ ngụ ngôn, kịch, truyện dài, truyện ngắn, song hay nhất là mấy bộ: Gil Blas de Santillane, Manon Lescaut (Mai nương lệ cốt), Les Trois Mousquetaires (Ba người ngự lâm pháo thủ), Les Misérables (Những kẻ khốn nạn), toàn là văn phẩm có giá trị và rất nổi danh.
Ông dịch thật tài, chỉ cần thoát ý, không cần đúng từng chữ từng câu; lời văn ông có tính chất Việt nam hoàn toàn, làm cho hứng thú kẻ đọc tăng lên; nhiều đoạn ông dịch sát nghĩa vô cùng và văn linh hoạt tự nhiên; chúng ta không ngờ rằng trước đây 30 năm (kể tới năm cuối tiền-bán thế kỷ XX) chữ quốc ngữ mới ở bước đầu, đã có thể diễn dịch được hết ý nghĩa tinh thần câu văn Pháp.
Phạm Quỳnh khác hẳn Nguyễn văn Vĩnh, vì ông chuyên về mặt tư tưởng và lưu ý khảo các học thuyết Thái Tây để luyện cho quốc văn có thể phô diễn được những ý niệm mới; văn phẩm của ông đều đăng ở Nam Phong tạp chí rồi sau in lại thành sách trong Nam Phong tùng thư.
Phần dịch có: Phương pháp luận của Descartes, Đời đạo lý của Paul Carton… Trứ thuật có: luận thuyết, ký sự (Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam kỳ, Pháp du hành trình nhật ký…).
Song trong văn nghiệp của ông, loại khảo cứu mới là phần quan trọng. Xin tạm kể:
- Về phía Pháp: học thuyết Montesquieu, Voltaire, Rousseau… chính trị nước Pháp, Văn minh luận, Thế giới tiến bộ sử.
- Về phía Á đông và Việt Nam: Người quân tử trong đạo Khổng, Phật giáo lược khảo, Hán Việt văn tự, Ca dao tục ngữ, Việt nam thi ca, Văn chương lối hát Ả đào…
Văn ông Vĩnh giản dị nhẹ nhàng, văn ông Quỳnh chắc chắn trang nghiêm; cho nên ta có thể nói văn ông Vĩnh dễ phổ cập trong đám dân thường, còn văn ông Quỳnh có tính chất đạo mạo của nhà học giả”.
Giữa hai ngôi sao văn học đầu thế kỷ XX, Phạm Quỳnh và Nguyễn văn Vĩnh, thì người đương thời lớp lớn tuổi, có khuynh hướng bảo thủ, trọng ông Quỳnh hơn ông Vĩnh. Nhưng với đám trẻ tuổi của thế hệ 1932 như Vũ Bằng (1913-1984), Nguyễn Vỹ (1912-1971)… lại tỏ ra thích ông Vĩnh hơn ông Quỳnh. Ta hãy thử đọc lại hồi ký Văn thi sĩ tiền chiến (ký ức văn học Khai trí xb-Saigon-1970) của Nguyễn Vỹ khi nhà thơ so sánh hai tay kiệt liệt trên văn đàn đã kể trên, hy vọng biết thêm về họ và ảnh hưởng của họ đối với độc giả và giới cầm bút đương thời:
Tác giả những vần thơ Bạch nga, nhớ lại lần đầu tiên trông thấy Nguyễn văn Vĩnh:
“Hồi hãy còn là một sinh viên bé nhỏ, tôi đã coi Nguyễn Văn Vĩnh như bậc Đại Nhân, siêu quần bạt tụy, tài trí vô song. Chỉ vì tôi đã đọc hết của ông bản dịch bộ sách LES MISÉRABLES của VICTOR HUGO. Trước đó, tôi đã đọc vài bản dịch Chinh Phụ Ngâm ra tiếng Pháp, bài Le Lac ra tiếng Việt, tôi đã không được thỏa mãn. Từ khi đọc mấy bài Fables de La Fontaine của Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra Việt ngữ, và bộ sách dịch “Những kẻ khốn nạn” của ông rất là vĩ đại, thì mỗi lần chỉ thấy cái tên của ông tôi đã cúi đầu khâm phục rồi.
Vào khoảng năm 1930, báo L’Annam Nouveau của ông bằng Pháp văn ra đời. Tôi mua ngay từ số 1, cũng như các bạn trẻ ham học hồi đó. Dù là sinh viên nghèo, chúng tôi cũng ráng mua cho được, mỗi tuần hai kỳ, các số báo L’Annam Nouveau cho đến khi nó tự đóng cửa, vì ông Vĩnh bị vỡ nợ.
Mê Việt văn của ông, thích cả Pháp văn của ông, tôi chỉ ao ước được gặp ông một lần, được hầu chuyện với ông, dù trong một tiếng đồng hồ. Một buổi chiều vào khoảng ba giờ, một người bạn cùng tôi đang đi trên vỉa hè phố Hàng Gai, bỗng người bạn chỉ tôi một ông to béo, mặc âu phục trắng đội mũ trắng bự giống như cái “mũ thuộc địa” (casque colonial của Tây hồi đó), ngồi trên chiếc xe môtô kềnh càng, nổ bình bịch và kêu rầm rầm, từ hàng Bông chạy thẳng xuống hàng Gai. Chúng tôi đứng lại ngó ông. Lúc ông chạy vụt ngang qua chúng tôi, tôi cúi đầu chào. Ông không trông thấy. Nhưng tôi vui sướng vô cùng. Tôi đã thấy mặt nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh.
Trong ba năm còn là cậu sinh viên nhỏ bé, tôi chỉ thấy ông Nguyễn Văn Vĩnh có một lần đó thôi. Nhưng hình ảnh của ông nhà văn to lớn kia đã in sâu vào trong trí nhớ của tôi, và mỗi khi tôi nghĩ đến ông, hay đọc một bài báo, một quyển sách của ông, thì, lạ quá, tôi cứ nghe tiếng xe môtô nổ bình bịch và chạy rầm rầm bên tai tôi”.
Còn chân dung Phạm Quỳnh được Nguyễn Vỹ hồi ức qua lăng kính tình cảm bản thân:
“Một hôm, bọn học sinh chúng tôi, được các giáo sư cho biết là chiều thứ bảy ông Phạm Quỳnh sẽ diễn thuyết tại giảng đường của trường Cao đẳng, chúng tôi nô nức đợi đến chiều ấy để nghe.
Ông chủ nhiệm tạp chí Nam Phong sẽ diễn thuyết bằng tiếng Pháp, về một đề tài rất hấp dẫn: Le Paysan Tonkinois à Travers le Parler populaire (Người dân quê Bắc Việt, xét qua ca dao bình dân).
Kể ra chúng tôi đọc tạp chí Nam Phong đã lâu lắm rồi. Riêng tôi, tôi đã được đọc nó thỉnh thoảng một đôi quyển, của Thầy tôi mượn ở đâu về, vì thời bấy giờ tạp chí Nam Phong ít có bán ở các tiệm sách. Hầu hết độc giả Nam Phong là những quan lại, hoặc một số “trí thức thượng lưu” và “trung lưu” mua năm. Khuynh hướng chính trị gác hẳn ra một bên, chỉ đứng về phía văn học mà thôi thì chúng tôi, tất cả thanh niên trí thức lúc bấy giờ, đều phục cái tài cao học rộng của ông Phạm Quỳnh.
Chữ Pháp, ông viết rất trôi chảy, với một lối hành văn rất bóng bẩy văn hoa, vừa giản dị, khúc chiết, vừa dồi dào ý tưởng.
Việt văn của ông cũng thế. Câu văn rất được săn sóc, điêu luyện theo như hành văn Pháp, rất thận trọng trong việc dùng chữ. Ông đưa đẩy ngòi bút dịu dàng, chững chạc, không dây dưa rườm rà, hoặc nặng nề theo kiểu một số nhà Nho, như ông cử Dương Bá Trạc hay ông Lê Dư, cũng không cứng rắn và đôi khi quá giản dị, thực tế, như cú pháp của ông Nguyễn Văn Vĩnh.
Văn của Phạm Quỳnh là lối văn quí phái, “lối văn hàn lâm viện” như người Pháp nói.
Không thể nào không nhìn nhận rằng thời bấy giờ, ai đọc văn của Phạm Quỳnh cũng đều phải phục văn tài của ông.
Nhất là tụi thanh niên chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi cuốc bộ trên vỉa hè phố Hàng Da, thấy ông Phạm Quỳnh ngồi chễm chệ trên chiếc xe kéo nhà, sơn màu gạch bóng loáng, từ trong cổng nhà ông đi ra, hoặc đi đâu về.
Đi xe kéo nhà như thế, là sang nhất lúc bấy giờ. Ông mặc quốc phục Việt, áo dài the đoạn, hoặc Satin. Không bao giờ Phạm Quỳnh mặc Âu phục, chân luôn luôn mang giày Escarpin (một kiểu giày của những người trưởng giả thời ấy), đầu chít khăn đóng, mắt đeo kính trắng. Vì điệu bộ quí phái ra vẻ bệ vệ của ông mà đám thanh niên trí thức chế nhạo ông, đặt cho ông cái biệt hiệu là “Kính trắng tiên sinh”. Tiếng Bắc, kính tức là kiếng trong tiếng Nam…
Hôm chiều thứ bảy ấy, ông Phạm Quỳnh diễn thuyết bằng tiếng Pháp tại giảng đường Cao đẳng Đông Dương ở Hà Nội, đường Bobillot, sinh viên đến nghe rất đông. Ở từng dưới, là các dãy ghế danh dự, có ông Thống sứ Bắc Kỳ chủ tọa, với tất cả các nhân vật cao cấp Pháp Việt ở Hà Nội, đa số là Tây và Đầm. Còn chúng tôi là sinh viên thì chen nhau đứng chật bao lơn từng trên, – theo tiếng thông dụng các rạp hát lúc bấy giờ gọi là trên “chuồng gà” (poulailler). Tôi đứng với một đám nam sinh và nữ sinh trường Thuốc và Sư phạm, phía bên trái. Có một cô bạn cứ ho từng cơn, khiến chúng tôi rất bực mình.
Sau lời giới thiệu của viên Giám đốc Học Chánh Bắc Kỳ, ông Phạm Quỳnh từ phía sau giảng đường ung dung bước ra diễn đàn. Ông rất bình tĩnh, thong thả, bệ vệ.
Lúc bấy giờ không có micro, nhưng Phạm Quỳnh cất tiếng nói rõ ràng, chững chạc, êm ái. Chúng tôi ở trên “chuồng gà” nghe rất rõ. Đứng nói mấy lời cảm ơn các quan khách, rồi ông thong thả ngồi xuống ghế, trước chiếc bàn gỗ gụ lớn, trải tấm khăn nhung xanh màu da trời.
Ông đủng đỉnh gỡ cặp kiếng trắng gọng bạc để xuống bàn, lấy cặp kiếng trắng gọng vàng đeo vào, và rút trong túi áo ra một xấp giấy đánh máy.
Ông cất tiếng nói. Ông không chúi mũi xuống giấy như nhiều diễn giả khác đọc như đọc bài văn tế. Ông cũng không nói lung tung lộn xộn như một số diễn giả khác không theo một dự thảo hoạch định trước. Ông đã viết sẵn bài thuyết trình, rồi theo đó mà nói, thỉnh thoảng mới ngó vào giấy, nói rất tự nhiên, rất lưu loát, văn hoa… Tất cả đều phục ông Phạm Quỳnh có tài hùng biện, hoạt bát, duyên dáng mà vẫn nghiêm nghị. Lần đầu tiên chúng tôi được nghe một người Việt Nam diễn thuyết trước công chúng tri thức Việt Pháp trên 500 người, bằng tiếng Pháp lưu loát hấp dẫn như thế. Hôm ấy, ông Phạm Quỳnh đã gây được lòng khâm phục hoàn toàn của toàn thể thính giả Pháp và Việt.
Tôi ra về thỏa mãn. Từ đó về sau, cũng như hầu hết các bạn trẻ sinh viên, tôi đã đọc tất cả các sách của Phạm Quỳnh xuất bản. Tác phẩm của ông đều là những bài ông đã viết đăng trong Nam Phong, và gom góp in ra thành sách. Dù nghèo túng đến đâu, chúng tôi cũng ráng để dành tiền mua sách của Phạm Quỳnh. Chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều trong các sách của ông. Chúng tôi cũng chịu ảnh hưởng nhiều trong lối hành văn và cách diễn đạt tư tưởng của bậc văn sĩ tài hoa ấy”.
Trong phần cuối của hồi ức về hai nhà văn tiền phong, thi sĩ Nguyễn Vỹ so sánh:
“Giới trí thức Hà Nội Tiền chiến thường so sánh hai nhân vật này, vì họ hoàn toàn trái ngược nhau. Trên bình diện chính trị, ông Phạm Quỳnh chủ trương Bảo Hoàng, yêu cầu chính phủ thuộc địa áp dụng đúng đắn Hiệp ước Patenôtre (1884), trao trả quyền hành chánh cho Bảo Đại ở cả Trung và Bắc Kỳ, theo một hiến pháp do Phạm Quỳnh soạn thảo, và được các báo Pháp đương thời gọi là “Constituion Pham Quynh”.
Nguyễn Văn Vĩnh, trái lại, đòi thực hành cho Trung Bắc Kỳ một chính sách mà ông gọi là Administration Directe (trực trị), nghĩa là dẹp bỏ ngôi vua, để Pháp trực tiếp cai trị với sự tham gia hành chánh trực tiếp của nhân dân do Thượng, Hạ Nghị Viện của nhân dân bầu cử. Người Pháp dĩ nhiên ủng hộ Phạm Quỳnh.
Chủ trương “trực trị” của Nguyễn Văn Vĩnh bị Phạm Quỳnh đả kích kịch liệt trong các bài xã thuyết của ông đăng trong nhật báo Pháp France-Indochine ở Hà Nội. Để “an ủi” Nguyễn Văn Vĩnh, Chủ nhiệm kiêm Chủ bút báo L’Annam Nouveau, Chính phủ Pháp tặng ông Bắc Đẩu Bội Tinh (Légion d’Honneur) là huy chương cao quý nhất của Pháp, nhưng ông Vĩnh không nhận.
Vụ huy chương này hoàn toàn giữ kín, dư luận dân chúng không hay biết gì, nhưng các giới trí thức và cách mạng ở Hà Nội đều biết rõ, và sự khí khái của ông Nguyễn Văn Vĩnh cương quyết từ khước “Légion d’Honneur” của Pháp, được các giới ấy, nhất là giới trí thức thanh niên, nhiệt liệt hoan nghênh.
Uy tín của Nguyễn Văn Vĩnh càng được tăng cao từ vụ này.
Về phương diện thuần túy văn học, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh cũng hoàn toàn trái ngược nhau.
Nam Phong Tạp chí, nguyên là do tiền trợ cấp của Chính phủ thuộc địa Pháp, và người sáng lập là Giám đốc Chánh trị vụ của Phủ Toàn quyền Đông Dương, tức cũng như Tổng Giám đốc Mật thám Phủ Toàn quyền.
Phạm Quỳnh có một lối văn Hàn lâm (style académique) rất văn hoa, nhưng chững chạc, nghiêm nghị, bệ vệ, văn Pháp cũng như văn Việt; khác hẳn lối văn giản dị thiết thực hoàn toàn bình dân của Nguyễn Văn Vĩnh, văn Pháp cũng như văn Việt của ông Chủ nhiệm L’Annam Nouveau và cựu Chủ bút Trung Bắc Tân văn, Đông Dương Tạp chí, thật là lưu loát, và thường châm biếm, đúng với truyền thống hài hước của tinh thần dân tộc Việt Nam. Văn Phạm Quỳnh có rất ít điểm hài hước hóm hỉnh đó.
Thanh niên Tiền chiến ưa tìm học hỏi nơi tri thức uyên thâm và văn chương hoa mỹ của Phạm Quỳnh, gác ngoài lập trường chính trị của ông, cũng như họ thích những kinh nghiệm về văn hóa tổng hợp, khoáng đạt, cởi mở, bình dân của Nguyễn Văn Vĩnh. Cho đến nếp sống cá nhân, gia đình, xã hội của hai người cũng cách biệt nhau xa.
Phạm Quỳnh đeo kính trắng gọng vàng, ngồi chiếc xe kéo nhà quí phái, đi đứng thong dong, nói cười mực thước, chỉ giao thiệp với hạng thượng lưu, vì vậy mà các giới thanh niên trí thức Hà Nội gọi ông là “Kính trắng Tiên sinh” và “Học phiệt”.
Trái lại, Nguyễn Văn Vĩnh thích mặc sơ mi, quần “short”, cỡi xe môtô, giao du với đủ các giới, nói to, cười lớn, ưa đánh tổ tôm, săn bắn và có óc phiêu lưu.
Ông Vĩnh có hai vợ, một bà Bắc, một bà Đầm lai, cả hai đều phải lo giúp đỡ ông, và gia đình ông tuy thuộc về giới thượng lưu nhưng luôn luôn túng thiếu.
Công việc kinh doanh của ông về sách báo, xuất bản, rất là rộng lớn mà phương diện tài chánh lại không được dồi dào.
Phạm Quỳnh, trái lại, được sung túc, ra vẻ danh gia thế phiệt, đại trưởng giả.
Kết cuộc số phận, hai ông đều là nạn nhân của hai thái cực: Phạm Quỳnh ra làm quan, lên bực Đại thần được tín dụng bên cạnh ngai vàng, quyền cao chức cả tột bực, để rồi, sau cùng, bị chết thê thảm… Nguyễn Văn Vĩnh bị phá sản, vì sự nghiệp văn chương rủ một người bạn Pháp, cũng có óc phiêu lưu văn nghệ như ông, đi qua Lào để tìm mỏ vàng! Sau cùng, ông chết ở Lào vì bệnh sốt rét rừng, xa quê hương, gia đình, bạn hữu, như một “bôhêmiên” bất cần định mạng”.
Hoàng Yên Lưu
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
24 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11061)
Tôi đã trở lại với anh em, với bạn bè. Nhưng đành phải vĩnh viễn từ giã chiếc phi cơ thân yêu mang số đuôi 526 - chiếc phi cơ đã gắn bó với chúng tôi trong bao phi vụ hành quân
20 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11392)
Nghi lễ Thanksgiving được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước Mỹ, năm 1578, khi nhà thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới.
19 Tháng Mười Một 2012(Xem: 12234)
Thực đúng như vậy, chúng ta đã sinh ra đời trên quê hương không hề có sự lựa chọn nhưng nếu phải trả giá với sự sống chết thì chúng ta vẫn có cơ may lựa chọn nơi sinh sống.
18 Tháng Mười Một 2012(Xem: 12004)
Và tôi cũng tin rằng ở một nơi chốn bình yên nào đó, chắc chắn hồn anh cũng mãi nhớ đến những cánh chim cùng bầy ngày nào, giờ đang tan tác khắp bốn phương trời cách biệt.
18 Tháng Mười Một 2012(Xem: 10624)
Hãy hưng phấn lên anh em ơi, gánh núi nặng trên vai người chiến sĩ quốc gia sắp đến chỗ đỗ rồi, lá cộng sản đã quá vàng khô, nó PHẢI RỤNG vì không thể không rụng./.
17 Tháng Mười Một 2012(Xem: 10193)
Một khi Trung cộng sụp đổ thì cộng sản An nam hết chỗ dựa cũng tiêu tùng. Huống chi tuổi trẻ Việt Nam hiện nay đã lấy lại tính chất ngạo nghễ truyền thống như kể trên thì ngày tàn của bạo chúa 14 tên ở cung Ba Đình đã gần kề.
17 Tháng Mười Một 2012(Xem: 12093)
Với mục đích giới thiệu về ngôi trường trung học Ngô Quyền Biên Hòa yêu dấu năm xưa, KTS. Nguyễn Mạnh Dũng – CHS.NQBH khóa 13 – đã có ý tưởng tái hiện lại chiếc cổng trường Ngô Quyền trong khuôn viên Một Thuở
16 Tháng Mười Một 2012(Xem: 14730)
chỉ hy vọng một ngày nào đó tôi viết một cuốn hồi ký, họa may mới dàn trải được số phận của bài thơ Kỷ Vật Cho em.
13 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11013)
Truyền thống, tình tự dân tộc Việt Nam trải dài lịch sử bốn ngàn năm, có sá gì 70 năm nhiễm nọc độc duy vật vô thần, vô tổ quốc cộng sản.
11 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11892)
NHỮNG HÌNH ẢNH NẦY PHẢI ĐƯỢC MỌI NGƯỜI TRUYỀN TẢI ĐẾN THẾ HỆ TRẺ HÔM NAY VÀ MAI SAU , TRONG CŨNG NHƯ NGOÀI NƯỚC .
09 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11029)
Mai nầy con giao long ấy, trước vận nước ngã nghiêng, trước thái độ nhu nhược, ươn hèn của bè đảng csvn trước giặc Tàu xâm lược, giựt mình tỉnh thức, sẽ vùng dậy vươn vuốt sắc, vì dân khử bạo:
08 Tháng Mười Một 2012(Xem: 18364)
Vậy mà chẳng còn bao lâu nữa là tròn 36 năm chúng ta cư ngụ tại nơi này. Mới ngày nao bỡ ngỡ đến đây, nay nhớ lại đã là câu chuyện của ngày xưa với bao nhiêu quên-nhớ, ngậm ngùi.
07 Tháng Mười Một 2012(Xem: 14720)
Cộng Sản Việt Nam vẫn ngoan cố như tự bao giờ, trước sau như một. Địa vị của Đảng vẫn phải được củng cố vững mạnh hơn bao giờ hết bằng lưỡi lê và họng súng.
06 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11093)
Cố Miên vương Shihanouk, dù cách nào, ông vẫn được toàn dân Miên kính mến như "cha già của dân tộc Kampuchia".
06 Tháng Mười Một 2012(Xem: 12045)
Thời gian trôi qua, những đặc quyền dành cho tổng thống ngày càng nhiều hơn. Mặc dù một số đặc quyền gây tranh cãi song nhìn chungngười Mỹ dường như chấp nhận cách đối xử đặc biệt này.
06 Tháng Mười Một 2012(Xem: 17524)
Thế hệ trẻ còn một con đường dài ở phía trước. Vẫn còn đó con đường mà Cụ Phan Chu Trinh còn đang bỏ ngỏ nhưng rất sáng giá và tỏ ra có ưu thế trong tình hình nước ta hiện nay.
05 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11869)
Người dân đã quá mệt mỏi với bao vấn đề về cơm áo gạo tiền giờ đến lượt của để dành cũng bị các ông làm cho khốn đốn. Làm dân Việt Nam sao mà khổ thế còn làm quan ở ta thì sướng không gì bằng
03 Tháng Mười Một 2012(Xem: 10596)
Một phút trước là nô lệ, một phút sau là con người của tự do. Nếu hỏi một người dân thiểu số, cái gì quý nhất: Muối. Nếu hỏi một người Hà Nôi, lúc này đây, cái gì quí nhất: tự do.
01 Tháng Mười Một 2012(Xem: 10251)
Ngày nay, sự thể tỏ rõ đúng y như vậy: Giai cấp nông dân sẽ tiến hành cuộc cách mạng tư sản nhân quyền, là người đào mồ chôn chế độ cộng sản phi nhân
30 Tháng Mười 2012(Xem: 11124)
Vận mệnh Đất Nước là ở trong tay các bạn. Hãy hành xử đúng tư cách là NGƯỜI CHỦ. Với Tâm Niệm theo Truyền thống DIÊN HỒNG - VÌ DÂN LIỀU THÂN
30 Tháng Mười 2012(Xem: 32186)
Kể từ đó, khi Ấp Chiến Lược bị phá bỏ, thì quê tôi, quận Tiên Phước gồm 15 xã, mà việt cộng đã chiếm hết 11 xã, chỉ còn có 4 xã nằm chung quanh quận lỵ, mà chẳng có xã nào còn nguyên vẹn
30 Tháng Mười 2012(Xem: 10597)
Hãy vững tâm, bền chí Việt Khang Em sẽ ra tù trước hạn VẼ VANG Bọn phản quốc sắp đến ngày đền tội Hẹn em ngày về VINH QUANG
29 Tháng Mười 2012(Xem: 10274)
Hổng chịu ăn học tử tế Theo cọng sản làm phản Bán nước hại dân tan nát Bây giờ vô liêm sỉ lòn trôn
26 Tháng Mười 2012(Xem: 10091)
Ở bài này, tôi đã chứng minh cuộc chiến tranh từ du kích đến quy mô lớn ở Việt Nam là do ông Hồ và đảng cộng sản gây ra. Đây là cuộc chiến tranh phi nghĩa không phải theo lý do “giải phóng” dân tộc.
25 Tháng Mười 2012(Xem: 11391)
Ai ra xứ Huế thì ra Ai về là về núi Ngự Ai về là về sông Hương Nước sông Hương còn thương chưa cạn
24 Tháng Mười 2012(Xem: 12789)
Tại sao ông Hồ và đảng cộng sản lừa dối không công khai bức thư? Tại sao ông đi kiếm ăn lại nói dối “Tìm đường cứu nước”? Đó chính là sự lừa dối không thể chấp nhận được.
24 Tháng Mười 2012(Xem: 10456)
Qua bài này tôi đã chứng minh một sự thật là ông Đồng và ông Hồ đã thông qua công hàm 1958 để bán tổ quốc Việt Nam cho Trung Cộng. Vai trò của ông Hồ là hết sức rõ rệt trong sự kiện này
23 Tháng Mười 2012(Xem: 9994)
Thân là lãnh đạo quốc gia, chúng hành xử thua đồ con nít. Theo truyền thống Việt Nam, mỗi khi trẻ em phạm lỗi, mẹ bắt cúi xuống đánh đòn, răn dạy.
21 Tháng Mười 2012(Xem: 10055)
Bản báo cáo dài 52 trang của Ủy ban Tình báo Hạ viện Mỹ đề cập đến việc một số công ty Mỹ sử dụng thiết bị của Hoa Vi và Trung Hưng đã gặp những trường hợp “kỳ lạ” và “đáng báo động”
21 Tháng Mười 2012(Xem: 9702)
Người nghệ sĩ lăn lóc gió sương. Tơ đàn say đắm quên sầu thương. Dành tình này cho kẻ khổ đau. Quên tình xưa thôn nữ chờ mong.”
18 Tháng Mười 2012(Xem: 11570)
Dù xa QUÊ HƯƠNG tôi vẩn không bao giờ quên được Sài Gòn với những chiếc xe thổ mộ kết nối tình duyên của song thân ..với những gánh hàng rong khắp nẽo đường
18 Tháng Mười 2012(Xem: 10425)
Dân Làm Báo có câu khẩu hiệu: Mỗi người là một chiến sĩ thông tin. Trên mặt trận vận động cách mạng giải trừ độc tài toàn trị cộng sản, xin nêu lên khẩu hiệu: MỖI NGƯỜI LÀ MỘT CHIẾN SĨ DÂN VẬN.
16 Tháng Mười 2012(Xem: 15035)
Chỉ xem có một lần nên không biết có chiếu nhiều lần hay không, nếu có thì tôi đã bỏ lỡ cơ hội rất tốt vì căn cứ theo phim đã xem thì nơi này chọn lựa phim rất hay.
13 Tháng Mười 2012(Xem: 12530)
Hội nghị Diên Hồng được xem như hội nghị dân chủ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Các phụ lão có thể coi là những đại biểu của dân. Sau hội nghị, chính các phụ lão là những người truyền đạt lại chủ trương của chính quyền đến người dân.
12 Tháng Mười 2012(Xem: 10443)
Sự thay thế nó và toàn bộ tổ chức và cơ chế của nó là điều không dễ, vì nó đã bám rễ khá sâu vào con người Việt Nam. Nhưng vì tương lai của dân tộc và nhất là để tránh họa bị đồng hóa, người Việt Nam không có con đường nào khác là: giải thể nó và hướng đi ra biển bắt tay với cộng đồng thế giới.
11 Tháng Mười 2012(Xem: 10575)
Vừa đem mồi Hòa hợp, Hòa giải dụ khị cả ba bề, bốn bên vừa đánh lạc hướng công luận về “ Cái nồi súp de tranh ăn của bọn trùm đảng” đang sôi sùng sục, sắp nổ bùng ngay trước lăng vệ sinh già hồ Ba Đình.
10 Tháng Mười 2012(Xem: 10971)
Lord hold our troops in your loving hands. Protect them as they protect us. Bless them & their families for the selfless acts they perform for us in our time of need. In Jesus name,
09 Tháng Mười 2012(Xem: 10669)
Dân tộc Việt Nam, trải qua bốn ngàn năm lịch sử, chưa có thời kỳ nào hèn yếu như hiện nay, chỉ vì bọn cọng sản tàn ngược quá lẽ. Tuổi trẻ ngạo khí tiêu trầm.
09 Tháng Mười 2012(Xem: 12030)
Tôi nghĩ mọi người ở Hoa Kỳ phải nên đọc bài này,nhưng vì ACLU *nên không có cách nào để việc này được phổ biến rộng rãi trừ phi mỗi chúng ta tiếp tay phát tán ra.
07 Tháng Mười 2012(Xem: 10621)
Nhật Bản mua của Hoa Kỳ 42 chiến đấu cơ F-35 Lightning II A/B. Loại F-35B cất và hạ cánh thẳng đứng có thể trang bị cho 4 tàu đổ bộ trực thăng cải tiến từ các tuần dương hạm. Máy bay Kawasaki C-2 có khoảng 50 chiếc là loại tấn công mặt đất và ném bom chiến thuật.
06 Tháng Mười 2012(Xem: 10349)
Gương mặt bức tượng nổi tiếng nhất nước Mỹ được lấy nguyên mẫu từ mẹ của tác giả thiết kế bức tượng. Trong mắt những người nhập cư đến “xứ sở cờ hoa” – vùng đất hứa của mọi người, bức tượng Nữ thần Tự do là hình ảnh đầu tiên đập vào mắt họ
04 Tháng Mười 2012(Xem: 24287)
Ước mong hàng thức giả trong, ngoài nước dõng mãnh đứng lên vì Đại Nghĩa Dân Tộc dẫn dắt toàn dân tiến bước, dứt trừ hoạn họa cộng sản tham tàn
04 Tháng Mười 2012(Xem: 10632)
Giờ đây chiến cuộc đã tàn phai. Nhiều anh em y sĩ Hải Quân đã trở về trong lòng đất lạnh. Hồi tưởng lại buổi thiếu thời, sau khi đã nếm mùi biển động của Đại Tây Dương
04 Tháng Mười 2012(Xem: 9507)
Em tôi hỡi ! Cớ sao em cười? Đừng đùa với mối tình đầu tiên Cho tan vỡ những câu tâm tình Mà mình đã dối lòng mình yêu...”
03 Tháng Mười 2012(Xem: 10089)
Von Braun tin tưởng vào trật tự của Vũ Trụ và cho rằng con người sẽ tới được các thế giới tuy xa xôi nhưng không kém phần đẹp đẽ và huyền bí
02 Tháng Mười 2012(Xem: 9928)
Khi mặt trời vừa khuất bóng, tiếng còi trên đài chỉ huy vang lên để cử hành lễ hạ kỳ. Mọi người đứng nghiêm chào lá quốc kỳ đang hạ xuống, sau đó chiến hạm bật đèn hải hành. Lúc đó các chiến hạm bạn đang tiến đến gần,
02 Tháng Mười 2012(Xem: 11490)
Dù sao thì trên 30 chiến hạm của HQVNCH di tản trước đây đã làm tròn nhiệm vụ ngăn chận giặc thù việt cộng và tàu cộng, giữ yên lòng biển Mẹ trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam Việt Nam
02 Tháng Mười 2012(Xem: 10741)
Bộ ảnh sau đây là những tác phẩm tuyệt vời về tranh thêu…Trong đó ta sẽ cảm nhận được hương vị của mùa xuân, của truyền thống dân tộc Việt về tranh thêu…
02 Tháng Mười 2012(Xem: 10429)
Chỉ những ai có duyên phận mới trở thành người thân của nhau, cho dù trong cuộc sống bận rộn bạn ít khi gặp mọi người, nhưng bạn hãy trân trọng từng khoảnh khắc khi còn bên họ, hãy dành cho họ thời gian để yêu thương bạn hơn.