TIẾNG
HÁT DƯỚI CHÂN RẶNG TRƯỜNG SƠN
LỜI DẪN
Những người "Ngụy
hòa" thường nói: mấy người Quân-Cán-Chánh VNCH vì
bị tù đày, hành hạ nhiều năm nên hận thù "CHỐNG
CỘNG CỰC ĐOAN QUÁ KHÍCH."
Tôi dõng dạc nói: KHÔNG!
Chúng tôi nhận thức minh bạch:
1/ Thua trận ở tù để
trả nợ là sòng phẳng, chẳng vì thế mà thù hận. Chỉ
oán hận vì giặc Cộng buôn dân, bán nước, tàn hại Đất
Nước, Dân tình nghèo khổ điêu linh!
2/ Dù trong cảnh tù đày
gian khổ, trong lòng chúng tôi, Non Sông Đất Việt vẫn
mãi mãi Hùng vĩ và Tươi đẹp.
Xin đăng lại bài viết
dưới đây như lời nhắn gởi các Bạn trẻ hiện nay
đang dấn thân tranh đấu vì Tự Do, Dân chũ, vì lẽ Tồn
Vong của Đất Nước và Dân Tộc điều nầy:
Thế hệ Cha ông các bạn
đổ biết bao nhiêu xương máu, hàng trăm ngàn chịu cảnh
tù đày chỉ để giữ được cho đồng bào Miền Nam sống
trong Tự Do, no ấm vẽn vẹn có 21 năm. Nay các Bạn muốn
thoát gông xiềng VC cho chính mình và đồng bào, giành lại
Quyền sống, Quyền Làm NGƯỜI thời phải chấp nhận
gian khổ, tù đày, có khi còn mất mạng. Đó là cái giá
phải trả để được TỰ DO: Tự Do không cho không, biếu
không.
TIẾNG
HÁT DƯỚI CHÂN RẶNG TRƯỜNG SƠN
Cảnh và Tình của
người tù trên đất Bắc
Trong ánh nắng vàng le
lói của buổi sáng mùa Đông lặng lẽ, tiếng hát run rẩy
cất lên:
Suối A Mai chảy dài ra
Bến Ngọc
Đường ta đi qua Dốc Phục Linh
Đường
ta đi đường nghĩa, đường tình
Đường
đi hạnh phúc chúng mình đắp xây
Dưới chân Rặng Trường
Sơn đoàn tù rách rưới, tả tơi, lầm lũi đào đấp
theo tiếng hát ẻo lả, ủ ê. Mà nào có phải là tiếng
hát, chỉ là mấy câu "nói lối" hững hờ của
người tù tên Đạt, nguyên sĩ quan quân báo Tiểu Khu Bình
Tuy. Anh Đạt lúc nầy yếu đuối lắm rồi mà phải tuân
theo sự cưỡng ép của lũ tù gọi là Thường Trực Thi
Đua, tức là lũ tù phản tỉnh lập công, mà phải gắng
gượng, xướng ca. Mà mấy chữ cuối cũng không phải là
"chúng mình đắp xây". Chính ra là "chúng mình
Thi đua", nên người viết tự ý sửa đi cho nó bớt
mùi xã nghĩa, làm hỏng đi vẻ đẹp của Sông Núi Trường
Sơn.
SUỐI A MAI
A Mai là tiếng sắc tộc,
gã tù chẳng hiểu nghĩa là gì mà cũng không ai bảo cho
gã biết, bèn tự giải thích liều là suối mang tên người
con gái đẹp như đóa hoa mai: Suối Nàng Mai. Cũng giống
như tính khí thất thường của người đẹp, dòng A Mai
thay đổi theo mùa. Mùa khô hạn, nàng thu hình thành một
dòng suối nhỏ, nước trong vắt, dịu dàng, róc rách chảy
về xuôi. Mùa mưa lũ, nàng dâng lên tràn ngập bãi bờ
thành dòng sông rộng, ào ạt cuốn trôi. Gặp nơi ghềnh
đá chắn ngang, sóng vỗ ghềnh, bọt tung trắng xóa. Một
buổi trưa hè đổ lửa vừa buông cuốc ngồi bệt nơi
ghềnh đá ven bờ, nhìn về phía thượng nguồn, một
chiếc bè tre phăng phăng lướt xuôi dòng. Trước mủi bè,
một em bé người sắc tộc đứng dạng chân, tay hoành
ngang ngọn sào tre, trông lẫm liệt khác nào Trương Phi
hoành xà mâu, trấn giữ cầu Trường Bản. Chiếc bè tre
cơ hồ lao vào ghềnh đá, vậy mà phía sau người cha thản
nhiên ngồi. Kịp khi mủi bè sắp chạm vào ghềnh đá rồi
nương theo sức bật của dòng nước lùi ra, đứa bé nhẹ
nhàng chọc chiếc sào tre vào vách đá. Chiếc bè liền
quay quắt, lướt xuôi dòng. Cảnh trí trông còn đẹp hơn
cảnh Gable-Monroe vượt "Dòng Sông Không Bao Giờ Trở
Lại" trên phim ảnh. Gã tù vốn gốc dân Xứ Thủ
(Thủ Dầu Một - Bình Dương), thuở học trò, mỗi khi Hè
đến, vẫn bơi lội dọc ngang trên Dòng sông Thủ. Vậy
mà có lần gã suýt vùi thân nơi Dòng A Mai xinh đẹp mà
cuốn hút đó. Buổi chiều, sau một ngày lặn lội đường
xa, cặp tre già nặng trĩu vai gầy. Vừa về tới bờ A
Mai, gã tù vất phịch bó tre, ngồi thở dốc. Rồi, thay
vì đợi các bạn tù kết bè dã chiến, vượt suối an
toàn, gã cởi quần áo, lột dép cầm tay, một mình lội
đứng qua dòng. Có ngờ đâu lúc nầy tuổi gã đã ngoài
bốn mươi lại thêm bịnh đói triền miên, sức lực đã
mỏi mòn. Cho nên mới ra tới giữa dòng, gã đà kiệt
sức. Khốn nỗi, nếu buông quần áo, nhất là đôi dép
độc nhất ra để rảnh tay bơi lội thì những ngày dài
sắp tới, khi vượt rừng, băng núi, gai gốc, đá tai mèo
thì đôi chân trần liệu sẽ ra sao? Cho nên gã đành đánh
liều với số mạng, cố gắng đến đâu hay đến đó.
May sao vừa lúc ấy, chiếc bè phía sau vừa lao tới, gã
vươn tay bám chặt vật cứu tinh. Vậy là thoát nạn.
Suối A Mai chảy dài ra Bến Ngọc
BẾN NGỌC
Vượt rừng núi Lào Cai
một đêm Hè mưa rơi tầm tã, xuyên quaThị Xã Vĩnh Yên,
đổ xuống bến đò Ấm Thượng. Chiếc tàu sắt men theo
sông nhánh, đưa đoàn tù Miền Nam đổ bộ lên Bến Ngọc
vừa lúc chiều buông. Cảnh chiều tà trên bến vắng thật
là hiu quạnh. Khói cơm chiều nhà ai vờn lửng lơ trên
mái rạ. Gã tù ngẫn ngơ, mường tượng trong tâm tưởng
tiếng hát biệt ly sầu:
Bến ấy ngày
xưa người đi
Vấn vương, biệt ly …
Đàng trước mặt, nẻo
mòn quanh co, mất hút trong cảnh rừng núi tăm tối, mịt
mù. Đàng sau lưng, dòng sông lặng lẽ, lững lờ trôi.
Lòng người tù khoắc khoải, rồi đêm nay biết sẽ về
đâu? Vì ấn tượng ban đầu ấy mà về sau, mỗi lần
trẩy qua Bến Ngọc gã tù vẫn thấy lòng buồn man mác:
Cảnh nào cảnh
chẳng đeo sầu
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ
Mà cảnh ấy có gì vui?
Trên bến vắng, núi rừng Trường Sơn lặng ngắt. Dưới
bến sông chỉ độc chiếc thuyền con đơn côi, cắm sào
đợi khách. Không gian vắng lặng như tờ.
Vậy tại
sao bến ấy có tên đẹp đẻ là Bến Ngọc? Phải chăng
vào thưở yên bình xưa cũ, khi lòng người còn thanh thản,
chưa nặng trĩu lụy phiền, một đêm trăng sáng, ánh
trăng chiếu giải trên bến vắng. Dòng sông gợn sóng lăn
tăn, phản chiếu ánh trăng thanh,tỏa sáng lấp lánh trông
như ngọc. Vì vậy mới đặt tên là Bến Ngọc chăng? Rời
Bến Ngọc một quãng đường thì đã tới chân Dốc Phục
Linh.
DỐC PHỤC LINH
Khen ai khéo đặt tên Dốc
Phục Linh, bởi vì mỗi lần qua là mỗi lần đờ đẫn,
chỉ vượt qua rồi mới lấy lại thần hồn. Ngày đó,
toàn Trại Tân Lập, kể cả Phân trại K7 giam tù "biệt
kích" cũ của Miền Nam, đều kéo ra Bến Ngọc để
vận chuyển những gì còn lại của xác Trại Số 1, Lào
Cai, bị Trung Cộng tràn qua biên giới đánh sập. Lần đó,
gã cùng một bạn tù khiêng một bó cột kèo nặng trĩu.
Gã bắt đầu vượt Dốc Phục Linh vào lúc trưa đứng
bóng. Trời nắng chang chang, không khí tan loãng, nhẹ tênh,
mặc cho gã phì phò hít thở mà không hớp được bao
nhiêu dưỡng khí. Dốc thì dựng đứng, gánh nặng oằn
vai, từng giọt mồ hôi chảy vào mắt cay xè, gã dấn
bước trèo lên một cách vô hồn. Chỉ khi được lịnh
nghỉ, gã định thần nhìn lại mới hay mình đang đứng
trên đỉnh dốc. Nhìn quanh tìm kiếm, gã không thấy nơi
nào có đủ bóng râm tránh nắng. Những cụm tre thưa,
những thân cây còm cỏi làm sao tỏa được bóng râm mát
mẻ? Gã bật ra tiếng chửi thề khi bỗng nhiên nhớ lại
mấy câu thơ tiền chiến chết tiệt của văn nô Tố Hũu:
Tôi từ Vĩnh Yên lên
Anh từ Sơn Cốt xuống
Gặp nhau lưng Đèo Nhe
Bóng tre trùm mát rượi
Bận lên đã vậy, bận
xuống cũng không phải nhẹ nhàng, phải ra sức kềm lại
sức nặng từ phía sau đẩy tới, có thể xô ngả xuống
hố sâu bên vệ đường. Xuống hết dốc một quãng thì
bắt đâu vào xóm. Đường tuy bằng phẳng mà gã tù vì
mệt mỏi nên vẫn bước lặt lè. Phía trước mặt đi
ngược lại, chị dân làng áo quần lếch thếch, gánh
nặng oằn vai. Vậy mà miệng không ngớt kêu thương, "Tội
nghiệp các Bác quá!" Mà nào ai biết ai tội nghiệp
hơn ai? Lũ tù kia chiều nay còn có chén "sắn dui"
nho nhỏ tạm qua cơn đói khát. Còn Chị? Chiều nay biết
chị có mang về được chút khoai, sắn cho bầy con nhỏ
để chúng được no lòng? Vậy mới biết, giữa những
người cùng khốn, tình yêu thương vẫn ấp ủ trong
lòng.
Ngày nay, nơi xứ người,
gã cựu tù vẫn mơ màng. Một mai khi nghiệp "Ác Cộng"
đã được giải trừ, gã sẽ về thăm lại chốn tù đày
thuở nọ. Để có dịp ngắm nhìn Bến Ngọc dưới trăng
thanh, lấp lánh khoe ánh ngọc. Để buổi chiều tà trên
đỉnh Dốc Phục Linh, ngồi lặng ngắm bầy chim sãi cánh
tìm về tổ ấm. Để đắm mình trong Dòng A Mai trong vắt,
rồi nửa đêm thao thức, vẳng bên tai xào xạt, sóng bổ
ghềnh.
Nguyễn Nhơn