VIẾT ĐỂ NHỚ VỀ BÁC TƯ LƯƠNG VĂN LỰU
Khi còn nhỏ tôi đã biết Bác Tư, có người gọi Bác Tư là Thầy Tư Lựu. Bác sống tai Cây Chàm, nhà lợp bằng ngói âm dương nằm sát với lề đường Nguyễn hữu Cảnh thời ấy. Bởi vậy buổi sáng, trước nhà Bác nhiều người bán hàng rong nào là cháo cá, xôi, đủ thứ món nào cũng có. Hồi còn đi học truờng Nguyễn Du sáng nào tôi cũng ăn cháo trước nhà Bác. Có lần đi học, tôi đi vào ngả ba Thành Kèn thì mới biết Bác Tư làm việc cho sở Công Chánh Biên Hòa.
Là một người rất nổi tiếng, ai ở Biên Hòa mà không biết. Bác có công biên soạn cuốn Biên Hòa Sử Lược, rất quí, rất hữu ích để lại cho đời sau tham khảo về Quê Hương xứ Bưởi của mình. Tôi biết Bác, thấy Bác, nhưng chưa một lần được may mắn diện kiến hay nói chuyện cùng Bác.
Tôi thấy Bác nhiều lần ở những cuộc đình đám trong thôn ấp, trong xả, nhất là ngày hội cúng đình ở ấp Bình Thiền thuộc xả Tân Thành. Nhà tôi ở ấp Bửu An còn gọi là xóm trên rất gần với ấp Bình Thiền, dân quê tôi quen gọi là xóm dưới. Đình quay mặt về thành phố cách Biên Hòa hơn một cây số. Bên hong có cả trăm cây dầu to và cao lớn đến trời xanh, Ba tôi nói hồi Nhật đầu hàng đồng minh, Sĩ Quan Nhật treo cổ tự tử rất nhiều tại lùm dầu nầy. Hằng năm, Đình nầy vào rằm tháng giêng tổ chức cúng thật là lớn, tôi rất thích vào trong đình xem học trò lễ và nhìn người ta chưng bày Long Lân Qui Phụng được làm bằng hoa và trái cây trông rất đẹp ở trên bàn thờ cúng các vị thần, ngoài ra người dân ở các thôn ấp bao quanh cũng lũ lượt kéo về đây để chờ xem hát bội, tạo nên cảnh ồn aò náo nhiệt vô cùng.
Trong những dịp ấy tôi lại thấy Bác Tư, Bác cao và ốm, nước da trắng, trong các Lễ hội Bác thường mặc áo dài gấm xanh đội khăn đóng cũng màu xanh. Có lần tôi đứng nghe Bác đọc Văn Tế trước chính điện của đình.
Mãi đến sau nầy, khi tôi lớn lên và cưới vợ thì mới được cái hân hạnh nói chuyện và tâm sự cùng Bác, vì vợ tôi là người bạn học Ngô Quyền với Hương con gái Út của Bác Tư và cũng là người thường phụ giúp Bác, mỗi lần viết tay xong một đoạn trong Biên Hòa Sử Lược là Bác giao cho vợ tôi đánh máy, khi xong thì giao cho Bác, Bác thường đọc để kiễm lại rồi mới đóng thành tập.
Bác soạn thảo và làm việc trên căn gác, phía dưới là quán cơm Bình Dân của gia đình, thời đó quán cơm rất đông khách.
Sau thời gian
cải tạo trở về, gia
đình tôi trở nên
thân quen với Bác
Tư nhiều hơn,
chính thời gian
nầy đã để lại trong tôi những kỹ niệm với Bác
Tư khó mà phai nhạt được.
Năm 1981,
Nhân ngày đi cúng lệ ở miểu Bà tại ấp Bửu An, khi về nhà
Bác Tư viết liền một bài
thi và đối:
" Cao lương ngon miệng - Mỹ vị thơm mùi
-Bánh pháo chậu hoa - Ai vui xuân trưỡng giả.
Khói thuốc nguyện tình - Hương trà đượm nghĩa
- Câu thơ liển đối - Tôi
mừng Tết văn chương ."
Hai câu đối nầy Bác nói là thích nhứt, vì thế năm sau, cũng dịp đi cúng lệ rằm tháng tám Bác mang theo và tặng gia đình tôi câu đối nầy. Tấm chân tình của Bác đã làm tôi cãm động biết là bao, khi một Nhân sĩ đến thăm nhà tôi thật là một điều vinh hạnh lớn lao và nhất là tôi hiện ở trong hoàn cảnh của một người cải tạo mới về
Vài tháng sau tôi lại được thư Bác gửi trong đó có đoạn như:” Nghĩ đến Bửu An, là Bác trực nhớ đến hai vợ chồng cháu mà Ông Bà bên Nội cũng như bên Ngoại đều là chổ quen biết của Bác...Trên miền của một thôn ấp nghèo, thưa dân, tĩnh mịch, không ồn ào đua chen danh lợi, mà chính Bác cũng muốn sống hồn nhỉên với hoàn cảnh yên vui, thanh thản như vậy. "
Đó là lá thư, chất chứa không
biết bao nhiêu tình cãm mà Bác đã dành cho gia đình
tôi thật nhiều ưu ái và
mến thương.
Lúc nầy, mỗi chiều đi lấy bình sạc để đi soi cá đêm tôi thường ghé thăm Bác, hai Bác cháu trò chuyện một hồi mới ra về. Có lần Bác lấy ra một sấp bản thảo đưa cho tôi coi, tôi không ngờ ngoài việc làm thơ, viết văn, Bác còn viết bài ca sáu câu vọng cổ nữa. Bác bảo tôi chọn một bài và hát cho Bác nghe, từ chối sợ Bác buồn nên tôi hát câu số bốn trong bài " QUÊ HƯƠNG ĐỒNG NAI "vì câu số bốn của một bài vọng cổ thường rất dễ ca, khi tôi hát xong Bác nói " cháu hát nghe cũng được không tệ như cháu nói đâu ". Rất tiếc tôi không có lưu giử bài Vọng cổ nầy. Đó là một ít kỹ niệm trong đời tôi với Bác .
Mùa xuân lại đến, Bác ngồi ở nhà, nhớ gia đình tôi ngẩu hứng làm
một bài thơ Mừng Xuân
Giáp Tý như sau:
Trẻ già hai tuổi lòng như một.
Tết đến, trao nhau lời chúc mừng
Tổ ấm yên vui, gia thế thanh
Cây vườn tươi tốt hoa viên hứng
Thơ ngâm gió lướt, tìm cao rộng.
Máy xẻ, cây cưa, sống mịt mùng
Năm mới, tuổi chồng, ngày cũ nhớ
Bao nhiêu kỷ niệm lúc thanh xuân
Trong bài thơ trên câu: “Máy xẻ, cây cưa , sống mịt mùng” có nghĩa là bác muốn nói đến tôi, vì lú đó tôi là công nhân làm hợp đồng bốc xếp tại xí nghiệp gổ An Bình. Bác làm bài thơ trên vào ngày mùng một Tết năm Giáp Tý 1984. Chiều mùng ba, bác từ Cây Chàm lội bộ qua Sở Cải, bước trên con đường mòn dẫn tới ấp Bình Thiền, rồi leo lên Dốc Mới nơi tôi ở. Như vậy từ nhà bác đến nhà tôi hơn hai cây số, vậy mà bác vẫn đi dù đường xa, rất khó đi, có đoạn phải đi trên bơ ruộng dưới ánh nắng chiều Xuân, cũng không làm bác chùng bước, dù trên trán lấm tấm những giọt mồ hôi hòa lẫn với những ân tình để trao cho tôi bài thơ dày dạt dào yêu thương bằng trái tim và tâm hồn, cùng tờ giấy do bác chép lại Chương trình ca Vọng cổ, lời do bác biên soạn, nữ ca sĩ Hà Cẩm Thu hát được thu băng phát thanh qua đài Đồng Nai, bác đưa cho tôi và bảo: “ Nhớ đợi lúc tâm hồn lắng đọng bình thản vào buổi xế trưa hay giờ khuya thanh vắng, sẽ đọc chậm rải suy nghiệm thì mới thấy được ý thơ chơn thành của bác và hồn thơ ngời sáng, đượm tình cảm quê hương, nhất là đối với vợ chồng cháu và những tâm hồn còn bám chặt mảnh đất Bửu An…
Đó là lời bác trong lá thư, hiện nay tôi vẫn còn cất giữ coi như một kỷ niệm quý giá mà bác đã dành cho tôi.
Bác đi vào đây, vào căn nhà lá của tôi. Bác mang theo cả tấm lòng trìu mến, chỉ bảo cùng yêu thương tràn ngập và cuối cùng bác bỏ lại cho tôi biết bao nhiêu là xúc động, biết bao nhiêu là thương tiếc và nước mắt khi bác đã vĩnh viễn ra đi sau một cơn bệnh ngặt nghèo.
Một nhân sĩ, một tài hoa của đất Đồng Nai mất đi, nhưng tên tuổi của Bác vẫn rạng ngời trong tâm khảm của người Biên Hòa…
Đời Đời Thương Nhớ Bác Tư
Nguyễn Cẫm Giang
2013
.