4:54 CH
Thứ Sáu
26
Tháng Tư
2024

Còn một chỗ để trở về - Thích Nguyên Hạnh

14 Tháng Tám 201212:00 SA(Xem: 18115)

Còn một chỗ để trở về

Tôi bỏ mẹ mà đi tu từ khi mới vừa học xong mẫu giáo. Ngày đó tôi không còn hình dung ra thế nào. Chỉ còn chút ám ảnh mơ hồ là giọt nước mắt lấp lánh trên khuôn mặt nặng buồn của mẹ; là tiếng mẹ tôi – mà sau này nghĩ lại, tôi mới nghe được hết cái nghẹn ngào tủi hờn trong đó – “Thôi, đi đi. Đi ở với người ta cho sướng. Ở với mẹ khổ quá mà!”

 Còn lấy chút ám ảnh mơ hồ này là vì, những gì đó đã đọng lại trong trái tim thơ dại của tôi, đã hiện lên và vang động trong những đêm đầu tiên, tôi nằm một thân một mình như đứa trẻ mồ côi dưới mái Ngôi Chùa nhỏ ở một quận lỵ trên miền cao nguyên lạnh lẽo, xa vời, cách biệt. Đứa bé là tôi đó đã khóc với nỗi cô độc đầu đời của mình, lặng lẽ trong nhiều đêm lạnh với giọt nước mắt mẹ, với khuôn mặt mẹ buồn, với tiếng nói như xa như gần của mẹ trong cái buổi sáng mẹ tôi đưa tôi đi tu.


 Rồi cũng thôi, tôi không khóc nữa để còn cắp sách đến trường, để sớm chiều còn lo học kinh kệ. Nhưng những đêm đầu tiên đó cũng đã đủ cho tôi giữ chặt trong lòng để khi nào nghĩ đến cũng mường tượng ra, dù mơ hồ, cái hình ảnh xa vời của ngày tôi bỏ mẹ mà đi tu. Cuộc chiến tranh 1947-1954 trên quê nghèo xơ xác từ bao đời đã làm cho cửa nhà cha mẹ tôi tan nát mấy bận. Cơm không đủ ăn, phải sắn khoai đắp đổi qua ngày.


 Một chiều đông, sau cơn lụt tháng mười gạo thóc để dành cho những ngày rét mướt bị hư hao, cả nhà ngồi quanh cái mâm … không cơm, mẹ phán “từ rày, mỗi bữa mỗi đứa chỉ được một chén cơm lưng thôi.” Đứa bé là tôi không hiểu nỗi cơ hàn vây bủa đang đè nặng trong lòng mẹ thế nào, đã ấm ức và gan lì chấp nhận, tự hẹn sẽ không bao giờ ăn chén cơm thứ hai nào nữa. Để rồi, mặc cho mẹ buồn, mẹ giận, mẹ năn nỉ, đứa bé là tôi cũng nhất định sống với cái “khẩu quyết” một bữa một chén dễ chừng đến cả mấy tháng về sau, ngay cả khi cơm gạo đã có đủ cho cả nhà tạm no bụng. Mùa đông nơi quê tôi lạnh rét đến như cắt da cắt thịt.


 Hình ảnh mẹ trong những đêm đông mưa gió mới thật là não lòng. Dưới mái nhà tranh rách nát vì bom đạn chưa được sửa chữa, lờ mờ bóng mẹ ngồi co ro nơi một góc nhà ướt đẫm, lặng nhìn mấy anh chị em chúng tôi cuốn tròn trong những manh chiếu rách hay tấm vải bố tả tơi nơi một góc nhà còn khô ráo. Có lẽ, đây là hình ảnh gây ấn tượng sâu nhất nơi tôi; đến nỗi trong suốt gần nửa thế kỷ trôi qua, hễ cứ nhìn thấy mưa gió ở đâu trên mặt đất này là lòng tôi cũng chùng xuống với cái hình ảnh đã trở thành kinh nghiệm đầu đời gắn liền với thịt da mình “bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn…” để cho nỗi thương thân mình thì ít mà nỗi thương thân mẹ thì nhiều. Thân mẹ tôi đó. Cả một đời còm cõi dưới sức nặng của cuộc sống đầy những tai trời, ách nước, họa người. tôi không có nhiều năm tháng sống với mẹ để có thể hiểu được sức chịu đựng của mẹ như thế nào.


 Lại đi tu ở những miền xa hun hút, không thư từ liên lạc, không một kẻ đồng hương lai vãng trong suốt nhiều năm trời. Chỉ còn chừng đó kỷ niệm về mẹ của cái thời tôi mới lên 5, lên 6 trong cảnh nghèo da diết với đói, với lạnh và với mẹ. Nhưng chính vì chỉ có chừng đó mà kỷ niệm thành mạnh, thành sâu, thành đáng trân trọng hơn cả món quà hiếm hoi nào của đời sống này cho tôi. Mãi đến năm 1963, khi đã bắt đầu lớn, từ Nha Trang về ở Phật Học Viện Báo Quốc, Huế, tôi mới có cơ hội về thăm mẹ. Nhưng cũng chỉ hai, ba lần của năm này. Rồi thôi.


 Mẹ rồi lại xa biền biệt khi tôi như một tu sĩ “du phương” năm này chốn này, năm sau đã chốn khác. Rồi Tết Mậu Thân 1968. Rồi Đại Lộ Kinh Hoàng 1972. Mẹ bị vây hãm trong vòng lửa đạn mấy lần. Chị tôi kể, lần đó, chiến tranh sắp tràn về làng, chết chóc rình rập ở khắp mọi nơi, ai ai cũng kinh hoàng lo chạy loạn, con cháu đem võng lên để võng mẹ cùng đi. Nhưng năn nỉ, lạy lục bao nhiêu mẹ cũng từ chối, chỉ sợ mình làm vướng tay, vuớng chân của con cháu mà thôi. Mấy chị tình nguyện ở lại với mẹ, mẹ cũng không cho mà bảo “đã lấy chồng thì phải theo gia đình chồng cho trọn đạo.


 Ở lại với mệ có bề gì thì lấy ai lo cho các cháu. Để mệ một mình niệm Phật mà yên thân mẹ hơn. Thôi, đi đi. Đừng có ở đó mà mệ lo mệ chết bây chừ.” Thế đành là phải gạt lệ bỏ mẹ ở lại với không một ai giữa xóm làng hoe vắng. Rồi chiến tranh đến. Rồi chiến tranh đi. Hơn một ngày sau, con cháu cùng với dân làng lục tục trở về. Chạy vội đến ngôi nhà của mẹ, con cháu thảng thốt chỉ thấy một nền nhà trống không, không cột, không kèo, không một vết tích gì của ngôi nhà còn lại bên cạnh một hố sâu dưới gốc cây ổi chỉ còn tan tác những cành và lá. Mẹ làm sao mà sống sót được nữa với cảnh hoang tàn này! Con cháu vừa khóc lóc vật vã vừa lo đi tìm xác mẹ về chôn cất.


 Bỗng đâu, một đứa cháu kêu lên: "Mệ đây. Mệ đây. Mệ còn sống." Mọi người vội chạy lại. Nơi đó là cái ao bao quanh vườn nhà đã khô nước. Mẹ ngồi dưới đó, miệng mấp máy như đang niệm Phật với xâu chuỗi cầm ở trên tay. Vực mẹ đứng dậy rồi bồng mẹ lên. không một vết thương nào trên thân thể mẹ. Mẹ chỉ mệt mà nói không ra lời. Để mẹ nghỉ ngơi, uống nước, ăn cháo. Rồi con cháu bao quanh nghe mẹ kể: "Mấy đứa bây đi hết rồi, mệ mặc áo dài, ngồi trước bàn thờ niệm Phật cả ngày. Mệ chẳng biết họ bắn nhau ở đâu. Chỉ nghe một tiếng nổ kinh hoàng rồi mệ ngất đi. Đến khi tỉnh dậy thì thấy nằm ở đó mới hay là mệ còn sống. Phật cứu mệ. Mệ chỉ biết vậy chứ chẳng còn biết gì khác." Chị tôi nói, trong khi ai cũng sợ đến hãi hùng thì mẹ tỉnh táo chi lạ.


 Nghe mẹ kể và thấy cảnh trước mắt, ai cũng cho là Phép Lạ Phật Cứu. Tôi, tôi cũng cho là phép lạ. Đã nghe quý Thầy kể, đã đọc trong kinh sách nhiều những phép lạ; nhưng thú thật, con người lý trí và chỉ biết sống theo những suy nghĩ và hiểu biết của một Tu sĩ nơi tôi có biết thì chỉ biết vậy, không bài bác bao giờ mà cũng chẳng có gì gọi là tin tưởng sâu xa để phải xem là quan trọng mà bận tâm tìm hiểu. Nhưng khi trở về nhà, mấy tuần sau trận chiến, ngồi trên nền nhà trơ trọi, với mẹ, với mấy chị và em, nghe chị tôi kể, lần đầu tiên tôi mới cảm nghiệm được thế nào là Phép Lạ thực sự có mặt trong đời sống này. Phép Lạ là sống an vui với những gì bất tồn hữu hạn của thế gian này. Là đi trên mặt đất, là từng bước nở hoa sen như sau này, một vị Thầy từng dạy.


 Và điều đó chỉ thành tựu khi con người có Niệm Lực, Định Lực chân chánh và vững chãi, có Trí Tuệ thuần khiết và chân thực để sống an nhiên với mọi cảnh. Nhưng ở một bình diện khác - và chỉ lúc này mới là lần đầu tiên tôi cảm nghiệm - Phép Lạ còn là một cái gì đó nằm ngồi mọi ngôn từ lý giải, mọi đầu óc nghĩ suy tinh tế nhất - những thứ luôn luôn đòi hỏi tính cách xác thực cho mọi chân lý được phô diễn - để có thể gọi đó như một năng lực nhiệm mầu. Bởi làm sao ta có thể đòi hỏi một lý giải mang tính xác thực về nó khi cái gọi là xác thực với ta đang sống đây rút cùng cũng chỉ là hư ảnh? Trong biển nghiệp trùng trùng với cái chết vây bủa bốn bề như trường hợp của mẹ đây, mẹ chỉ ngồi đó niệm Phật với duy một niềm xác tín ở Phật không thôi mà sự sống đuợc bảo tồn nguyên vẹn.


 Có một kẻ hở mong manh hiếm hoi nào giữa vòng vây của cái chết và một năng lực nhiệm mầu nào đẩy mẹ vào ngay đó cho Phép Lạ có thể xuất hiện? Trong cảm nghiệm sâu xa ở mẹ, tôi nhận ra một điều: Trong biển nghiệp mênh mang này, ở đâu mà không có nguyện lực của chư Phật, Bồ Tát, của những trái tim thuần khiết nguyện sống vì đời! Và, một niềm xác tín mạnh mẽ có thể xô dạt lớp lớp sóng nghiệp để ta đi vào ngay trong biển nguyện lực đó - điều mà những đầu óc say mê lý giải với những gì gọi là xác thực của đời sống hư ảo này không thể làm được. Chiến tranh triền miên. không ai sống chỉ để đợi chờ Phép Lạ. Tôi tìm cách đưa mẹ vào Sài Gòn. Phải nói là tìm cách, bởi vì với mẹ lúc đó, hình như không thể tưởng ra được có một đời sống nào của mẹ ngoài mảnh đất quê nhà mà những nấm mộ của tổ tiên bao đời còn đó và họ hàng ngày nay còn đó.


 Dù đói lạnh đến mấy. Dù chết chóc rình rập đêm ngày. Và dù cho những đứa con trai của mẹ có sống ở phương nào. Cuối cùng thì mẹ cũng vào Sài Gòn. Nhưng chỉ được vài hôm. không ai cầm lòng nổi khi thấy mẹ ngồi ăn mà chén cơm chỉ chan toàn nước mắt. Mẹ đòi về mặc cho bom đạn có gieo rắc chết chóc đêm ngày ở đó. Mẹ đã chẳng màng chi đến sự an toàn của bản thân thì sá gì những tiện nghi cho một đời sống ở Sài Gòn mà có thể cầm chân mẹ được. Thế rồi, mẹ về. Mẹ về để sống với mảnh đất quê cha đất tổ, với cháu con họ hàng còn sống sót ở đó. Mẹ về để trọn nghĩa thuỷ chung với ông bà, và với cha đã nằm xuống trước. Chỉ đến sau 1975, họ hàng con cháu bỏ làng ra đi tìm sự sống cho lớp trẻ mai sau, mẹ mới đành theo con cháu mà đi vào Nam. Cũng một nỗi buồn trĩu đầy trong mắt mẹ. Cũng những ngày ăn cơm với nước mắt chan hòa. Xa làng, xa xóm, xa nấm mộ tổ tiên ông bà, mẹ héo hắt với những giọt lệ của tuổi già. Nhưng rồi, với con với cháu, mẹ dần nguôi ngoai. Mẹ không đòi về nữa. Mẹ dấu kín nỗi buồn tận đáy lòng cho cháu con còn có chút niềm vui.


 Mẹ tìm nguồn an ủi cho riêng mẹ trong câu niệm Phật đêm ngày. Mẹ thâm tín Tam Bảo đâu như từ thuở nào còn nhỏ chưa lấy chồng. tôi chỉ biết, niềm tin của mẹ sâu đến không gì lay chuyển mà lại cực kỳ đơn thuần. Tin Phật thì mẹ niệm Phật, thì đừng sát sanh hại vật, đừng làm điều bậy bạ cho Phật quở. Tin Phật thì thấy ai mặc chiếc áo tu của Phật - không kể lớn nhỏ, già trẻ hay tu kiểu gì - mẹ cũng chỉ một lòng hết mực cung kính. Thấy ai đó nói gì về một người tu thì mẹ gọi con cháu rầy ngay "đừng nghe theo người ta nói bậy mà tội chết." Cực kỳ đơn thuần như vậy. Có lần, thấy mẹ cung kính với một chú mới tu, có người bảo "mệ đừng làm vậy vì chú còn nhỏ" thì mẹ bảo "Dạ ... thì bây chừ chú còn nhỏ nhưng mai sau chú tu chú cũng thành thầy, thành Phật vậy." Mẹ vốn không biết đọc kinh, không học hỏi đạo lý.


 Nhưng mẹ sống với Phật và với chỉ một câu niệm Phật cho cả một đời thôi mà nhìn ai tu, mẹ cũng thấy ở người đó, một vị Phật đang thành, sẽ thành. Có lẽ, cái tâm cực thuần của mẹ cho mẹ thấy ra như vậy chứ mẹ nào có biết, đó chính là cái thấy của Bồ Tát; và người tu đạo, học đạo trọn đời cũng chỉ để làm sao có được cái thấy như vậy mà thôi. Cái tâm đơn thuần. Cái sống của mẹ cũng đơn thuần rất mực. Cả đời, mẹ chẳng biết xa hoa là gì. có thể, đó là do cái nghèo đã đeo đẳng mẹ suốt đời. Nhưng không hẳn vậy. Không biết thuở nhỏ và sau này, từ khi tôi bỏ xứ ra đi, mẹ ra sao. Chứ trong những tháng ngày ít ỏi sống với mẹ - hoặc tôi không nhớ - nhưng chưa bao giờ tôi thấy mẹ mặc một chiếc áo dài nào khác ngoài chiếc áo dài màu xanh lam. Chiếc áo đó, mẹ mặc để ngồi niệm Phật, để đi lễ chùa. Cũng chiếc áo đó, mẹ mặc mỗi khi kỵ giỗ, hội họp bà con hoặc phải đi đâu. Trong khi, đâu phải là mẹ không có những chiếc áo dài khác.


 Phấn son thì chắc là chuyện không bao giờ có với mẹ. còn cái ăn cái uống của mẹ, không kể những năm tháng đói lạnh, thì chẳng khác gì của một ông thầy tu ở núi ngày xưa. không cao lương mỹ vị đã đành, mà thảng hoặc, bữa nào có miếng cá miếng thịt, mẹ cũng chỉ chan một chút nước cho những người chung quanh khỏi buồn mà thôi. Một dĩa rau với chén nước chấm là như đã quá đủ cho mẹ, ngay cả sau này khi có điều kiện để ăn ngon hơn. Từ bao giờ, mẹ chẳng có của cải riêng - hay có mà mẹ đã cho hết các chị em tôi khi đi lấy chồng rồi, tôi không biết. còn bây giờ, kể từ khi đi vào sống ở Nam, thì mẹ thực sự chẳng có gì gọi là của mẹ. Chẳng nhà cửa. Chẳng ruộng nương vườn tược. có chăng, là những nấm mộ của ông bà nội ngoại và của ba tôi ở tận quê nhà Quảng Trị mà mỗi năm, dù già yếu (năm nay đã 90 tuổi) mẹ vẫn về để thăm viếng và tự tay chăm sóc. Trước đây thì thỉnh thoảng, sau này đều đặn hơn, mỗi năm hai lần, tôi gởi quà và ít tiền về dâng mẹ. Nhiều người quen qua đây nói, quà thì mẹ chỉ giữ lại chai dầu xanh và ít thứ thuốc cần dùng những khi trái gió trở trời; còn thì đem cho hết các con, các cháu.


 Tiền thì mẹ để một phần đem cúng dường các chùa, một phần thì san sẻ cho "đứa nào" trong các con, cháu bị sa cơ túng thiếu, và một phần khác nữa thì để bố thí cho những kẻ nghèo khó quanh mình và đóng góp việc làng, việc họ. còn riêng mẹ, mẹ nào có biết tiêu gì cho mẹ đâu. Mấy năm trước, tôi muốn mẹ về ở một ngôi chùa nào đó để "gần" với cảnh Phật hơn. Sư cụ Tuệ Đăng, quý Thầy Huệ Minh, Phước Trí, Đạt Đức ... đều sẵn lòng mong và dành chỗ cho mẹ về ở. Nhưng mẹ không chịu, ngại làm phiền quý thầy, quý chú mà tội; lại vì không nỡ xa con cháu. Thôi thì, tôi nghĩ, mẹ đã ở với Phật ngày đêm; chỉ còn chút "nợ" với con cháu để an ủi tuổi già nên thôi, không tính chuyện để mẹ lên chùa ở nữa. Mẹ vốn không học. Chữ nghĩa Thánh Hiền với mẹ là một cái gì cao xa vời vợi. Suốt đời, mẹ lặng lẽ sống, không bao giờ bàn chuyện thế sự, thị phi của ai đến độ tôi tưởng như mẹ không biết chuyện gì trên đời này cả. Ngay với tôi, trong những lúc dầu sôi lửa bỏng của cái thời "Phật Giáo đấu tranh", mẹ có nghe người ta nói tới đấy.


 Nhưng khi gặp, mẹ cũng chẳng bao giờ hỏi han để coi sự thế đi về đâu, trong đó có con của mẹ. Mẹ chỉ thắp nhang mỗi sớm tối để cầu nguyện mà thôi. Thảng hoặc, có la rầy con cháu thì cũng chỉ một lời. Và cái lời gần như duy nhất mà tôi nghe được nhiều lần là "làm người thì lo tu thân vi bổn, nghe con!" Bốn chữ "tu thân vi bổn" ở ai thì nghe sách vở văn hoa nhưng ở mẹ sao tự nhiên như hơi thở, như cái ăn phải có để sống, nhẹ nhàng mà trầm thống chi lạ. có lẽ, đó là chữ nghĩa Thánh Hiền duy nhất trong đầu mẹ mà tôi được biết. Còn chuyện dựng vợ gả chồng cho các anh chị em của tôi, tôi không biết trong âm thầm mẹ lo như thế nào. Chỉ biết có một lần, tôi nghe mẹ dặn dò với một ai trong số mà tôi không còn nhớ "Này con, con mà thương ai thì đừng bỏ người ta mà tội chết nghe con!" Hỡi ơi! Cái tâm cực thuần cho mẹ nhìn ai cũng thấy Phật, cũng thấy là quý để chẳng nghĩ đến "người ta" là xấu hay tốt mà chỉ sợ "người ta" khổ mà con mình nên tội. Những quan niệm, lề thói suy nghĩ, toan tính của thế hệ những người như mẹ như để dành cho ai khác. còn mẹ thì như chỉ nghĩ đến cái tội, cái phước để mong con mình sống làm sao cho Phật Trời đừng bắt tội là đủ. Đã 18 năm rồi tôi bỏ xứ ra đi, xa mẹ. Mười tám năm.


 Thời gian như cơn gió chiều hun hút, nào biết thổi về đâu! Mười tám năm. Gần một phần tư của đời người. tôi biết, mười tám năm mẹ trông ngóng từng giờ, tôi về. Những lúc sau này, hẹn trước, tôi gọi điện thoại để mẹ con nghe được tiếng nói của nhau. Và lần nào cũng như lần nào, mẹ chỉ hỏi một câu: "Chừng nào thầy về cho mẹ chộ một chút." Tôi điếng người mà nói với mẹ: "Dạ ... sớm muộn gì rồi con cũng về. Mệ niệm Phật nghe." Rồi thôi. Mẹ không nói gì thêm nữa. Tôi cũng chẳng còn biết nói gì thêm nữa cho mẹ an tâm. Lại cũng khi nào, có người về thăm, gặp mẹ sang đây cũng chỉ một lời nhắn nhủ đó của mẹ cho tôi. Chừng nào thì thầy về cho mệ chộ một chút! Chừng nào! Đã rất nhiều khi, tôi muốn bỏ hết tất cả nơi đây để trở về với mẹ - không phải chỉ để mẹ "chộ một chút" mà là để sống với mẹ những ngày cuối cùng của đời mẹ. Tôi chỉ muốn được làm một người con chăm sóc mẹ mình như bất cứ một người con nào khác trên đời. Mấy năm trước, có Phật sự ở Thái Lan, nghĩ đến khoảng cách chưa đầy một giờ máy bay, tôi đã muốn về thăm mẹ.


 Nhưng rồi, chẳng phải vì lý do bên ngoài nào mà chỉ vì, nghĩ đến mẹ, nghĩ đến mình phải sống làm người chân thật, ngay thẳng không được quanh co dối trá với ai chuyện gì như lòng mẹ mong muốn mà tôi đã ngậm lòng không về. Mười tám năm. tôi từng ôm mộng đi giữa đời, sống cho một chút hồi vọng nào đó với cả tấm lòng mà nhìn lại, lại chỉ thấy một cõi mù bay. Tôi đã ở bên lề những trò chơi của triết lý, văn chương, của những nỗi khổ siêu hình nào mà một thời tâm thức tôi thường vẽ ra; ở bên lề cả những trò chơi với đủ thứ pháp tướng ít nhiều dính dáng tới Phật Giáo trong cơn hỗn mang của thế sự như phù vân lai khứ này. Nhưng trong "nỗi riêng, riêng cả đến tình chung" đó, tôi đã luôn có mẹ trong tôi như có Phật trong tôi. Để cho tôi lớn lên được giữa thời ngửa nghiêng này của thế đạo nhân tâm trong từng bước đi quyết định của đời mình, để nuôi dưỡng tấm lòng tôi với Đạo, với quê nghèo và với những kẻ bất hạnh trên đời. Tôi mà có làm được chút gì cho ai bớt khổ thêm vui trong suốt cuộc đời này, dù nhỏ như cây kim, cọng cỏ thì đó cũng là vì có mẹ trong tôi như có Phật trong tôi mà thôi. Và vì vậy mà tôi biết, sẽ có một ngày, tôi bỏ lại tất cả nơi đây để về với mẹ. tôi chỉ xin lạy Phật ngàn lạy, vạn lạy mà cầu cho ngày đó đến trước khi quá muộn./.


Thích Nguyên Hạnh
Ý kiến bạn đọc
27 Tháng Giêng 20148:00 SA
Khách
bài của thầy rất hay và cảm động
27 Tháng Giêng 20148:00 SA
Khách
bài của thầy rất hay
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Năm 2011(Xem: 18541)
Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
27 Tháng Tư 2011(Xem: 19678)
Tôi không nói được gì hết, chỉ gục đầu vào vai vợ tôi rồi bật khóc . Vợ tôi chưa biết những gì đã xãy ra nhưng chắc nàng đoán được rằng tôi phải đau khổ lắm mới phát khóc như vậy. Cho nên nàng vừa đưa tay vuốt vuốt lưng tôi vừa nói, giọng đầy cảm xúc :« Ờ…Khóc đi anh ! Khóc đi ! »
23 Tháng Tư 2011(Xem: 18153)
Tôi ngồi đó để tưởng nhớ nước Việt Nam Cộng Hòa thân yêu của tôi. Tôi để hình tôi trên bàn thờ là coi như mình đã chết theo với nước Việt Nam Cộng Hòa của tôi. Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹ, vợ con
03 Tháng Tư 2011(Xem: 19804)
Trong niềm bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc... đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.... *
23 Tháng Ba 2011(Xem: 20256)
tưởng đã được giải quyết, phân tán người Việt Nam tỵ nạn trên nước Mỹ, nhưng không ngờ Xe đò Hoàng đơn thân độc mã mỗi ngày một chuyến kéo hai thành phố đông dân cư Việt Nam lại càng gần với nhau hơn nữa.
21 Tháng Hai 2011(Xem: 19945)
Già thì già, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc – hạnh phúc hơn một tỷ người khác – cho dù hạnh phúc đó vẫn được họ đếm từng ngày sau mỗi buổi sớm mai thức dậy…
10 Tháng Hai 2011(Xem: 18610)
Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ' Bầu bí một giàn'
04 Tháng Hai 2011(Xem: 19549)
Thế đó, họ bán, họ mua vừa như thật, vừa như “chơi” nhưng ai cũng hăm hở, náo nức. Dường như mỗi người đi chợ đang “bán”, đang “mua” cho mình một nỗi nhớ quê nhà vời vợi.
02 Tháng Hai 2011(Xem: 21480)
Hương thơm của gạo, vị ngọt của cơm lẩn với cát sạn tựa như cuộc đời của những quân nhân QLVNCH nói chung, SVSQTĐ nói riêng đã tự hào vào ngày mãn khóa sau mấy tháng quân trường mồ hôi thử thách đó là hương thơm của gạo. Để rồi chuẩn bị dấn thân vào cuộc đời đầy gian khổ hiểm nguy sống chết khó lường
28 Tháng Giêng 2011(Xem: 21100)
Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt.
21 Tháng Giêng 2011(Xem: 19870)
Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng lòng lắm với những gì mình đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.
16 Tháng Giêng 2011(Xem: 20296)
Thành phố lên đèn, tôi vật vờ vô định thoáng nghe bên tai tiếng dương cầm giai điệu bản "Giao hưởng số chin, cung rê thứ" của L.V. Beethoven mà tôi học ngày nào. Hiện tại, tôi chơi nhạc đám ma. Cái chết - quy luật tất yếu giúp tôi sinh tồn, các giá trị nghệ thuật cao quý chỉ còn là hoài niệm!
02 Tháng Giêng 2011(Xem: 22001)
Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du ...
07 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20792)
Trong cuộc chiến Việt Nam, những chàng pilot nổi tiếng hào hoa ở thành phố. Là thần tượng của các cô con gái đẹp. Nhưng có lẽ ít ai biết rằng, những chàng trai trẻ ấy lại là những chiến sĩ rất hào hùng trên khắp các chiến trường. Bao phen xem cái chết tựa lông hồng.
05 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 21812)
Lâu nay, khá đông người cho rằng thi sĩ Hàn Mạc Tử và nhà giáo kiêm cư sĩ Hoàng Thị Kim Cúc từng có một tình yêu đôi lứa. Lắm sách báo ghi nhận như vậy. Ngay cả lối sống khá đặc biệt của Kim Cúc – suốt đời độc thân, làm thơ tặng Hàn, chẳng chuyện trò điều này với người trong nhà… – càng khiến dư luận nghĩ vậy.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 20259)
Hầu hết bạn bè tôi, nếu còn sống sót sau cuộc chiến tang thương đó, kẻ đã phải ra đi trong loạn lạc, ly tan, người thì được ông bạn đồng minh phản bội năm xưa, can thiệp với kẻ cựu thù cho "ra đi trong vòng trật tự" sau nhiều năm bị đày đọa ngục tù, vợ con nheo nhóc, để giờ này mỗi người trôi dạt một phương, mang theo những vết thương không lành được ở trong lòng. Biết đến khi nào chúng tôi mới đuợc như những con chim trane đang tụ tập ca hót líu lo ngoài kia, trươc giờ bay xuống phương nam?
17 Tháng Mười Một 2010(Xem: 21056)
Một câu chuyện thật dí dỏm. Câu chuyện phần nào đã gợi nhớ đến một quảng đời thơ ấu thật êm đềm, hoa bướm ở vùng quê . Phải chi không có biến cố tháng tư 75, cuộc sống của những người dân miền nam hiền hòa chắc chắn là mãi mãi thanh bình, thịnh vượng, và an lành như tác giả "Lấy vợ miền quê" đã mô tả rất chân thật trong câu chuyện
11 Tháng Mười 2010(Xem: 19398)
Bây giờ, nhìn chú Ba nằm đó, tôi lại nhớ câu nói cuối cùng của chú: “Cứ để lá cờ ở đó, trong đầu óc của chú sẽ nhớ mãi hình ảnh lá cờ VNCH tung bay trong gió. Sau này, lá cờ sẽ ra sao? Để tương lai trả lời.”
08 Tháng Mười 2010(Xem: 20250)
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa...
08 Tháng Mười 2010(Xem: 21999)
Mọi người đều đến cõi đời nầy với hai bàn tay trắng, thì lúc ra đi cũng chỉ với hai bàn tay trắng mà thôi. Ai ai cũng đều biết như vậy, nhưng hễ sao mỗi khi nghĩ đến chết thì thấy rờn rợn và hơi lo một chút... Sống sao cho đáng sống mới là việc khó. Đời là vô thường!
07 Tháng Mười 2010(Xem: 27971)
Kính nguyện cầu Đấng Thiên Thựợng Đế tối cao và Hồn thiêng sông núi phù hộ cho toàn dân Việt sớm có ngày "đắc lộ thanh vân", đưa nước Việt lên đỉnh đài vinh quang thịnh trị ngàn đời.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 22684)
Chúng ta thường đi tìm một cái gì bên ngoài để mang lại cho mình hạnh phúc như vật chất, nhà cửa, xe hơi, máy móc, tiện nghi, … hoặc tình cảm gia đình, thân quyến, bạn bè, người yêu, … hoặc danh vọng, địa vị, lý tưởng. Ta khát khao tìm kiếm vì tưởng mình nghèo nàn, thiếu thốn, tâm luôn phóng ra ngoài chạy theo trần cảnh. Trong kinh Pháp Hoa kể thí dụ đứa cùng tử suốt đời đi ăn xin vì không biết trong túi mình có viên ngọc quý, đến khi được người bạn nhắc tỉnh ngộ lấy ngọc ra xài liền hết đói khổ.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 18879)
Tháng 8-1999, tôi dọn nhà đến một căn phòng mới mướn. Trên ngăn kệ cao của closet, người mướn trước để sót lại một xấp “hồi ký” dầy 27 trang viết tay. Đêm đầu tiên ở phòng trọ mới, tôi đọc đoạn “hồi ký” bi hùng đó với nỗi niềm thương cảm không tả xiết: Thương cảm cho một danh tướng trong bước đường cùng của vận nước đen tối; thương cảm cho phu nhân và 2 người con của Tướng tuẫn tiết và thương cảm vị sĩ quan trẻ, có lẽ là Chánh Văn Phòng của vị tướng anh hùng, tức tác giả của đoạn “hồi ký” nầy.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19714)
Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận Việt Nam. Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, thì tấm lòng hoài.
06 Tháng Mười 2010(Xem: 23263)
Người chết lâu rồi , người còn ở lại Từ cuối chân mây đêm bấc lạnh lùng Ngày hiển thánh cả giống nòi mong mỏi Của những linh hồn hữu thủy hữu chung
06 Tháng Mười 2010(Xem: 19794)
Tôi chắc chồng tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa. Tôi không thể sống mãi trong cô đơn để run sợ trước những ám ảnh của dĩ vãng và những nhung nhớ khôn nguôi người chồng mà tôi mãi mãi yêu thương như buổi đầu gặp gỡ!!
06 Tháng Mười 2010(Xem: 21675)
Cổ nhân cũng đã có câu “ngu si hưởng thái bình”, hay là ta cứ an phận thủ thường, con gái thì mong trời sinh ra đừng quá đẹp, con trai thì đừng có quá tài ba. Còn giàu có bạc muôn không ham, chỉ mong đừng chạy gạo từng ngày. Cứ làng nhàng là xong, không ai thèm muốn, đố kỵ, ganh ghét, nghĩ chuyện đời: “Giàu như người ta cơm ngày ba bữa, đói như mình đây cũng đỏ lửa ba lần.”
05 Tháng Mười 2010(Xem: 19573)
hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được thắp nén hương trang trọng cho chị, thưa chị Nở.