Ôn Ngoại Viên Ngạc
Chồng tôi không mang họ Hà Thúc mà họ Nguyễn, họ Hà là họ mẹ. Mạ chồng tôi là chị cả của 7 người cậu và 1 người dì. Lúc còn ở Việt Nam, tôi đã gặp tất cả các cậu dì bên chồng, ngoại trừ cậu Hà Thúc Giảng sống ở Mỹ. Sau hơn mười năm cải tạo, bây giờ hầu hết gia đình các cậu đều định cư ở vùng Bắc California.
Nhân dịp các cậu mợ xuôi Nam về Little Saigon, cùng lúc tôi từ Virginia qua, tôi theo cậu mợ Hà Thúc Giác đi dự trại hè liên trường trung học trước 1975 ở công viên Fountain Valley. Chúng tôi ăn trưa và nghe ca nhạc ngoài trời. Trong khi mợ Giác tập dợt bài hát chờ đến lượt mình, cậu Giác chụp hình xong ra đứng dưới bóng cây râm mát, kể cho tôi nghe những kỷ niệm xưa ở Huế. Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của cha cậu, ông Hà Thúc Ngạc, còn được gọi là Viên Ngạc, Ôn Ngoại của chồng tôi.
Cậu Giác nhắc nhớ đến cha mình bằng một giọng yêu thương và lòng tự hào. Trưa hè Nam Cali nắng và nóng như thiêu đốt, nhưng tôi đã bị lôi cuốn bởi câu chuyện của giòng họ Hà Thúc nên chỉ còn cảm nhận được làn gió mát thỉnh thoảng thổi qua. Từ đó tôi được biết thêm về Ôn Ngoại Viên Ngạc, thần tượng của chồng tôi.
*****
Ôn Cố Ngoại xuất thân từ một gia đình danh gia vọng tộc. Ông đã thi đậu Cử nhân, lẽ ra được bổ nhiệm làm quan ngay sau đó, nhưng mẹ ông mất phải để tang 3 năm. Mãn tang, ông nhậm chức thì đã chậm hơn những người thi đậu sau ông, nó cũng đồng nghĩa với việc bổng lộc được hưởng trong thời gian làm quan ngắn hơn. Tuy không bằng những người thi đậu sau mình, nhưng ruộng đất của ông lúc đó cũng gọi là “cò bay thẳng cánh”.
Giai đoạn Ôn Cố làm quan, nông nghiệp vẫn là nghề quan trong nên mới có câu: “nhất Sĩ nhì Nông, hết gạo chạy rông, nhất Nông nhì Sĩ”. Con trai của quan cũng theo hai khuynh hướng: một số con được cho đi học để theo nghiệp quan như cha, gọi là Ấm, số còn lại đi làm ruộng để giữ đất đai ruộng vườn của cha ông, gọi là Viên. Ôn Ngoại thuộc số con theo nghề nông, tên Hà Thúc Ngạc nên được gọi là Viên Ngạc.
Ôn Ngoại tiếng là Viên nhưng thông minh và có khiếu thơ văn không kém chi Ấm. Theo lời chồng tôi, tài thi phú của Ôn thể hiện qua cách đặt tên theo vần như: Say, Sưa, Dày, Mỏng, Thôi, Thiệt, Mà. Hoặc gọi tên các cháu theo âm điệu cho dễ nhớ như: An Nhàn Phê Phết Dàn Du Cốm Bạch Diệp.
Ôn ngoại có vóc dáng của một tá điền lực lưỡng, làm việc đồng áng rất giỏi. Buổi sáng ôn thức dậy sớm, theo trâu ra đồng, trưa về, ngồi ở bộ ván xoẹt xoẹt hai chân với nhau vài cái rồi lăn ra ngủ. Mấy người con hỏi cắc cớ: “răng cha không rửa chưn?” thì ôn trả lời: “chút nữa ra ruộng cày tiếp, rửa mần chi”. Ôn đơn giản vậy đó!
Ai nói dân làm ruộng cục mịch, gặp Ôn Ngoại sẽ thay đổi ý kiến ngay. Ôn nói năng mạch lạc, rõ ràng, ngoài ra còn khéo tay nữa. Bàn ghế dùng trong nhà đều do một tay Ôn làm ra, tuy nhìn không thẩm mỹ như mua ngoài tiệm nhưng rất chắc chắn, và trên hết, đó là những vật dụng đẹp nhất trong mắt của con, cháu Ôn.
Khoảng năm 1952 Ôn chuyển lên thành phố sống, chỉ về làng để làm vườn. Chồng tôi và các em con cậu đều sống chung với Ôn ở căn nhà đó. Ôn thường bắt cả bầy cháu ngồi xếp hàng ngoài sân cho Ôn hớt tóc. Đồ nghề hớt tóc của Ôn gồm một cây lược, một cây kéo, và một cây chổi đót (chổi cỏ quét nhà). Bầy cháu đều ngoan ngoãn ngồi cho ôn hớt tóc từng đứa, riêng một đứa con cậu Hà Thúc Mảng không bao giờ cho Ôn hớt, còn hay vùng vằng: “hông búp, búp hông bẹp” (không hớt, hớt không đẹp). Sau khi hớt tóc xong, Ôn dùng cây chổi đót quét tóc dính trên đầu lên cổ bầy cháu cho sạch. Tôi đã có lần hỏi chồng tôi Ôn cắt tóc đẹp không. “Biết chi mô, nhưng cắt tóc xong được ôn cho tiền nên cứ cắt thôi”. Chồng tôi hóm hỉnh tiếp: “thợ cắt tóc mà còn phải trả tiền cho khách hàng mới lạ”.
Ôn thương yêu con nhưng dạy dỗ rất nghiêm, mấy cậu dù có lớn cũng bị ăn roi nên sợ cha một phép. Chồng tôi là cháu ngọai đầu nên được Ôn cưng chìu, đến bữa ăn ôn thường cho chồng tôi ngồi trên bàn và đút ăn trước. Lúc chồng tôi lên 3-4 tuổi, bị sốt cao tím tái người, Ôn đã cõng thằng cháu ngoại chạy bộ từ nhà đến bịnh viện bằng đôi chân trần chai sạn của Ôn, bỏ việc ruộng vườn để ở lại bịnh viện nuôi thằng cháu nhỏ.
Lần lượt từng người con lớn lên lập gia đình ra ở riêng. Những đứa cháu nội ngoại đều đi học nên ít gặp Ôn. Sau năm 1975 hầu hết ruộng đất của Ôn bị tịch thu. Ít về làng, Ôn ở nhà lấy thú nuôi chim, trồng cây tiêu khiển. Ôn có thể đạp xe hàng chục cây số để bắt cào cào, châu chấu cho chim ăn. Trong số mấy con chim quý Ôn nuôi, có con nhồng đẹp biết nói, ông Ngô Đình Cẩn nhiều lần hỏi mua nhưng Ôn không bán. Dạo Ôn bịnh nặng, cậu Hà Thúc Tứ ra trại, đem Ôn vào Sài Gòn ở nhà cậu để điều trị. Đi theo Ôn chỉ có hai cái lồng và hai con nhồng quý.
Mỗi tuần chồng tôi đưa vợ con đến nhà cậu mợ thăm Ôn. Tuy Ôn bịnh nhưng tinh thần vẫn minh mẫn, chỉ khó khăn khi nói. Giường Ôn nằm nhìn ra cửa sổ có treo lồng chim ngoài sân. Đó là niềm vui của Ôn! Hai đứa con của chúng tôi rất thích nghe nhồng nói chuyện, về nhà thường bắt chước giọng điệu của nhồng: “chai bao bán khôn” (ve chai bán không). Chúng thường phân biệt các ông bên ngoại, bên nội bằng cách gọi Ôn là “Ông Cố có con nhồng”. Sau khi Ôn mất, hai con nhồng bỏ ăn uống, không nói chuyện, lần lượt đi theo Ôn. Hai đứa con chúng tôi cũng rất tiếc.
Chuyện kể về Ôn Ngoại còn dài. Tôi sẽ còn được nhiều dịp nghe chồng tôi, các em con cậu, các cậu nhắc nhớ đến Ôn mỗi khi có dịp ngồi lại với nhau. Tôi cảm nhận được niềm kiêu hãnh trong từng lời nói của cậu Giác, một sĩ quan xông pha trận mạc xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, nhưng khi về nhà bên cha, cậu chỉ như đứa trẻ. Hay cậu Hạo, một giáo sư giản dị, đã thay các anh trong trai cải tạo nuôi cha qua giai đoạn khó khăn. Và câu nói với giọng cười đôn hậu của mạ chồng tôi: “Ôn đập mấy cậu hung lắm, nhưng mạ chưa khi mô bị Ôn đập”.
Tôi ngưỡng mộ gia đình bên chồng có một người cha, người ông như Ôn Viên Ngạc.
Hồ Thị Kim Trâm