5:54 CH
Thứ Bảy
27
Tháng Tư
2024

THÔNG DỊCH PHIÊN DỊCH - THUẦN NGỌC

06 Tháng Năm 201412:00 SA(Xem: 9680)
blank

Trong Nam, to interpret là thông dịch. còn ngoài Bắc là phản dịch 1 . Chữ phản ở đây giống như chữ phản trong phản ảnh, tiếng Nam, hay phản ánh, tiếng Bắc. Phản dịch không hề hàm ý như trong câu tiếng Pháp Traduire, c'est trahir -- dịch tức là phản, vì chữ phản trong sau này có cùng nghĩa với chữ phản trong phản bội hay phản trắc. Phải dài dòng như thế vì thông dịch hay phản dịch rất phức tạp, khó khăn và rắc rối. Thông dịch hay phản dịch, nghĩa là dịch miệng, nói ra bằng lời ngay, tuy tiếng Anh không mấy phân biệt giữa interpretation và translation 2. Tiếng Việt dùng chữ phiên dịch để chỉ các bài dịch được viết ra hay in ra. 

Trong văn chương Việt Nam, phiên dịch đã có từ lâu lắm 3. Suốt một ngàn năm bị Tàu đô hộ, người Việt Nam học chữ Nho, tức là chữ viết của Tàu từ thời Khổng Tử và các môn đệ của Ngài. Nhưng dần dần người Việt đọc chữ Nho theo âm Việt, thành ra khi Việt Nam đạt đến thời kỳ tự chủ, sứ giả Việt Nam chỉ có thể bút đàm với quan lại người Tàu, nghĩa là viết ra giấy thì hiểu nhau được, còn nói thì khác hẳn âm với nhau. Dần dần người Việt kiện toàn chữ Nôm, là thứ chữ dựa trên chữ Nho, nhưng được đơn giản hóa phần nào để dùng chỉ các âm tiếng Việt, từ đó có sự phiên dịch từ chữ Nho ra chữ Nôm, mà trong văn chương gọi là diễn Nôm. Như Chinh phụ ngâm khúc do ông Đặng Trần Côn viết bằng chữ Nho, bà Đoàn Thị Điểm dịch ra chữ Nôm thành Chinh phụ ngâm khúc diễn Nôm

Bà Đoàn Thị Điểm có thể được xem như tổ ngành phiên dịch vì bản dịch của bà rất sát với bản chính, lột hết ý nghĩa, tình tiết, mà văn rất trôi chảy, khi đọc không hề biết là văn dịch. Bà lại không nệ theo đúng mẫu bản chính, mà vẫn lột được tinh thần cũng như tư tưởng của tác giả. Tám câu đầu bản chính và hai khổ song thất lục bát do bà Đoàn Thị Điểm diễn Nôm (dịch ra) vừa sát nghĩa, vừa tràn đầy thi vị: 

Thiên địa phong trần 
Hồng nhan đa truân 
Du du bỉ thương hề 
Thùy tạo nhân. 

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi 
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên 
Xanh kia thăm thẵm từng trên 
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Cổ bề thanh động Trường thành nguyệt 
Phong vũ ảnh ám Cam Toàn vân 
Cửu trùng án kiếm khử dương tịch 
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân 
Trống Trường thành lung lay bóng nguyệt 
Khói Cam Toàn mờ mịt thức mây, 
Chín tầng, gươm báu trao tay 
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh. 

. Một người có tài phiên dịch nữa là Nguyễn Du. Trong truyện Kiều, đoạn Thúy Kiều khảy đàn cho Kim Trọng nghe khi tái hợp sau mười lăm năm lưu lạc, tác giả đã dịch bốn câu trong bài thơ Cẩm Sắt của Lý Thương Ẩn: 


Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp, 
Thục đế đan tâm thác đỗ quyên, 
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ, 
Lam điền khí noãn ngọc sinh yên. 

Khúc đâu đầm ấm dương hòa, 
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh ? 
Khúc đâu êm ái xuân tình, 
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên ? 
Trong như châu nhỏ duềnh quyên, 
Ấm như hạt ngọc Lam điền mới đông. 

Một áng văn dịch tuyệt vời nữa là bản dịch bài thất ngôn trường thiên Tỳ Bà Hành từ nguyên tác chữ Nho của Bạch Cư Dị ra chữ Nôm. Ông Phan Huy Vịnh đã khéo léo dùng 22 khổ song thất lục bát để dịch đúng 88 câu của nguyên tác, vừa sát nghĩa, vừa đầy thi vị, lại giữ đúng y nguyên số câu và số chữ. Khổ thứ hai dịch câu năm đến câu tám trong nguyên tác: 

Túy bất thành hoan, thm tương biệt 
Biệt thời mang mang giang tm nguyệt 
Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh 
Chủ nhân vong qui, khách bất phát. 
Say những luống ngại khi chia rẽ, 
Nước mênh mông dằm vẻ gương trong. 
Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông, 
Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi.

không gò ép, không dư, cũng không thiếu. Nhất là câu thứ bảy, giữa khoảng trời nước mênh mông, mà biến 
Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh ! 
thành một câu diễn được cái đột ngột, bất chợt, nhưng không có chút nào ngập ngừng, lạc lõng : 
Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông, 
Dịch giả lại chuyển thành thái độ, lời kể trong nguyên tác mà không làm lạc ý : 
Chủ nhân vong qui, khách bất phát 
nghĩa đen là "Chủ nhân quên về, khách không đi," bằng câu 
Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi. 
để cho ta thấy rõ hơn thái độ và tư thế sống động của chủ và khách, chuyển dịch rất êm và không đi ngược lại, hay xa rời nguyên tác. 
Trọn bài dịch đáng khen nhất là câu 
Cùng một lứa bên trời lận đận 
đã vượt hẳn nguyên tác 
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân 
và do đó rất được nhiều người biết đến và khen thưởng. (Nếu có dịp xin đọc nguyên tác và bản dịch trong Việt Nam Văn Học Sử -- Giản ước Tân biên, của ông Phạm Thế Ngũ, quyển hai, trang 331 đến 335.) 

blank

Việc phiên dịch ở Việt Nam sau đó, nghĩa là từ cuối thế kỷ thứ 19 đến giờ đã chia ra hai ngành chánh: một là phiên dịch sách Tàu, hai là phiên dịch sách Pháp. Sau này mới có phiên dịch sách viết bằng các thứ tiếng khác . 
Phiên dịch sách Tàu có hai khuynh hướng. Một là đem các điều mới mẻ, tiến bộ, có tính cách thức tỉnh quốc hồn, có ý duy tân và khuyến khích quốc dân đứng lên đòi độc lập, tự do, theo gương Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu vào cuối nhà Thanh bên Tàu, như Nguyễn Hữu Tiến đã dịch Gương đức dục (1930) và Học thuyết tư tưởng nước Tàu (1931), hai nguyên tác của Lương Khải Siêu 4. Khuynh hướng thứ hai là dịch truyện Tàu ra chữ quốc ngữ để làm giàu thêm cho ngữ vựng Việt ngữ, vì chữ quốc ngữ lúc đó còn phôi thai, cần được phát triển và phổ thông hóa trong nhân dân. 

Trong những người phiên dịch truyện Tàu lúc đầu có Phan Kế Bính dịch Tam quốc chí, Trần Tuấn Khải dịch Thủy Hử, sau đến Trần Phong Sắc, Nguyễn An Cư, Tô Chẩn, Nguyễn Chánh Sắt 5, Trương Minh Chánh dịchPhong Thần, Đông Châu Liệt Quốc (dịch chung), Thất Quốc Chí, Xuân Thu Oanh Liệt, Tây Hán Chí hay Hán Sở tranh hùng, Đông Hán diễn nghĩa, Tam Quốc Chí, Thuyết Đường, Tây Du, Chinh Đông, Chinh Tây, Phản Đường, Tàn Đường, cho đến các bộ Bắc Tống diễn nghĩa, Ngũ Hổ bình Liêu, Ngũ Hổ bình Tây và Ngũ Hổ bình Nam, Bao Công kỳ án, Thủy Hử, Tống Nhạc Phi, Tái sinh duyên, Đại Minh Hồng Võ ... và Càn Long du Giang Nam. Sau này Mộng Bình Sơn và vài người khác cũng dịch lại các truyện trên. 
Về văn học, trong thời kỳ này, Tản Đà và Ngô Tất Tố dịch nhiều bài thơ Đường đăng báo. Trần Trọng Kim gom vào tập Đường Thi, nhiều bài thơ dịch rất hay 6. Nhượng Tống dịch Tây Sương Ký ra kịch bản Mái Tây, vừa thi vị, vừa đậm đà. Nhiều người tiếp nhau dịch truyện Liêu Trai của Bồ Tùng Linh, trong đó có Tản Đà, Đào Trinh Nhất, Hiếu Chân ... Tiếp đó nhiều người khác đã dịch và giải nghĩa Tứ Thư , Ngũ Kinh sang tiếng Việt, tiếp nối công trình dịch thuật mà Trương Vĩnh Ký đã đề xuất khi dịch Trung dung (1875), Đại học(1877), và Minh tâm bửu giám (1893) khi trước 7

Ngoài những người phiên dịch sách, thơ và truyện Tàu, còn có nhóm thứ hai chuyên phiên dịch sách, thơ và truyện tiếng Pháp 8. Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của là những người đi trước, khai phá nền văn chương quốc ngữ, dùng chữ Pháp, tra cứu chữ La tinh, cùng Hán tự để vun bồi chữ quốc ngữ. Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh ngay sau đó, đã dịch truyện, kịch và thơ Pháp ra tiếng Việt. Lúc đầu, việc dịch thuật còn mới, cách dùng chữ quốc ngữ vẫn có cái gượng ép và theo sát cách dùng chữ của nguyên tác. Ta thử đọc vài câu thơ Nguyễn Văn Vĩnh dịch một chuyện ngụ ngôn của La Fontaine: 

Ve sầu kêu ve ve. 
Suốt mùa hè, 
Đến kỳ gió bấc thổi; 
Nguồn cơn thật bối rối. 
Một miếng cũng chẳng còn, 
Ruồi bọ không một con, 
Vác miệng chịu khúm núm, 
Sang chị kiến hàng xóm ... 

và so với mấy câu dịch về sau (không nhớ tên tác giả) 

Con ve mùa hạ kêu ran 
Qua dông lạnh lẽo tấm thân cơ hàn 
Đến cùng chị kiến thở than ...

Lúc ban đầu, người dịch có khuynh hướng chuyển âm tên trong tựa sách hoặc dịch thật sát tựa nhưManon Lescault dịch là Mai Nương Lệ Cốt, (1918); Le malade imaginaire (1915) do Nguyễn Văn Vĩnh dịch là Bệnh tưởng, tuồng Lôi Xích, tức Le Cid, năm 1920, và tuồng Hòa Lạc, tức Horace, năm 1923, (đều do Phạm Quỳnh dịch). Nhưng cũng có những bản dịch thoát ra ngoài khuôn đó, như Tartuffe, (1915) mà Nguyễn văn Vĩnh dịch là Giả đạo đức; La porte étroite, Đỗ Đình Thạch dịch ra là Tiếng đoạn trường (1937), thay vì Khung cửa hẹp như sau này một người khác đã dịch. Trong thời gian từ 1948 đến 1954, cũng có nhiều người tiếp tục dịch hay phóng tác các tác phẩm Anh, Pháp 9. Tiếc là đôi khi người dịch, hoặc chuyển tên nhân vật và địa danh sang Việt Nam như truyện Tượng vua Lê (bên Hồ Hoàn Kiếm, Hà nội) dịch The Happy Prince của Oscar Wilde, hoặc vẫn dùng tên nhân vật và địa danh trong nguyên tác như truyện Con cánh cam vàng dịch truyện The Gold Bug của Edgar A. Poe, hay là truyện Người có bộ óc vàng dịch từL'homme à la cervelle d'or của Alphonse Daudet, đều không hề ghi là truyện dịch, không đề tên nguyên tác và tác giả 10. Âu cũng là một thiếu sót trong thời ấy. 
Từ 1950 đến 1975, việc dịch thuật phát triển nhiều hơn, nhưng vẫn theo hai ngành, một là dịch sách, truyện và thơ Tàu, hai là dịch sách, truyện Âu châu và Hoa kỳ. Sở dĩ phân như thế vì dịch sách hay truyện Tàu thường chỉ chuyên chú về vài tác giả mà thôi, như trong các năm 1958, 1959 đến suốt thập niên 1960, Quỳnh Dao và Kim Dung là hai tác giả Tàu được dịch nhiều nhất, sau này mới có thêm La Lan. Dịch sách truyện Âu và Mỹ châu tương đối rộng hơn, bao gồm nhiều tác giả quốc tế. Rất hiếm người dịch ra Việt văn thơ Anh hay Pháp. 
Việc dịch truyện kiếm hiệp đã mang nhiều chữ mới cho ngữ vựng Việt ngữ. Đành rằng có những chữ như hảo chiêu, nữ hiệp, giang hồ hành hiệp ... đã có sẵn, nhưng trước đó vẫn ít dùng, nay nhờ các bản dịch các pho truyện kiếm hiệp mà được nhắc đến thường hơn 11. Những chữ mới như truyền âm nhập mật, nhất dương chỉ, lăng ba vi bộ... lúc đầu tuy có hơi khó hiểu, nhưng nghe, đọc riết thành quen. Điều đáng tiếc là các nhà chuyên dịch truyện kiếm hiệp thường thiếu ngày giờ, vì phải dịch cho kịp với các ấn bản của báo Hương Cảng gởi qua. Do đó họ ít chú trọng đến văn từ, văn phạm, không trau chuốt, uốn nắn câu văn dịch như ý muốn, và có khi lại phải dịch bừa cả tựa pho truyện 12
Các tiểu thuyết của Quỳnh Dao may mắn hơn, vì thường không dài quá 300 trang, văn viết lại gọn gàng, sáng sủa, mạch lạc, nên người dịch có thời giờ đọc đi, đọc lại tác phẩm, rồi sửa chữa, thay đổi chữ dùng trong câu văn dịch. Nhờ đó mà bản dịch ít có lỗi chính tả, ít thiếu sót hay bỏ khuyết vài đoạn ngắn trong nguyên tác. 

Dịch sách Tàu có công phu hơn là các bản dịch của Nguyễn Hiến Lê 13, vì tác giả, ngoài việc dịch thuật, còn có ý giới thiệu, phổ biến, và chia sẻ cái hay, cái đặc biệt của văn chương, văn học Tàu. Tuyển tập truyện của Lỗ TấnSử ký Tư Mã Thiên ... là những sách dịch rất công phu. Cùng làm việc này, nhưng trong lãnh vực thơ và từ khúc có Trần Trọng San (1993-94), đã cho xuất bản ở hải ngoại hai quyển Thơ Đường, vàĐường, Tống Từ Tuyển, soạn dịch rất công phu. Ngoài ra còn có nhiều người (một phần lớn là các tu sĩ Phật giáo) sau khi đi du học ở Nhật Bản, đã dịch nhiều tác phẩm Nhật bản. 
Dịch sách Âu châu và Mỹ châu có Bàng Bá Lân, dịch Thầy giáo làng đã chuyển đạt được lối văn kể truyện (gần như tự thuật) giản dị, bình dân trong nguyên tác tiếng Anh The thread that runs so true của Jesse Stuart mà vẫn giữ được vẻ duyên dáng, thanh lịch, nói về giáo dục mà không có sự răn đời cứng ngắc. Chỉ tiếc là Bàng Bá Lân dịch sách này từ một bản dịch của nguyên tác sang tiếng Pháp Les cahiers d'un maĩtre d'école nên có chỗ không được như trong nguyên tác 14. Hà Mai Anh đã dịch tác phẩm danh tiếng Grand Coeur của Edmond de Amicis thành tác phẩm Tâm hồn cao thượng rất được phổ thông trong những thập niên 1950, 1960. Trong những năm 1956 đến 1960, Phạm Đình Tân và Phạm Đình Khiêm đề xướng Tinh Việt văn đoàn, có dịch sang tiếng Việt một số tác phẩm Pháp văn có tính cách triết lý của Lecomte de Nouye và của bác sĩ Alexis Carel. Đỗ Khánh Hoan 15 cũng bỏ ra rất nhiều công sức dịch thuật và giới thiệu các tác phẩm tiếng Anh sang Việt ngữ. Ông dịch rất công phu, chịu khó tra cứu, tìm tòi văn bản nguyên tác, giới thiệu tác giả, dùng chữ rất chọn lọc, dịch thật đúng và thật đầy đủ. Ông cũng có dịch nhiều tác phẫm tiếng Nhật. Ngoài ra, loại sách gián điệp của Ian Fleming, kể lại những chiến tích của điệp viên 007, James Bond, cũng được Hoàng Hải Thủy dịch gẫy gọn và lưu loát. 

Trên phương diện kịch, vào những năm 1973, 1974, Lê Tuấn (bút hiệu Luân Tế) và Duane E. Hauch đã dịch và đưa ra trình diễn các vở kịch Mưa (Rain) của Somerset Maugham, Chuyến xe Dục vọng (A Street Car Named Desire) của Tennessee Williams và Ước vọng dưới tàn du (Desire under the Elms) của Eugene O'Neill. Diễn viên gồm các sinh viên văn khoa và các kịch sĩ danh tiếng như Vũ Đức Duy, Bà Năm Sa đéc và cô Đỗ Anh. 

Trong những năm Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được phát triển, Tổng Cục Quân Huấn thuộc Bộ Tổng Tham Mưu và hai Khối Quân Huấn Hải Quân và Không Quân cũng dịch các sách kỹ thuật quân sự từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Riêng Hải Quân, ngoài Ban Dịch thuật thuộc Phòng Trợ Huấn, còn giao sách không thuộc loại kín, hay phổ biến hạn chế cho các cơ quan dịch thuật ngoài. Do đó Hải quân đã có được rất nhiều sách dịch từ tiếng Anh sang, từ các sách hoàn toàn quân sự như Hải pháo 127 ly, 76,2 ly, Không trợ tiếp cận ... hoặc có tính cách kỹ thuật như Phòng tai, Bảo trì dự liệu, hoặc thuộc loại tìm hiểu, khảo cứu nhưQuốc tế công pháp dành cho sĩ quan đi biển và Quyền lực trên biển. Khối Quân Huấn Hải quân cũng đưa ra tiêu chuẩn dịch và duyệt nâng phẩm chất các sách dịch được chuẩn nhận vào tủ sách huấn luyện của Hải quân. 

Sinh hoạt phiên dịch trong văn đàn Việt Nam tương đối dồi dào . Nhưng đã nói về phiên dịch cũng nên nhắc đến một trường hợp đặc biệt trong văn chương Việt Nam. Hồ Biểu Chánh 16 đọc xong tác phẩm tiếng Pháp, sắp xếp lại một cách gọn ghẽ, rồi viết lại thành một truyện hoàn toàn Việt Nam, tuy cốt truyện theo đúng cốt truyện Pháp. Ông khéo léo thay các địa danh, nhân danh Pháp, bằng địa danh, nhân danh Việt Nam, như Paris trong Les Misérables trở thành Gia Định trong truyện Ngọn cỏ gió đùa, còn Rémi trong truyện Sans famille thành thằng Được trong truyện Cay đắng mùi đời. Ông lại xuất sắc trong việc thay luôn sự kiện lịch sử của Pháp như vụ nổi loạn ở Paris bằng một sự kiện thuần túy Việt Nam, vụ Lê văn Khôi nổi loạn chiếm thành Gia định. Ông chuyển dịch rồi phóng tác rất công phu, và nhờ thế mà đọc các truyện của ông, có thể nghĩ là truyện do ông trước tác chứ không phải là truyện dịch, hay mô phỏng. Trường hợp các truyện nói trên của Hồ Biểu Chánh phải chăng cũng giống như trường hợp các truyện Hoa Tiên, dựa theo Đệ bát tài tử Hoa tiên ký, hay truyện Kiều dựa trên truyện Thanh tâm tài nhân, hoặc Lục Vân Tiên, theo truyện Tây Minh ? 
Phiên dịch còn có nghĩa là dịch sách, truyện, thơ từ tiếng Việt ra tiếng Anh, tiếng Pháp. Trên lãnh vực này, Trương Vĩnh Ký đã đi trước, khi dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp (1875). Ông đã thành công trong việc giới thiệu áng văn chương sáng giá của Việt Nam với người Âu châu. Nguyễn văn Vĩnh cho in bản chú dẫn Truyện Kiều bằng chữ quốc ngữ năm 1925, nhưng đến 1942 bản dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp của ông mới được in (ông mất năm 1936). 
Ngoài ra còn có Nguyễn văn Tố (1936) và Nguyễn Tiến Lãng (1938) giới thiệu truyện Hoa Tiên bằng tiếng Pháp, Hoàng Xuân Nhị dịch Chinh phụ ngâm khúc (1939) ra tiếng Pháp, Dương Đình Khuê (1965) dịchTruyện Kiều vân vân. Đỗ Vạng Lý (1959) dịch sang tiếng Anh các truyện cổ tích như Tấm Cám, Thằng Cuội ... Huỳnh Sanh Thông dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh, và cùng với Nguyễn Ngọc Bích, góp phần rất lớn trong việc quảng bá văn, thơ Việt Nam với độc giả Bắc Mỹ. Cũng có nhiều người ngoại quốc dịch thơ văn Việt nam, trong đó có Abel des Michels (1884) và René Crayssac (1927) dịch Truyện Kiều, George Cordier (1929) dịch Cung oán ngâm khúc... Gần đây có Burton Raffel (1968) dịch thơ Lý Thánh Tôn, Trần Nhân Tôn, Ngô Chi Lan, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Huy Cận... Keith Bosley (1972) dịch vài đoạn Chinh phụ ngâmCung oán ngâm khúcKiều, thơ Hồ Xuân Hương (Đánh đu, Cây quạt), thơ Tản Đà (Vào thu), Nguyễn Vỹ (Sương rơi), Nguyễn Nhược Pháp (Sơn Tinh Thủy Tinh), Thâm Tâm (Tống biệt hành), T.T. Kh. (Hai sắc hoa ti-gôn), Hữu Loan (Màu tím hoa sim), và 18 bài ca dao. John Balaban (1974) dịch khoảng 50 bài ca dao Việt Nam qua tiếng Anh. Gail Graham dịch một số chuyện cổ tích Việt Nam (Giết chó khuyên chồng, Quan Âm Thị Kính, Sự Tích ba vợ chồng Táo quân, Tấm Cám . . .) và Mark Taylor dịch Trương Chi, Mỵ Nương. 
Sau 1975, chúng tôi có dịp đọc ba quyển "Thép đã tôi thế đấy," "Con đưởng đau khổ," và "Truyện cổ tích của Hans Anderson," không được biết tên người dịch và cũng không biết dịch theo ấn bản nào. Đọc trong hoàn cảnh lén lút và đói khát, thiếu thức ăn vật chất lẫn tinh thần, (tù cải tạo không được phép đọc sách) lại thêm không có nguyên tác để đối chiếu, thành ra chúng tôi không thể có ý kiến. Mấy năm gần đây, có nhiều sách dịch được in ấn ở Việt Nam (xin xem phụ bản: một số sách thấy ở thư viện), nhưng không biết là dịch theo nguyên bản nào, thành ra cũng khó đối chiếu. Đành để việc phê bình lại cho những người có được nhiều tài liệu hơn. Chỉ xin ghi ra trong phụ bản một vài tựa sách để độc giả tiện tra cứu. 
Thông dịch, phản dịch và phiên dịch sẽ mãi mãi gắn liền với người Việt Nam, nhất là trong tình trạng hiện nay có gần một triệu người Việt sống ở hải ngoại. Nhờ có sự phiên dịch mà nhiều người trẻ tuổi trong cộng đồng biết thêm được kho tàng văn hóa Việt Nam, nhiều người có tuổi biết thêm được cách suy nghĩ, cách diễn đạt tư tưởng của các sắc dân khác, và suy ra được tính đồng quy của nhân loại. Thiết nghĩ đây cũng là một vấn đề cần cộng đồng Việt Nam hải ngoại để ý đến để khuyến khích con em trau dồi tiếng Việt, học hỏi tiếng Anh, tiếng Pháp, hay một ngoại ngữ khác, vừa để làm giàu thêm cho kho tàng tiếng Việt, vừa để giới thiệu với bạn bè và người ngoại quốc các sách, truyện, thơ có giá trị trong văn chương Việt Nam. 

Ghi Chú

1. Nguyễn văn Khôn , 1986. Anh-Việt Tân Tự-Điển. Glendale, CA: DaiNamCo. 
Các tự điển in ở Hà nội, Đà nẵng ... về sau này (1994, 1996 ...) đã bỏ chữ phản dịch. 
2. Trong bài này, chúng tôi không đề cập đến ba nhóm người có liên quan ít nhiều đến vấn đề thông dịch. Một là thông ngôn, là những người được đào tạo hoặc ở trường thông ngôn, hoặc ở Nhà Dòng hay trường đạo để làm việc thông dịch cho Pháp trong những năm Việt Nam bị Pháp đô hộ. Hai là các hạ sĩ quan thông dịch viên, có trình độ trung học, và sau một khóa thi, được học thêm Anh ngữ và mang cấp bậc trung sĩ đồng hóa, làm thông dịch cho các đơn vị hành quân Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam. Thứ ba là các sĩ quan cộng sản Hà nội mang danh hiệu sĩ quan liên lạc tên lửa, làm thông dịch viên cho các quân nhân Trung Cộng điều khiển các giàn hỏa tiễn ở Bắc Việt -- chúng tôi có được gặp những người này sau 1975. 
3. Trong tiếng Việt, phiên dịch là dịch một văn bản từ một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác. Trong tiếng Pháp, sự phân biệt kỹ hơn khi nói về dịch thuật cho học sinh, sinh viên. Dịch một bài văn từ tiếng mẹ đẻ sang một ngôn ngữ khác là thème, còn dịch từ một ngôn ngữ khác sang tiếng mẹ đẻ là version. Phiên dịch nói chung là traduction. Trong bài này chúng tôi cũng không đề cập đến việc dịch thuật do các giáo sĩ đã dịch Kinh Thánh, sách giảng ... từ tiếng La-tinh, hay Bồ-đào-nha ra Việt ngữ. 
4. Cũng cần ghi thêm là ông Nguyễn Hữu Tiến đã dịch và giải thích hai quyển Mạnh Tử (1932) và Luận ngữ (1935). Trước đó, ông Nguyễn Trọng Thuật dịch Tả truyện và Đại học (1928-30). 
5. Riêng ông Nguyễn Chánh Sắt, trong các bản dịch như Tam Quốc Diễn Nghĩa, Tống Từ Vân, Ngũ Hổ Bình Liêu ..., lâu lâu ông có thêm vào một, hai câu phê bình dí dỏm, lột trần được cá tính của nhân vật, hay bình phẩm thắm thía mà nhẹ nhàng về cảnh huống trong truyện. Có hai nữ dịch giả là bà Trần thị Sĩ và bà Phạm thị Phượng. Về các ông Nguyễn Chánh Sắt, Trần Phong Sắc, cùng các dịch giả truyện Tàu xin xem: Các giai thoại Nam Kỳ Lục tỉnh của ông Hứa Hoành (1997). 
6. Sự nghiệp văn học, biên khảo và dịch thuật của ông Trần Trọng Kim rất quan trọng. Từ những năm 1914 trở về sau, ông đã dịch và diễn giải các danh từ triết học từ tiếng Pháp sang tiếng Việt, trước cả ông Phạm Quỳnh, đồng thời ông cũng làm công tác phổ biến tư tưởng Khổng Tử qua bộ sách Nho giáo, đạo thuyết của Thích Ca Mâu Ni qua quyển Phật học, triết lý của Lão Tử qua sách Đạo giáo 
7. Cũng có người dịch các tác phẩm bằng chữ Nho do người Việt viết, như ông Phan Kế Bính dịch Đại nam Nhất Thống Chí, ông Nguyễn Hữu Tiến dịch Vũ trung tùy bút ... 
8. Ngoài sách Pháp, còn có các ông Nguyễn Giang dịch từ tiếng Anh các kịch Midsummer Night's dream (Giấc mộng đêm hè), Hamlet (Hăm Liệt), Macbeth (Mặt biệt) của William Shakespeare, Vũ Ngọc Phan dịch Ivanhoe (Y văn hoa) của văn sĩ Anh Walter Scott, và Anna Karénine (An-na Kha lệ Ninh) của văn sĩ Nga Léon Tolstoi. 
9. Trong khoảng 1948-1950 nhóm các ông Vũ Đình Long (nhóm Tiểu Thuyết Thứ Bảy ở Hà Nội) có dựa vào vỡ kịch này, và chuyển tác (như ông Hồ Biểu Chánh đã làm với Ngọn cỏ gió đùa ... ) thành một bi kịch thuần túy Việt Nam. Bối cảnh là cuộc chiến giữa ba anh em họ Chế của Chiêm Thành chiến đấu với ba anh em họ Lý của Việt Nam. Kịch được rất nhiều người khen ngợi, cổ xúy -- trong đó có cả ông Phạm Hoàng Hộ, lúc đó đang là sinh viên ở Pháp viết thư khích lệ. 
10. Tượng vua Lê in trong Tiểu thuyết thứ bảy, hai truyện còn lại in thành sách. 
11. Thật ra trước đó có rất ít truyện dịch từ kiếm hiệp Tàu (như Long hình Quái khách, Hỏa thiêu Hồng Liên Tự ...). Các truyện "kiếm hiệp" như Lục Kiếm Đồng, Chu Long Kiếm, Võ Hiệp Kỳ Án là những truyện do ông Phạm Cao Củng viết ra (không phải dịch) và dùng các danh từ trên. 
12. Như pho truyện kiếm hiệp của Kim Dung "Ỷ Thiên Kiếm, Đồ Long Đao," mà dịch giả chỉ đoán mò rồi đặt tựa là Cô Gái Đồ Long trong suốt hai quyển đầu , không ăn nhằm gì đến cốt truyện. 
13. Ông Nguyễn Hiến Lê cũng dịch sách tiếng Anh như loại sách học làm người - hai bộ của Dale Carnegie - Đắc nhân tâm, và Quẳng gánh lo đi . Sau ông còn dịch quyển Kiếp người từ một ấn bản Of Human Bondage của Somerset Maugham (vì có nhiều ấn bản dài hay thu ngắn), và vài tác phẩm khác như Chiếc cầu trên sông Drina. 
14. Dịch giả bản tiếng Pháp là Claude Lévy. Cũng như bản dịch bài thơ If của Rudyard Kipling. André Maurois dịch bài này ra tiếng Pháp, thành ra tuyệt phẩm Si, đọc không biết là thơ dịch, nhưng ông đã phải thay đổi thứ tự các khổ thơ trong nguyên tác. Triều Dương dịch ra bài Nếu, rất hay, nhưng theo sát bài Si, nên khi so sánh, bài dịch ra tiếng Việt không theo thứ tự của nguyên tác If của Kipling. 
15. Ông Đỗ Khánh Hoan nguyên là giáo sư Anh văn, và trong những năm 1972-1973, là trưởng ban Anh văn, trường Đại Học Văn Khoa Sàigon. Bản dịch Đường kỷ niệm, từ nguyên tác Rue d'Archambaut của Gabrielle Roy, nữ văn sĩ Québec, đăng trong Thời Báo, rất được ưa chuộng. 
16. Xin xem "Chân dung Hồ Biểu Chánh" của Nguyễn Khuê, Lửa Thiêng xuất bản năm 1974, Xuân Thu (Los Alamitos, CA. in lại, không đề năm. 

Vài tài liệu tham khảo (ngoài các sách dịch có nêu tựa): 

Dương Quảng Hàm, 1968. Việt Nam Văn Học Sử Yếu. Westminster, CA: Sống Mới in lại 1979. 
Dương Quảng Hàm, 1968. Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển. Westminster, CA: Sống Mới in lại 1979. 
Marr, David. 1992. Vietnam. Santa Barbara, CA: Clio Press. 
Phạm Thế Ngũ, 1965. Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên. Glendale CA: DaiNamCo in lại. 
Trần Trọng Kim, 1971. Việt Nam Sử Lược. Glendale CA: Đại Nam in lại.

Thuần Ngọc

quehuongngaymai.com
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
24 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11061)
Tôi đã trở lại với anh em, với bạn bè. Nhưng đành phải vĩnh viễn từ giã chiếc phi cơ thân yêu mang số đuôi 526 - chiếc phi cơ đã gắn bó với chúng tôi trong bao phi vụ hành quân
20 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11393)
Nghi lễ Thanksgiving được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước Mỹ, năm 1578, khi nhà thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới.
19 Tháng Mười Một 2012(Xem: 12234)
Thực đúng như vậy, chúng ta đã sinh ra đời trên quê hương không hề có sự lựa chọn nhưng nếu phải trả giá với sự sống chết thì chúng ta vẫn có cơ may lựa chọn nơi sinh sống.
18 Tháng Mười Một 2012(Xem: 12004)
Và tôi cũng tin rằng ở một nơi chốn bình yên nào đó, chắc chắn hồn anh cũng mãi nhớ đến những cánh chim cùng bầy ngày nào, giờ đang tan tác khắp bốn phương trời cách biệt.
18 Tháng Mười Một 2012(Xem: 10624)
Hãy hưng phấn lên anh em ơi, gánh núi nặng trên vai người chiến sĩ quốc gia sắp đến chỗ đỗ rồi, lá cộng sản đã quá vàng khô, nó PHẢI RỤNG vì không thể không rụng./.
17 Tháng Mười Một 2012(Xem: 10193)
Một khi Trung cộng sụp đổ thì cộng sản An nam hết chỗ dựa cũng tiêu tùng. Huống chi tuổi trẻ Việt Nam hiện nay đã lấy lại tính chất ngạo nghễ truyền thống như kể trên thì ngày tàn của bạo chúa 14 tên ở cung Ba Đình đã gần kề.
17 Tháng Mười Một 2012(Xem: 12093)
Với mục đích giới thiệu về ngôi trường trung học Ngô Quyền Biên Hòa yêu dấu năm xưa, KTS. Nguyễn Mạnh Dũng – CHS.NQBH khóa 13 – đã có ý tưởng tái hiện lại chiếc cổng trường Ngô Quyền trong khuôn viên Một Thuở
16 Tháng Mười Một 2012(Xem: 14730)
chỉ hy vọng một ngày nào đó tôi viết một cuốn hồi ký, họa may mới dàn trải được số phận của bài thơ Kỷ Vật Cho em.
13 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11013)
Truyền thống, tình tự dân tộc Việt Nam trải dài lịch sử bốn ngàn năm, có sá gì 70 năm nhiễm nọc độc duy vật vô thần, vô tổ quốc cộng sản.
11 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11892)
NHỮNG HÌNH ẢNH NẦY PHẢI ĐƯỢC MỌI NGƯỜI TRUYỀN TẢI ĐẾN THẾ HỆ TRẺ HÔM NAY VÀ MAI SAU , TRONG CŨNG NHƯ NGOÀI NƯỚC .
09 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11029)
Mai nầy con giao long ấy, trước vận nước ngã nghiêng, trước thái độ nhu nhược, ươn hèn của bè đảng csvn trước giặc Tàu xâm lược, giựt mình tỉnh thức, sẽ vùng dậy vươn vuốt sắc, vì dân khử bạo:
08 Tháng Mười Một 2012(Xem: 18370)
Vậy mà chẳng còn bao lâu nữa là tròn 36 năm chúng ta cư ngụ tại nơi này. Mới ngày nao bỡ ngỡ đến đây, nay nhớ lại đã là câu chuyện của ngày xưa với bao nhiêu quên-nhớ, ngậm ngùi.
07 Tháng Mười Một 2012(Xem: 14722)
Cộng Sản Việt Nam vẫn ngoan cố như tự bao giờ, trước sau như một. Địa vị của Đảng vẫn phải được củng cố vững mạnh hơn bao giờ hết bằng lưỡi lê và họng súng.
06 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11093)
Cố Miên vương Shihanouk, dù cách nào, ông vẫn được toàn dân Miên kính mến như "cha già của dân tộc Kampuchia".
06 Tháng Mười Một 2012(Xem: 12047)
Thời gian trôi qua, những đặc quyền dành cho tổng thống ngày càng nhiều hơn. Mặc dù một số đặc quyền gây tranh cãi song nhìn chungngười Mỹ dường như chấp nhận cách đối xử đặc biệt này.
06 Tháng Mười Một 2012(Xem: 17525)
Thế hệ trẻ còn một con đường dài ở phía trước. Vẫn còn đó con đường mà Cụ Phan Chu Trinh còn đang bỏ ngỏ nhưng rất sáng giá và tỏ ra có ưu thế trong tình hình nước ta hiện nay.
05 Tháng Mười Một 2012(Xem: 11870)
Người dân đã quá mệt mỏi với bao vấn đề về cơm áo gạo tiền giờ đến lượt của để dành cũng bị các ông làm cho khốn đốn. Làm dân Việt Nam sao mà khổ thế còn làm quan ở ta thì sướng không gì bằng
03 Tháng Mười Một 2012(Xem: 10596)
Một phút trước là nô lệ, một phút sau là con người của tự do. Nếu hỏi một người dân thiểu số, cái gì quý nhất: Muối. Nếu hỏi một người Hà Nôi, lúc này đây, cái gì quí nhất: tự do.
01 Tháng Mười Một 2012(Xem: 10254)
Ngày nay, sự thể tỏ rõ đúng y như vậy: Giai cấp nông dân sẽ tiến hành cuộc cách mạng tư sản nhân quyền, là người đào mồ chôn chế độ cộng sản phi nhân
30 Tháng Mười 2012(Xem: 11124)
Vận mệnh Đất Nước là ở trong tay các bạn. Hãy hành xử đúng tư cách là NGƯỜI CHỦ. Với Tâm Niệm theo Truyền thống DIÊN HỒNG - VÌ DÂN LIỀU THÂN
30 Tháng Mười 2012(Xem: 32186)
Kể từ đó, khi Ấp Chiến Lược bị phá bỏ, thì quê tôi, quận Tiên Phước gồm 15 xã, mà việt cộng đã chiếm hết 11 xã, chỉ còn có 4 xã nằm chung quanh quận lỵ, mà chẳng có xã nào còn nguyên vẹn
30 Tháng Mười 2012(Xem: 10598)
Hãy vững tâm, bền chí Việt Khang Em sẽ ra tù trước hạn VẼ VANG Bọn phản quốc sắp đến ngày đền tội Hẹn em ngày về VINH QUANG
29 Tháng Mười 2012(Xem: 10274)
Hổng chịu ăn học tử tế Theo cọng sản làm phản Bán nước hại dân tan nát Bây giờ vô liêm sỉ lòn trôn
26 Tháng Mười 2012(Xem: 10091)
Ở bài này, tôi đã chứng minh cuộc chiến tranh từ du kích đến quy mô lớn ở Việt Nam là do ông Hồ và đảng cộng sản gây ra. Đây là cuộc chiến tranh phi nghĩa không phải theo lý do “giải phóng” dân tộc.
25 Tháng Mười 2012(Xem: 11393)
Ai ra xứ Huế thì ra Ai về là về núi Ngự Ai về là về sông Hương Nước sông Hương còn thương chưa cạn
24 Tháng Mười 2012(Xem: 12789)
Tại sao ông Hồ và đảng cộng sản lừa dối không công khai bức thư? Tại sao ông đi kiếm ăn lại nói dối “Tìm đường cứu nước”? Đó chính là sự lừa dối không thể chấp nhận được.
24 Tháng Mười 2012(Xem: 10457)
Qua bài này tôi đã chứng minh một sự thật là ông Đồng và ông Hồ đã thông qua công hàm 1958 để bán tổ quốc Việt Nam cho Trung Cộng. Vai trò của ông Hồ là hết sức rõ rệt trong sự kiện này
23 Tháng Mười 2012(Xem: 9994)
Thân là lãnh đạo quốc gia, chúng hành xử thua đồ con nít. Theo truyền thống Việt Nam, mỗi khi trẻ em phạm lỗi, mẹ bắt cúi xuống đánh đòn, răn dạy.
21 Tháng Mười 2012(Xem: 10055)
Bản báo cáo dài 52 trang của Ủy ban Tình báo Hạ viện Mỹ đề cập đến việc một số công ty Mỹ sử dụng thiết bị của Hoa Vi và Trung Hưng đã gặp những trường hợp “kỳ lạ” và “đáng báo động”
21 Tháng Mười 2012(Xem: 9702)
Người nghệ sĩ lăn lóc gió sương. Tơ đàn say đắm quên sầu thương. Dành tình này cho kẻ khổ đau. Quên tình xưa thôn nữ chờ mong.”
18 Tháng Mười 2012(Xem: 11570)
Dù xa QUÊ HƯƠNG tôi vẩn không bao giờ quên được Sài Gòn với những chiếc xe thổ mộ kết nối tình duyên của song thân ..với những gánh hàng rong khắp nẽo đường
18 Tháng Mười 2012(Xem: 10426)
Dân Làm Báo có câu khẩu hiệu: Mỗi người là một chiến sĩ thông tin. Trên mặt trận vận động cách mạng giải trừ độc tài toàn trị cộng sản, xin nêu lên khẩu hiệu: MỖI NGƯỜI LÀ MỘT CHIẾN SĨ DÂN VẬN.
16 Tháng Mười 2012(Xem: 15035)
Chỉ xem có một lần nên không biết có chiếu nhiều lần hay không, nếu có thì tôi đã bỏ lỡ cơ hội rất tốt vì căn cứ theo phim đã xem thì nơi này chọn lựa phim rất hay.
13 Tháng Mười 2012(Xem: 12531)
Hội nghị Diên Hồng được xem như hội nghị dân chủ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Các phụ lão có thể coi là những đại biểu của dân. Sau hội nghị, chính các phụ lão là những người truyền đạt lại chủ trương của chính quyền đến người dân.
12 Tháng Mười 2012(Xem: 10443)
Sự thay thế nó và toàn bộ tổ chức và cơ chế của nó là điều không dễ, vì nó đã bám rễ khá sâu vào con người Việt Nam. Nhưng vì tương lai của dân tộc và nhất là để tránh họa bị đồng hóa, người Việt Nam không có con đường nào khác là: giải thể nó và hướng đi ra biển bắt tay với cộng đồng thế giới.
11 Tháng Mười 2012(Xem: 10576)
Vừa đem mồi Hòa hợp, Hòa giải dụ khị cả ba bề, bốn bên vừa đánh lạc hướng công luận về “ Cái nồi súp de tranh ăn của bọn trùm đảng” đang sôi sùng sục, sắp nổ bùng ngay trước lăng vệ sinh già hồ Ba Đình.
10 Tháng Mười 2012(Xem: 10973)
Lord hold our troops in your loving hands. Protect them as they protect us. Bless them & their families for the selfless acts they perform for us in our time of need. In Jesus name,
09 Tháng Mười 2012(Xem: 10670)
Dân tộc Việt Nam, trải qua bốn ngàn năm lịch sử, chưa có thời kỳ nào hèn yếu như hiện nay, chỉ vì bọn cọng sản tàn ngược quá lẽ. Tuổi trẻ ngạo khí tiêu trầm.
09 Tháng Mười 2012(Xem: 12033)
Tôi nghĩ mọi người ở Hoa Kỳ phải nên đọc bài này,nhưng vì ACLU *nên không có cách nào để việc này được phổ biến rộng rãi trừ phi mỗi chúng ta tiếp tay phát tán ra.
07 Tháng Mười 2012(Xem: 10621)
Nhật Bản mua của Hoa Kỳ 42 chiến đấu cơ F-35 Lightning II A/B. Loại F-35B cất và hạ cánh thẳng đứng có thể trang bị cho 4 tàu đổ bộ trực thăng cải tiến từ các tuần dương hạm. Máy bay Kawasaki C-2 có khoảng 50 chiếc là loại tấn công mặt đất và ném bom chiến thuật.
06 Tháng Mười 2012(Xem: 10349)
Gương mặt bức tượng nổi tiếng nhất nước Mỹ được lấy nguyên mẫu từ mẹ của tác giả thiết kế bức tượng. Trong mắt những người nhập cư đến “xứ sở cờ hoa” – vùng đất hứa của mọi người, bức tượng Nữ thần Tự do là hình ảnh đầu tiên đập vào mắt họ
04 Tháng Mười 2012(Xem: 24288)
Ước mong hàng thức giả trong, ngoài nước dõng mãnh đứng lên vì Đại Nghĩa Dân Tộc dẫn dắt toàn dân tiến bước, dứt trừ hoạn họa cộng sản tham tàn
04 Tháng Mười 2012(Xem: 10632)
Giờ đây chiến cuộc đã tàn phai. Nhiều anh em y sĩ Hải Quân đã trở về trong lòng đất lạnh. Hồi tưởng lại buổi thiếu thời, sau khi đã nếm mùi biển động của Đại Tây Dương
04 Tháng Mười 2012(Xem: 9507)
Em tôi hỡi ! Cớ sao em cười? Đừng đùa với mối tình đầu tiên Cho tan vỡ những câu tâm tình Mà mình đã dối lòng mình yêu...”
03 Tháng Mười 2012(Xem: 10089)
Von Braun tin tưởng vào trật tự của Vũ Trụ và cho rằng con người sẽ tới được các thế giới tuy xa xôi nhưng không kém phần đẹp đẽ và huyền bí
02 Tháng Mười 2012(Xem: 9929)
Khi mặt trời vừa khuất bóng, tiếng còi trên đài chỉ huy vang lên để cử hành lễ hạ kỳ. Mọi người đứng nghiêm chào lá quốc kỳ đang hạ xuống, sau đó chiến hạm bật đèn hải hành. Lúc đó các chiến hạm bạn đang tiến đến gần,
02 Tháng Mười 2012(Xem: 11490)
Dù sao thì trên 30 chiến hạm của HQVNCH di tản trước đây đã làm tròn nhiệm vụ ngăn chận giặc thù việt cộng và tàu cộng, giữ yên lòng biển Mẹ trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam Việt Nam
02 Tháng Mười 2012(Xem: 10744)
Bộ ảnh sau đây là những tác phẩm tuyệt vời về tranh thêu…Trong đó ta sẽ cảm nhận được hương vị của mùa xuân, của truyền thống dân tộc Việt về tranh thêu…
02 Tháng Mười 2012(Xem: 10430)
Chỉ những ai có duyên phận mới trở thành người thân của nhau, cho dù trong cuộc sống bận rộn bạn ít khi gặp mọi người, nhưng bạn hãy trân trọng từng khoảnh khắc khi còn bên họ, hãy dành cho họ thời gian để yêu thương bạn hơn.