(Kính tặng: Quý Thầy, Cô và bạn bè
Cùng tất cả những ai có quê hương là
Tân-Uyên)
Người ta nói: Người già thường hay
sống về những hoài niệm trong dĩ vãng. Tôi cũng
vậy, bây giờ đã không còn sức lực bươn chải
cho cuộc sống như ngày xưa, nên tôi có được
nhiều thì giờ để ôn lại vài giai đoạn mình
đã đi. Trước là để thỏa mãn với ký ức của
chính mình; sau là vui cùng với vài
người bạn. Những kỷ niệm ấy là những kỷ niệm của một thời
khó quên!
Có lần tôi đã kể: Tôi
có dịp đến Tân-Uyên là tại vì
tôi học dở. Điều ấy không phải sai đâu! Nếu tôi
đậu vào được trường Trung-học Trịnh-Hoài-Đức để học,
thì chưa chắc sau này tôi có dịp đến
Tân-Uyên dù Tân-Uyên cũng chẳng
là xa với làng quê tôi là bao, chỉ
có mười mấy cây số thôi!
An aerial view of the Tan Uyen Leper Colony
on bright sunshine day immediately
N. across the Song Dong Nai river. (Oct 66)
(Photo courtesy Tommy Thornton)
Tôi cũng như bao nhiêu đứa bé
trong làng quê thuở ấy, mình được đi học chỉ mong
vào học ở những trường công để khỏi phải đóng tiền,
mà cha mẹ mình có thể cáng đáng nổi.
Chính vì thế mà khi thi rớt xong, tôi chỉ
mong ngồi học lớp Nhứt trở lại để năm sau thi tiếp. Tôi
cùng với nhiều bạn bè đã phải xin chuyển ra
Búng học ở trường Cộng-đồng Dẫn-Đạo mong kỳ thi vào
Đệ-Thất năm sau được lọt vào học ở trường Trịnh-Hoài-Đức
là trường công lập đầu tiên, cũng là trường
duy nhất của Tỉnh Bình-Dương lúc bấy giờ. Đạp xe đạp đi
xa mỗi ngày được khoảng hơn tháng trời để theo học lớp
Tiếp-Liên tức là lớp cho những học sinh đã từng thi
rớt, trong một chương trình cao hơn đối với một lớp bình
thường, để kỳ thi tới hi vọng có được nhiều học sinh đạt được
kết quả tốt.
Nhưng bỗng một trưa ngày nọ, bạn bè
không biết tụi nó bắt tin từ đâu cho hay có
tin rằng: Ông Luật sư Trần-Văn-Trai, dân biểu Quốc-Hội của
tỉnh muốn xin mở chi nhánh của trường Trung Học
Trịnh-Hoài-Đức ở tại xã An-Mỹ và trường trung học
tư của ông sẽ biến thành chi nhánh đó. Thế
là tụi nó bàn đến cách bỏ học ở lớp tiếp
liên nầy để về trường tư thục An-Mỹ học để cầu may! Nay nghỉ đứa
nầy, mai nghỉ thêm vài đứa. Tôi cũng thấy bồn chồn
nôn nao, một ngày tôi nói với ba tôi để
xin ý kiến. Vì thương con ông cũng ráng cho
tôi chuyển về trường An-Mỹ học lớp Đệ Thất, tất nhiên
là phải đóng học phí mỗi tháng! Học trong
niềm hi vọng của cầu may! Nhưng chưa! Cách vài
tháng sau, tụi nó lại báo một tin khác:
Trên Tân-Uyên mở một trường Trung học mới của tỉnh
Phước-Thành mới thành lập, đang nhận đơn xin thi
vào lớp Đệ Thất (lớp 6 bây giờ). Tôi nghe nói
vậy thì về nói với ba như vậy, chứ không thiết tha
lắm và mình cũng còn chờ hi vọng trường tư thục
của ông Trai biến thành trường công. Một ngày
đi học về ba tôi cho hay là đã đi lên
Tân-Uyên với tụi thằng Huệ, thằng Năm nộp đơn cho tôi
rồi! Thế là tôi cũng chuẩn bị cho ngày đi thi.
Ngày đi thi, bạn bè trường
Tân-Khánh của chúng tôi cũng được khoảng mười
mấy đứa. Hôm ấy, tôi theo chị Thay ở trọ nhà người
quen của chị ở ngã ba Bình-Hóa trên trục
quốc lộ 16. Nửa đêm nước sông lên cao tràn
vô nền nhà, chúng tôi phải lội nước để đi ra
bên ngoài. Sáng hôm sau, tôi và
chị Thay, chị Mướp cùng cưỡi xe đạp qua cầu Rạch Tre lên
trường Tiểu-học Uyên-Hưng dự khóa thi cùng với
khoảng hơn trăm rưỡi thí sinh, đa số thuộc tỉnh
Biên-Hòa. Họ cũng là những thí sinh
đã bị rớt khi thi vào lớp Đệ-Thất của trường Trung-học
Công-lập Ngô-Quyền ở Biên-Hòa.
Trong
khóa thi có nhiều người Bắc từ Hố-Nai, Tam-Hiệp cũng đến
dự. Có hai trường hợp đặc biệt mà khiến tôi
không thể quên trong kỳ thi đó là có
chị nàng chắc người xứ Huế có tên thật dài
của người hoàng tộc: “Công-Tằng Tôn-Nữ Mai-Hoa”;
và một anh chàng đực rựa có tên thật
là con gái “Ngô-Hạnh-Thi”, cho nên anh
chàng được xếp ngồi thi chung với đám con gái.
Chúng tôi nhìn thấy mà cứ tức cười. Anh
chàng nầy cũng đậu và học trong vài tháng
thì chuyển trường, không biết có được về trường
Công-lập không, hay là bỏ học để về học trường tư
cho thuận tiện hơn!
Ngày nhập học, chúng tôi thuộc
trường Tiểu-học Tân-Khánh cũ cũng được trên mười
người của sĩ số lớp là sáu mươi lăm học sinh. Theo những
danh sách trên sổ thì lớp nầy có nhiều
nhân vật thuộc về “chúa sơn lâm”: Hổ, Beo, Cọp,
Báo đều có đủ. Lớp được khai giảng tại trường Tiểu-học
Uyên-Hưng, nằm bên hông trụ sở Quận
Tân-Uyên và trên nổng cao bên kia
là Chi Công-An. Quận Tân-Uyên lúc
đó không lớn lắm. Dân chúng thường tập trung
gần khu chợ và theo trục quốc lộ 16 tính từ cầu Rạch Tre
cho lên gần đến dốc Bà Nghĩa.
Khu chợ là khu đông dân,
có nhiều nhà. Chợ Tân-Uyên đầu ngoài
ngó ra quốc lộ là đầu chợ chính, nơi có bến
xe, khu lồng chợ và khu chợ cá ở phía sau gần bờ
sông. Ở bờ sông có bến đò mà người
dân từ bên cù lao 6 xã qua sông đi chợ
mua sắm, bờ bên kia là khu vực của một cái
đình làng. Khu vực nầy được nhà văn
Bình-Nguyên-Lộc diễn tả ở đoạn văn trong một tác
phẩm nào đó của ông, mà tôi đã
có dịp được xem qua đoạn văn ấy. Khu tập trung nhiều dân
nhất của Quận Tân-Uyên là hai bên chợ
có hai dãy phố buôn bán vật dụng,
hàng hóa. Phía trong sau hai dãy phố
đó là nhà dân; nhưng khu phía
Đông Bắc từ chợ cho đến Quận là nhà cửa và
người là nhiều hơn cả. Còn đối diện khu chợ, phía
bên kia đường ngoài dọc đường là phố xá
buôn bán, bên trong nhà cửa không nhiều
nhưng rải rác trải ra cho đến bìa ruộng. Còn khu
từ chợ về hướng cầu Rạch Tre hay từ trường học Uyên-Hưng về dốc
Bà Nghĩa thì nhà cửa cũng chỉ lẻ tẻ ở hai
bên đường xen lẫn với những vườn hay ruộng của cư dân.
Ngày đến Tân-Uyên, ba
chúng tôi có ý xin chùa cho
chúng tôi ở tạm đi học, nhưng sau đó vì thấy
chùa không có chỗ và khá bất tiện,
đồng thời cũng nhờ vào dịp may gặp được bà út Nghệ
đi chợ về ngang trú mưa khi mưa lớn. Sau khi biết, bà
Út cho chúng tôi về ở trọ nhà của bà
mà không lấy tiền, tất cả là 5 đứa gồm thằng Thạch,
tôi, Son và hai anh em Long, Phụng. Nhưng vài
ngày sau Son không ở trọ mà cưỡi xe đạp đi học
và về với Huệ, Năm, Tộ, Lực và mấy người nữa mà
tôi không nhớ rõ. Từ đó chúng
tôi ở thường xuyên là 4 đứa và gắn liền với
khu vực sân banh của xã Uyên-Hưng.
Trường Trung-học Công-lập Phước-Thành ở
Tân-Uyên là trường trung học đầu tiên, duy
nhất của tỉnh mới thành lập bao gồm ba quận
Tân-Uyên, Phú-Giáo và Hiếu-Liêm
bao quanh khu vực chiến khu D lừng danh trong kháng chiến. Lớp
Đệ-Thất mà chúng tôi đang theo học là lớp
đầu tiên của trường mà Hiệu-Trưởng là người ở dưới
Bộ Giáo-Dục đứng tên. Chúng tôi không
nhớ rõ là (Đặng-Duy) Chiểu hay “cái gì
Chiểu” đó! Thực ra trường được đặt tên của Hưng-Đạo
Đại-Vương là “Trần-Quốc-Tuấn” với huy hiệu là ba
cây, có ý nghĩa theo tục ngữ “Ba cây chụm lại
nên hòn núi cao” để nói lên ý
nghĩa đoàn kết trong hoạt động cũng như học tập. Nhưng về sau
người ta thường hay nói đến trường Trung-học Phước-Thành
hơn là Trường Trung-học Trần-Quốc-Tuấn. Suốt mấy năm
chúng tôi chỉ được thấy ông Hiệu-Trưởng một
đôi lần. Người trực tiếp điều hành trường thuở đó
là Ông Tổng-Giám-Thị Mã-Sấm (gốc Hiệu-Trưởng
trường Tiểu-học Tân-Ba ở xã Tân-Ba) và hai vị
Giáo-sư kiêm nhiều bộ môn là Thầy
Trần-Văn-Khánh người Nam và Tạ-Kim-Anh người Bắc. Sang
niên học sau (1960-1961) trường được 2 lớp Đệ-Thất và một
lớp Đệ-Lục. Lúc nầy có vài học sinh từ
Phú-Giáo phải xuống Tân-Uyên học vì
trường Trung-học Công-lập của tỉnh ở Tân-Uyên chứ
không là Phú-Giáo mặc dù Tỉnh lỵ
Phước-Vĩnh ở ngay Quận lỵ Phú-Giáo.
Trong năm nầy tôi nhớ có vài sự
kiện lớn mà chúng tôi đã tham dự hay chứng
kiến. Sự kiện ông Quận-Trưởng Nguyễn-Văn-Lời bị giựt mìn
tử nạn ở Cầu Đúc Hố Khởi thuộc xã
Tân-Hóa-Khánh. Thi hài đưa về trụ sở quận,
làm xôn xao, thương tiếc của người dân. Sự kiện thứ
hai là đoàn công-voa chở học sinh, nhân
viên, công chức, quân đội từ Tân-Uyên đi
theo quốc lộ 16 qua các khu vực được coi là vùng
chiến khu D (Bình-Cơ, Bình-Mỹ, Bố-Mua, Bố-Lá,
Nhà Đỏ gì đó) cho đến Phước-Hòa rồi
Phước-Vĩnh để dự lễ khánh thành Tỉnh-lỵ Phước-Vĩnh. Dọc
đường tôi mới biết có các sở cao su của ông
Nguyễn-Đình-Quát (sau nầy ông có ra ứng cử
Tổng-Thống). Sự kiện thứ ba là về khu vực Khánh-Vân
của xã Tân-Hóa-Khánh để tham dự lễ
khánh thành Khu-Trù-Mật Khánh-Vân
mà Tổng-Thống Ngô-Đình-Diệm đến dự lễ cắt băng
khánh thành. Những sự kiện ấy tôi không nhớ
theo thứ tự được vì lúc ấy còn nhỏ mà cũng
không hề để ý đến chúng, nay chỉ ghi lại các
sự kiện ấy cũng như là những kỷ niệm ôn lại của ký
ức thời nhỏ mà thôi!
Chiến sự cứ tăng dần, đêm đêm nằm nghe
đại bác từ những ụ pháo 105 của quận bắn đi, sau
có pháo lớn hơn là 155 li. Những đoàn
hành quân đến rồi đi; đi rồi lại về. Những người
lính Nùng kho thịt hay cá rất mặn, họ nói
đùa ăn như vậy chắc da chắc thịt đạn trúng không
lủng; nói thế, chứ trước khi đi hành quân họ đốt
từng bó nhang lớn trên đầu ngọn súng, khói
bay mù mịt. Qua những tháng ác liệt số người
Nùng giảm dần, đến trước 75 chỉ có vài người nổi
bật mà tôi biết có ông
Lý-Xìu-Cón hình như ra ứng cử Hội-Đồng Tỉnh
Bình-Dương hay quốc hội gì đó thì phải?
Thỉnh thoảng, bên kia sân banh Uyên-Hưng những vụ đốt
xác, hỏa thiêu của lính bốc mùi khét
lẹt, chúng tôi cũng đã quen với mùi ấy rồi!
Tôi ở trọ nhà bà Út Nghệ
được hơn hai năm, khi bắt đầu trưởng thành thì tôi
đủ sức đạp xe đạp theo bạn bè, sáng đi trưa hay chiều về
tùy theo buổi học. Trong khoảng hơn hai năm đó, khi
thì sáng thứ hai tôi đón xe đò
Bửu-Ánh hay xe đò của ông Tư Chon để lên
Tân-Uyên, rồi khi về thì cưỡi xe đạp đi về với bạn.
Vào những năm, các cầu bị đốt hay đường sá bị
đào, đắp mô thì tôi phải cưỡi xe đạp
vào trong Tân-Hội để đi với thằng Lực. Có nhiều
hôm có trăng, tôi không biết giờ giấc, sợ trễ
nên vào tới nhà thằng Lực lại rất sớm. Có
khi tôi vào ngủ ở trong nhà của Ông Năm nằm
trong khu vực công nhân của sở 49 từ hôm Chủ Nhật ,
rồi sáng hôm sau mới đi Tân-Uyên. Đường
sá lúc ấy còn có nhiều vắng vẻ. Từ chợ
Tân-Khánh qua dốc dài Hố Khởi thì có
nhiều nhà, nhưng đến đường gò Cây Trắc thì
vắng. Vào Tân-Hội, Tân Long thì nhà
cửa rải rác, rồi qua ruộng, hai cầu vũng, cầu suối cái
đến Tân-Long trong thưa thớt người. Sau đó đến những đoạn
đường rừng và cao su, qua cầu Hố Cao lên dốc khá
cao thì bên phía tay phải có sở cao su số
10, trong đó có trại cùi Bến-Sắn; bên
trái có sở 49; nối tiếp là đoạn đường rừng vắng vẻ
mà có những buổi sáng tôi phải đạp xe đạp
chạy nhanh vì những con chim “bồ chao” hót inh ỏi như để
hù cho tôi sợ. Ra đến cua (khúc quanh)
Bình-Chánh tôi mới hoàn hồn vì
đã có nhà dân. Tôi đạp tà
tà để thả theo dốc dài và vào khu
nhà Bình-Hóa để rồi ra tới ngã ba
Bình-Hóa, qua cầu Rạch Tre lên Tân-Uyên.
Nhưng trong thời chiến tranh cho nên đoạn
đường cũng không đơn giản như vậy. Các cầu bị đốt,
phá hư chúng tôi phải đi bộ qua những đà sắt
lật ngang, vai vác xe đạp một cách khéo
léo, nếu không sẽ bị rơi xuống hố, hay vũng nước.
Và khi đoạn đường bộ từ sở 49 đến cua Bình-Chánh
bị chắn bởi những cây sao cưa ngã chúng tôi
phải len lỏi đạp xe băng qua sở cao su Bác-Vật rồi ra bìa
sở 49 để đi về. Đối với tôi thuở ấy chỉ thỉnh thoảng đạp xe theo
bạn vào đầu hay cuối tuần vì thời gian ấy tôi
còn trọ ở nhà bà Út Nghệ để đi học.
Khi ở Tân-Uyên chúng tôi
có khi được Bác Sáu con Bà Út dẫn đi
theo vào sở Kẹc-Bay ở đầu trên dốc Bà Nghĩa để xem
cạo mủ và những tiến trình chế biến mủ. Tôi cũng
thử làm được đôi ba lần ở sở 49 lẫn Kẹc-Bay. Có một
buổi chiều gần cuối năm, lúc đó, cao su bắt đầu rụng
lá sở và công nhân nghỉ, Bác
Sáu lại dẫn tôi và Long đi về hướng
Tân-Hòa, Tân Tịch rồi đi vào một ngã
ba. Tôi không nhớ là đi khoảng bao xa thì đến
nhà quản lý của sở. Chúng tôi ngủ đêm
ở đó. Bác Sáu đưa tôi và Long đi dạo
quanh khu vực. Chiều dần xuống, hương rừng lành lạnh, bên
kia bờ xóm, những chiếc xe bò vẫn còn chất vật
liệu nhà cửa lên xe vì lúc ấy đang là
thời kỳ dồn nhà dân vào ấp “dồn dân lập ấp”
để mở đầu cho kế hoạch “ấp chiến lược”. Mãi sau nầy, vào
năm 1999 khi tôi theo ông anh bạn dì lên điểm
để thăm vườn cao su, nhãn của anh thì mới biết đó
là khu vực được gọi là “Thường-Lang, Đất-Cuốc”. Nơi
mà tiếng tăm của nó đã có trong lịch sử
kháng chiến của vùng chiến khu D.
Tân Uyên là nơi ghi dấu nhiều kỷ
niệm khó quên trong những năm đầu bậc trung học của
tôi. Nó cũng là nơi mang lại bao nhiêu nỗi
cảm hoài. Đó là cảm giác mát lạnh
khi tôi bì bõm tập bơi, hay đắm mình giữa
dòng nước sạch trong ở bến Ông Quận, bến Vườn Xoài,
bến Cây Dầu, bến Cây Xanh, bến Cây Sung. Tại bến
Cây Sung nầy chúng tôi đã chứng kiến
xác Thầy Khuê và vài người khác trong
lần đi công tác đã bị đơn vị thiết giáp bắn
lầm. Ở đây tôi mới biết đến cây giá tỵ,
cây bàng để cụ thể cho bài giảng văn “Nhặt
lá bàng”.
Đi học xa, nhất là trong lứa tuổi nhỏ như
tôi thuở ấy thường có những cảm xúc, chiều ngồi
phía sau vườn nhà của bà Út, nhìn ra
cánh đồng mông lung, sóng lúa nhấp
nhô, mặt trời lần xuống bên kia ngọn đồi
Bình-Hóa; những tia nắng cuối cùng vàng ửng
phóng lên không trung, và tiếng ếch
nhái cũng bắt đầu vang vọng, những ngọn đèn thấp
thoáng đó đây, lòng trở nên buồn, nhớ
nhà khôn tả. Thuở chúng tôi được học
bài Kim văn “Nhớ Cố Hương” trích từ cuốn “Mây
Ngàn” của ViTa, cái cảnh bên ngoài sao
có nét diễn tả trong bài làm sao ấy khiến
tôi cũng cảm thấy buồn và nhớ cố hương lây. Hay ngồi
ở bến Cây Sung, nhìn khói bốc trên mặt nước
của sông Đồng-Nai mà tôi lại nhớ đến mấy câu
thơ của Thôi-Hiệu đã học: “Nhật mộ hương quan hà xứ
thị, Yên ba giang thượng sử nhân sầu” mà
Tản-Đà đã dịch “Quê hương khuất bóng
hoàng hôn, Trên sông khói sông
cho buồn lòng ai”.
Ở tại trường Trung-học Tân-Uyên
có thể nói Thầy Trần-Văn-Khánh đã trang bị
cho chúng tôi rất nhiều khả năng về văn. Xuyên suốt
mấy năm chúng tôi được thường xuyên học dựa
trên căn bản: “Những Lỗi Thông Thường Trong Thuật Viết Văn”
của Nguyễn-Văn-Hầu và “Việt-Nam Văn-Học Sử-Yếu” của
Dương-Quảng-Hàm. Có lẽ nhờ đó mà mặc
dù tôi không có khiếu về văn chương, nhưng
khi có cơ hội để viết lách, tôi đã
không thấy vướng vấp hay khó khăn trong sự viết của
mình. Về các bài hát tôi còn
nhớ được bài “Hoài Thu” của Văn-Trí mà Thầy
Ân đã dạy; Thầy Nguyễn-Thanh-Tuyền dạy Pháp-Văn,
Sử-Địa với bài “Đón Xuân” của
Phạm-Đình-Chương, Alouette và giọng harmonica của Thầy.
Đến những năm sau tôi còn có Thầy Nguyễn-Văn-Thại
dạy Pháp-Văn cũng là Hiệu-Trưởng của trường. Thầy
Mai-Văn-Phú, Cô Mai-Thị-Hồng, Cô Trần-Kim-Vân,
Thầy Xuân, Thầy Lịch, Thầy Thạc, Cô Hoan và một số
Thầy dạy ở những lớp khác mà tôi không biết
tên.
Từ cuối năm Đệ-Ngũ (lớp 8 sau nầy) số bạn bè
đi học đạp xe đạp đi về khá nhiều, nên tôi
không ở trọ ở trên Tân-Uyên nữa, mà theo
tụi nó đạp xe đạp đi học mỗi ngày. Thủ-Đồng-Sứ (tên
cũ của Tân-Uyên) bây giờ không gắn bó
với tôi nhiều nữa, nhưng tôi thường đi ngang cánh
đồng lúa trĩu bông, hay mênh mông sóng
lúa của vùng Tân-Uyên mà thằng Huệ hay
nói: Nghe nói: Ngày xưa cánh đồng nầy hoang
vu có nhiều nai ra ăn, cho nên nhà văn
Tô-Văn-Tuấn mới lấy bút hiệu cánh đồng
(Bình-nguyên) nai (Lộc) thành ra
Bình-Nguyên-Lộc. Sự việc ấy chưa có cơ hội để kiểm
chứng, nhưng sự thực nhà văn Bình-Nguyên-Lộc
đã có sinh quán là Tân-Uyên.
Chiến tranh càng ngày càng
ác liệt hơn, làng xóm trong Tân-Long,
Tân-Hội phải tản cư, dồn ấp và đường sá bị đứt, lẫn
chiến trận dễ xảy ra ở các nơi đó, chúng tôi
phải chuyển đường đi học. Bây giờ chúng tôi phải đi
đường từ Tân-Khánh ra Cầu Xéo, Phước-Lộc, băng
cánh đồng qua Khánh-Vân, rồi ra ngã ba
Bình-Chánh, đi lên dốc đồi nhà cao cẳng (gọi
như vậy vì nhà có gác cao, hai tầng cất
cheo leo gần khoảng đỉnh đồi) qua Bình-Hóa mới tới cầu
Rạch Tre và tới Tân-Uyên. Đường đi xa hơn nhưng
tương đối an ninh. Chúng tôi phải vác xe qua những
cầu khỉ, hay bằng một thân cây dầu xẻ đôi, có
khi muốn thử tài cứ cưỡi xe thử xem sao, đương nhiên
là trong tư thế chuẩn bị “bị té”. Nhưng cũng may trong
chúng tôi chưa đứa nào “được té” như vậy.
Trên đường đó, chúng tôi sợ nhứt là
đoạn đường từ nhà cao cẳng cho đến ngã ba
Bình-Hóa vì đoạn đường nầy thường hay bị “giựt
mìn” và đụng độ hai bên ở đó. Nếu
không may phải lọt giữa vòng thì cũng phải
đành chịu thôi! Đi học mà cưỡi xe đạp trên
đường bờ ruộng cũng có khá nhiều khéo léo
và lanh mắt; tuy nhiên đi vào những mùa
sương mù, hay lành lạnh, hoặc vào mùa gặt
có những thích thú riêng của nó.
Riêng tôi thích nhất vào khoảng tháng
chín, tháng mười ta tức vào khoảng tháng 11
tây, tức là tháng có nhiều sương mù,
lúa ngậm sương. Cảnh người đi chợ đi làm mờ mờ trong
sương. Sương mù làm ướt mi, mặt mình nghe
lành lạnh, ươn ướt mà gió thì hây
hây. Mặt nước trong vũng gợn sóng lăn tăn. Cảm giác
thật kỳ thú, khi mình đang đẩy xe qua cầu mà chiếc
cầu dường như cũng đang trôi đi.
Tôi đi xe đạp để đi học cùng với bạn
bè suốt trong thời gian năm Đệ-Tứ (lớp 9 sau nầy). Có
những lúc chúng tôi phải đi khác đường
tùy theo tình hình an ninh và chiến sự.
Có khi phải theo lộ mới qua Khánh-Vân; có
khi phải ra Bình-Chuẩn về Nhà Thơ, ra Tân-Ba rồi
mới lên Tân-Uyên. Cuối cùng rồi thì năm
học cũng trôi qua. Mùa phượng vĩ năm ấy chúng
tôi về Biên-Hòa để thi lấy bằng Trung-học
Đệ-Nhất-Cấp, rồi với tấm bằng ấy chúng tôi lại chuyển đi
những trường khác. Người thì về trường Ngô-Quyền
(Biên-Hòa); Thạch, Lực về trường Trịnh-Hoài-Đức;
còn tôi, Son, Huệ thì về trường An-Mỹ để rồi hai
năm sau tôi và Huệ lại gặp Thạch, Lực ở trường
Trịnh-Hoài-Đức, cùng nhau kết thúc bậc Trung-học
để rồi mỗi đứa một đường, đi kiếm một cái nghề cho cuộc đời của
chính mình. Tân-Uyên đã xa dần cũng
như bạn bè hợp rồi lại tan! Cho đến giờ nầy không mấy đứa
cùng trường cùng lớp lại có dịp gặp nhau!
Riêng trường Phước-Thành bây giờ
được mang tên H.V.N,
hình như quê của ông ở Tân-Hòa hay
Tân-Tịch gì đó; ông cũng là nhà
thơ tác giả của hai câu thơ: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”
Không biết là tôi có nhớ
đúng nó hay không? Nhưng chắc chắn tác giả
chính là H-V-N .Trường mang tên của
ông ấy cũng là một điều hợp lý thôi!
Tân-Uyên quả là một thời của
ký ức và kỷ niệm trong tôi! Mà kỷ niệm thời
thơ ấu cũng thật khó mà phai, có phải vậy
không cùng các vị?
Mẹ VN ơi ! Chúng con đã có một lực lượng trẻ đầy tinh nhuệ, đầy mưu trí và khôn ngoan , họ biết cách để đoàn kết thành một lực lượng lớn mạnh, biết dùng chiến thuật hữu hiệu đấu tranh chống lại giặc trong thù ngoài
Buồn bả nghẹn ngào nhưng tui không khóc, chỉ từ chối không ăn cơm thịt gà hôm đó. Mặc cho chị Gấm chọc ghẹo tới cở nào tui chỉ ăn cơm với xì dầu. Nhìn cái đùi gà nằm trên dĩa với những lằn dao chặt ngọt qua lớp da vàng óng đầy mở tui thù chị Gấm chi lạ.
Ra đường nhìn gái còn khen là đầu óc còn sáng suốt.(khi nào nhìn đàn ông thành đàn bà thì tôi mới run). Sự sống trên trái đất này sẽ không tồn tại nếu không có những người như chồng tôi và bạn bè của anh.
Gió mưa sấm sét đùng đùng, Dãi thây trăm họ nên công một người. Khi thất thế tên rơi đạn lạc, Bãi sa trường thịt nát máu rơi,Trời sẽ tối, tiếc thương rồi sẽ hết. Mong các anh yên nghỉ, siêu thoát và xin hãy tha lỗi cho sự chậm trễ của chúng tôi, những người còn sống!
Má tui tuổi con chó, năm nay chắc cỡ 77 hay 78 gì đó, tui hỏng nhớ rõ. Người ta thường hay bảo người già hay thay đổi tính tình nhưng má tui thì có khác chi đâu? Bả vẫn thế! Như xưa. Vẫn hà tiện và tính toán chi li từ đồng bạc nhỏ
- Cu Lửa biết không ! Thỉnh thoảng tao nhớ đến mày ! ......Lúc nào vậy chị? Tui xin báo cho chị một tin mừng là lời nguyền ngày đó của chị rất là linh thiêng, tui đã...đã Xèo!
Phải về hỏi thằng Định thôi, hình như bây giờ nó đang nối nghiệp ông già ngồi may cái gì ở đó với con vợ to như cái mền. Chắc là của ai đặt rồi không đến lấy nên nó phải lấy? Định ơi, sao mày không kêu ông thầy cúng?
Em ra nấu cơm đi trong lúc anh tắm rửa thay quần áo. Hôm qua món cà pháo om với bì lợn, với đậu phụ rắc tía tô, anh thích lắm, ăn được mấy bát cơm. Hôm nay em làm món cá rán và món nộm rau muống trộn với thịt ba chỉ, tôm, khế, rau răm và vừng em nhé. Việc gì đi ăn nhà hàng cho tốn tiền và làm sao có món Bắc Kỳ ngon như của em cơ chứ
Thì ra Jack cứ ngỡ Wendy là một cô gái câm thế mà anh vẫn sinh lòng quyến luyến mà còn muốn tiếp tục đi đến hôn nhân. Wendy cũng tự hào có quyết định sáng suốt vì đã chọn được người tình trong mộng tuyệt vời nhất thế gian.
Khổ cho các nhà thơ, các chàng nhạc sĩ dù có nhoi nhói thất tình, cũng chẳng còn tìm đâu ra tà áo cưới để than để thở, vả lại các cô dâu bây giờ biết rõ họ đi đến đâu và sẽ làm gì, chẳng ai cần bánh quế - bánh cốm – bánh phu thê (xu xê)...
Biết nói chi đây, tui chỉ là thằng nhóc con ngày đó, mà bây giờ thì Mỹ, Cộng hài hoà xúng xính trong cái áo dài cổ truyền phong kiến có in chữ THỌ cùng nhau đi lễ chùa Hương hôi rình, còn thằng tui thì âm thầm nhang đèn cúng vái cho nhỏ Mai với anh Ba Khả trong lòng. ..
Đó cũng là lần cuối cùng tui gặp con Mai. Nghe nói ông Ba Râu bị bắt đánh xe bò vô rừng chở cái gì cho ai đó một tối rồi không bao giờ trở lại. Mai ơi ! cho tao xin lỗi mày, bây giờ mày ở nơi đâu? Mấy con dế mày cho đã chết từ lâu nhưng hình như tao vẫn còn nghe tiếng gáy đâu đây.
Ngày mai,28/7/2011,ngày tưởng niệm lần thứ 38 năm đơn vị tôi bị phục đánh.Xin vọng tưởng đến anh linh cố thiếu tá Thạch ngọc Nhường,đơn vị trưởng của tôi,và các đồng đội đã anh dũng hy sinh.Nếu cùng chung số phận,ngày nầy 28/7/2011,là lần giỗ thứ 38 của tôi rồi. Kỷ niệm đau buồn mãi mãi không bao giờ quên.Xin thân chuyển đến quý vị bài bút ký nầy.
Tui đã có về thăm lại chốn xưa trường cũ đó một lần, ông thầy Chín đã mất từ lâu, cái trường cũ của tui giờ là một căn phố cao như cái hộp quẹt dựng đứng trông quê không chịu nổi, nhưng cái sân gạch tàu đỏ vẫn còn đó.
Chẳng còn dấu vết gì của chiến tranh để lại.Còn chăng là những địa danh:Bình long,An lộc,Tân khai,Suối Tàu ô,Xa cát,Xa cam,Xa trạch,Đồi Gió...trong lòng mỗi con người chúng ta,còn sống sót sau chiến tranh.Xin chiến tranh hãy ngủ yên trong tâm tư con cháu thế hệ mai sau của chúng ta.
Anh thong thả uống hụm sinh tố và dõi mắt sang hàng cơm tấm bên cạnh. Đang tầm sáng, giờ cao điểm đông khách, anh chẳng thấy Ngọc Diệp đâu, chỉ thấy một bà to mập đang ngồi giữa nồi cơm to tướng không kém gì bà ta, và một cái bàn thấp trên bày la liệt những món ăn, những hũ đồ chua và hũ nước mắm, mấy ống đựng thìa, đựng nỉa
Sống chung với một ông bố chồng già yếu, bướng bỉnh là chuyện không dễ. Ông hay than phiền, hỏi những câu không đúng lúc và từ chối các món ăn cần thiết. Ông hãnh diện về thời trai trẻ, cứ kể đi kể lại các câu chuyện của thời vàng son. Hồi đó, là chỉ huy trong quân đội...ông luôn đặt lý trí lên trên tình cảm
Tôi không thích khoe khoang về ông “Bố” của nhà đâu, vì chả lẽ lại “mèo khen mèo dài đuôi”, những điều tầm thường trong cuộc sống gia đình chắc nhà nào cũng giống nhau. Ngày lễ Cha ai cũng nhắc đến công ơn sinh thành dưỡng dục của Bố,
Đã bốn mươi lăm năm trôi qua, tiếng gọi thân thương “Bố ơi!” đã vĩnh viễn lìa xa chị em tôi khi tôi vừa qua mười sáu tuổi. Mãi đến bây giờ mỗi lần nhớ về Người lòng tôi vẫn luôn mang tâm trạng bồi hồi thương kính.
Ông may mắn nhiều lần thoát chết và cuối cùng đến được bến bờ tự do qua con đường vượt biên bằng đường biển. Ông định cư tại Hoa Kỳ cùng với gia đình. Hồi ký “ Cuộc đời đổi thay” được tác giả ghi lại hành trình của một đời người thăng trầm suốt hơn 50 năm theo vận nước .
Tôi bốc ra những sợi tóc bạc ngày xưa của má để lên bàn tay. Tôi đưa bàn tay với nhúm tóc lên mủi. Tôi nhấm nghiền đôi mắt. Mùi hương thoảng nhẹ mơ hồ trong ảo giác. Tôi khóc òa lên như một đứa trẻ trong căn nhà cũ quạnh vắng buồn hiu!
Ngày hôm nay viết những dòng này tôi muốn nói với các bạn rằng trong bao chia ly cuộc đời có gì hạnh phúc hơn những hạnh ngộ bằng hữu. Làm bạn với anh Tô hòa Dương ngày nọ là một trong những hạnh ngộ bằng hữu ấy
Tôi ở đội kỹ luật một năm rưởi được đưa ra đội nông nghiệp và được thả về nhà, tôi dùng chữ thả rất đúng nghĩa của nó, chúng ta không thể ngộ nhận chữ thả và chữ tha được vì chúng ta có tội với ai đâu mà được tha
em là một người mẹ chồng tuyệt vời chưa đủ, mà là một phụ nữ miền Nam tuyệt với nữa đấy, vì lúc nào cũng nhân hậu, hào phóng, dễ tính và dễ thương vô cùng.
Cám ơn mẹ đã cho ba con, đã cho con một ngọn lửa tình yêu không bao giờ tắt, một dòng đại dương tình yêu không bao giờ khô cằn, một bầu trời tình yêu luôn chói lòa rực sáng, ngát hương ...
Tôi sinh ra ở miền Bắc VN sống và trưởng thành tại Sài Gòn. 1970 gia đình rời về Biên Hòa là lúc tôi lên đường nhập ngũ làm tròn bổn phận người trai thời binh lửa.sau 1975 khi đất nước rơi vào tay CS tất cả những hoài bão tương lai của tôi biến theo thời gian
Độ 7 giờ, tiếng xích của chiếc PT76 nghiến mặt đường từ từ tiến lên từ hướng chợ, khi đến gần cổng của BCH/CSQG/Quận Long-Thành dừng lại vì lựu đạn và M79 bắn xối xả của anh em phòng thủ, tôi đang ở trong bunker, nằm ngay góc Chi-khu và văn phòng ban ANQĐ/Quận, xuyên qua lỗ châu mai nhìn thấy những bóng đen lốp ngốp phía trên mui xe
Chất xám đã chảy rakhỏi nước rất nhiều từ cuộc di tản vĩ đại của tháng 4 năm 75, chất xám bị thui chột trong các "trại cải tạo", rồi tiếp tục rò rỉ theo những chiếc ghe vượt biên nhỏ nhoi, đầy tội nghiệp. Chưa dừng ở đó, chất xám Việt Nam tiếp tục thất thoát cho tới bây giờ,
Vâng, tôi sẽ im lặng cho đến chết, để xa chàng mà vẫn mang theo đời mình trọn vẹn hình ảnh người yêu đầu đời năm xưa, để con tôi vẫn giữ nguyên trong lòng sự ngưỡng mộ suốt đời nó, khi luôn luôn nghĩ rằng có một người cha đã anh dũng hy sinh vì Tổ Quốc.
Không biết mọi người ra sao, riêng tôi càng lớn tuổi càng thích lục lọi tìm những tấm ảnh cũ, mà mỗi tấm ảnh dù đẹp hay xấu, đã ố vàng với thời gian đều chất chứa ít nhiều kỷ niệm và nơi chốn.
Hôm nay, ngồi đọc và viết bài “Hương Vị Ngày Xưa”, món ăn hai miền của quê Mẹ mà lòng tôi bùi ngùi không tả. Đã mấy chục năm rồi, nơi đất nước phồn hoa này, đầy đủ các món ngon vật lạ.
Vì vậy, sáng nay khi bà Tâm gọi sang để nhắc Duyên lát trưa qua chở bà đi chợ Việt Nam mua thức ăn, tiện thể xin quyển lịch “Tam Tông Miếu” (loại lịch bóc từng tờ) để bà coi ngày giờ, kiêng cữ cho cả năm, Duyên đã cười vang trong phone và nói với mẹ rằng: ”Má ơi, cái duyên “Tam Hạp”
Mùng Hai Tết năm đó, cô Hai Lựa dẫn thằng Cu Tí về quê ăn Tết. Bất ngờ hay tin ông Cả Mẹo vừa mới qua đời. Tin như sét đánh ngang mày, mẹ con cô vội vàng chạy u về nhà ông Cả. Vừa bước chân vào nhà thì nắp quan tài cũng vừa đóng đinh khóa chặt lại
Tôi sinh ra và lớn lên ở vùng đất mà các nhà địa lý Tàu cho là có long mạch, mà long huyệt nằm ngay tại cái dốc cao vút ngay tại núi Châu Thới, vì vậy nhà triệu phú người Tàu tên Hỏa chôn nơi đây, cái tên dốc chú Hỏa có từ lúc đó
tôi rất vinh dự đã từng là cựu học sinh trường Tiểu Học NGUYỄN DU, Biên Hòa, có truyền thống tốt đẹp lâu đời và là một trong những ngôi trường đầu tiên của quê hương chúng ta, có lịch sử gắn bó với trường Trung Học NGÔ QUYỀN.
Bao nhiêu năm trôi qua, không còn được ăn Tết Việt Nam đúng nghĩa, mỗi độ Tết Nguyên đán , tôi vẫn ăn Tết bằng ký ức. Trong một khoảnh khắc sống bằng trí tưởng, ngày Tết vẫn còn nguyên vị ngọt ngào của bánh mứt, vẻ êm đềm của thời thơ dại.
Búp ơi! Em biết không chỉ cần ba mươi giây thôi vị Nguyên thủ Quốc gia tuyên bố đầu hàng đã làm thay đổi vận mệnh của một đất nước, chôn vùi cả một dân tộc trong đau thương tủi nhục, huống hồ chi từ đây cho đến giờ xổ số, em còn cả bốn năm tiếng đồng hồ thì sự hy vọng thay đổi cuộc đời em đâu phải là không thể xảy ra phải không Búp?!
Anh cố tìm giấc ngủ, mấy đêm trước anh còn đi vào giấc ngủ với bao nhiêu là hình ảnh vui tươi, tuyệt vời của ngày Tết Việt Nam. Vậy mà đêm nay những hình ảnh đẹp đẽ ấy biến đi đâu hết? Anh mong sao sáng mai thức dậy, đọc báo thấy tin chính quyền Việt Nam vừa… ra lệnh cấm không cho Việt Kiều về quê ăn Tết nữa. Chắc lòng anh sẽ…vui như Tết. Khỏi phải đi đâu cả.
Tôi đã xa Tổ Quốc nhiều năm. Thời gian không dài nhưng cũng đủ để nhớ, quên nhưng không thể xóa mùi hương có được từ những năm tháng cũ. Làm sao quên được mùi sữa Mẹ tinh khôi những ngày chưa lớn, mùi bùn trong đầm sen cuối làng thân thiết, mùi hương hoa cỏ lẫn trong sương sớm vào mùa Hạ ấm nồng
"Cô ấy đã cho tôi sự sống, cho mẹ tôi sự ấm áp, cho tôi một mái nhà, bây giờ, tôi dành cuối đời tôi để chăm sóc cô ấy" Anh dắt tay chị đi, như ngày đó chị dắt tay đứa bé năm tuổi, họ cùng mỉm cười toại nguyện, một mối tình đẹp như những áng mây chiều êm ả trôi lờ lững ở cuối lưng trời…
Sau một đêm khó ngủ, tôi nghĩ đến lời hứa con cuả tử sĩ Huỳnh Tự Trọng,sẽ kể về câu chuyện có thật này. Một bí ẩn cuả Tâm Linh, đối với tôi thật vô cùng khó giải thích. Trân trọng mời quý vị cùng xem. Và gọi là chút tình với hương linh người tử sĩ.
Khi gió muà Đông Bắc phả hơi giá lạnh lùng vào mảnh vườn hiu hắt, đầu tháng Mười Hai của mỗi năm, là tôi lại chạnh nhớ đến những mùa Giáng Sinh ngày thơ ấu. Lạ một điều là trong đáy lòng tôi bỗng ấm lại,
Một câu chuyện gần gũi với đời sống hiện tại, dù biết phải “ an cư mới lạc nghiệp”, nhưng vẫn phải “liệu cơm gắp mắm” mới khỏi cảnh dở khóc dở cười khi mua một cái nhà vượt quá tầm tay.
Tôi không có đập đìa gì hết. Tôi chỉ là một người trở về từ trại tù cải tạo với tài sản duy nhất và quý giá nhất là một cô vợ chung thủy và ba đứa con ngoan. Tôi gốc gác Biên Hòa, ngày xưa làm việc ở chi khu Long Toàn này, bị một cô nữ sinh tên là Bé Năm, nhà ở gần đó, trói cổ nên đã nhận nơi nầy làm quê hương!
Cái nhớ của tôi lập lại nhiều lần vào những thời điểm khác nhau. Nhớ Biên Hòa là điều có thật, hay nói cách khác là không giả dối chút nào.Không biết đêm nay tôi còn thao thức và trăn trở với nỗi nhớ Biên Hòa hay không?
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.