Qua Dấu Bụi Thời Gian Thơ Trần Kiêu Bạc
Tôi về lại Sàigòn sau 17 năm lưu lạc kể từ ngày rời ngôi trường Quốc Gia Hành Chánh thân yêu của mình, được găp lại một số bạn bè cùng khóa giờ hầu hết đều lận đận, khó khăn, trong đó anh có lẽ đỡ hơn một chút: anh đang làm việc tại một văn phòng dạy lái xe ở con đường sau lưng Đại học xá Minh Mạng. Anh vẫn thế, vẫn nụ cười rộng mở, vẫn tính cách
hiền hòa, nhiệt tình, lịch thiệp. Gặp nhau, rũ nhau đi uống ly cà phê, hút vài điếu thuốc, tôi không hề nghe anh nói gì về văn thơ, nào ngờ, anh đã làm thơ từ rất lâu, thời trung học đã xin bà nội hai chỉ vàng để in tập thơ riêng của mình, và hôm nay “xin vợ” một cây hai để in tập thơ
“Qua dấu bụi thời gian” nầy.
Tập thơ có 245 bài, mở đầu là bài “Mùi Mẹ hương tết”
và bài cuối cùng là “Tiễn bạn Trần đình Mười”. Như anh viết ở phần vài dòng tâm sự “Những bài thơ, tứ thơ và lời thơ đều đơn giản, dung dị và không gai góc” và giản dị, bình
thường nhưng không tầm thường. Đúng thơ anh là như vậy, nhưng phải nói thêm có rất nhiều bài thơ trong thi tập mượt mà, sâu lắng, làm xao động lòng người như những bài ca dao của quê hương chúng ta. Trong 245 bài này, gần 40 chục bài thơ đầu tiên là “ Thơ trong máu thịt” anh viết cho những người thân yêu của mình, nhưng bao trùm lên tất cả là về Mẹ. Phần sau với hơn 200 trăm bài, anh viết đủ loại từ tình yêu, tình quê hương, những kỷ niệm về những vùng đất anh đã đi qua, đã sinh sống, làm việc, cuộc sống nơi xứ người, những lần gặp gỡ vv…, chỉ thiếu vắng những chủ đề chính trị.
Tôi chỉ là người đọc thơ, yêu thơ vừa phải, nên trong những đề tài mênh
mông anh viết, tôi chỉ chọn hai loại để ghi lại những cảm giác của mình: một là những bài thơ viết về Mẹ của anh và hai là những bài thơ anh viết liên quan đến những người bạn chung của chúng tôi.
Viết về Mẹ, là đề tài phổ biến nhất chỉ sau tình yêu đôi lứa, vì tiếng Mẹ, nhất là khi Mẹ đã qua đời, là tiếng kêu thống thiết nhất của con người, như lời thơ Trần Trung Đạo “ Đổi cả thiên thu tiếng Mẹ cười”. Còn
với Trần Kiêu
Bạc, hai mươi tám bài thơ đầu của thi tập anh dành cho Mẹ, chúng ta thử
đọc một số trích đoạn:
Con bên này nhớ Mẹ bên kia
Như xa lộ thẳng đường không sao khác
Chiều nay nhớ nhà xe chở đầy hương Tết
Con chở theo mình mùi Mẹ đầu năm.
Như xa lộ thẳng đường không sao khác
Chiều nay nhớ nhà xe chở đầy hương Tết
Con chở theo mình mùi Mẹ đầu năm.
“ Mùi Mẹ hương Tết”, page 1
Thượng tuần tháng Giêng trăng dẫn Mẹ ra đi
Đóa hồng đỏ trên ngực con hóa thành hoa trắng
Vu lan nầy trăng về trong mưa xám
Trăng trở lại mình, hoa vẫn trắng màu tang
Đóa hồng đỏ trên ngực con hóa thành hoa trắng
Vu lan nầy trăng về trong mưa xám
Trăng trở lại mình, hoa vẫn trắng màu tang
“Mùa trăng Vu lan”, page 3
Con quỳ đây lạy Mẹ đến vô cùng
Trong hương khói tìm đâu hình bóng Mẹ
Nửa đoạn đời sau trong miền dâu bể
Vẫn mang nặng hoài hai chữ mồ côi
Trong hương khói tìm đâu hình bóng Mẹ
Nửa đoạn đời sau trong miền dâu bể
Vẫn mang nặng hoài hai chữ mồ côi
“ Bài thơ dâng Mẹ”, page 4
Nhang vẽ những vòng tròn
Từng số không nối tiếp
Ngàn số không tội nghiệp
Vương vấn bước Mẹ đi
Từng số không nối tiếp
Ngàn số không tội nghiệp
Vương vấn bước Mẹ đi
Có ngày nào Mẹ về
Qua vòng tròn khói trắng
Những số không im lặng
Tỏa ngát mùi hương quen
Qua vòng tròn khói trắng
Những số không im lặng
Tỏa ngát mùi hương quen
“ Trong hư ảo khói nhang”, page 6
Hay chúng ta đọc bài “Hát ru cho Mẹ” ở trang 10, đây là bài thơ lục bát
mượt mà, êm như lời ru ca dao: “Mẹ ru con suốt đêm trường, Giờ con ru Mẹ qua hương khói mờ.” Dòng lục bát nầy trãi dài trong những bài thơ tiếp theo nghe
thê thiết làm sao.
Đặc biệt với bài thơ “ Nhà không còn Mẹ” ở trang 14, mở đầu với bốn câu:
Cảm ơn người đã ghé thăm Mẹ tôi
Tiếc đã trễ rồi, Mẹ tôi vừa mất
Trễ một chút thôi mà vườn cau thôi xanh ngát
Lá trầu trải vàng một sắc nhớ Mẹ xưa
Tiếc đã trễ rồi, Mẹ tôi vừa mất
Trễ một chút thôi mà vườn cau thôi xanh ngát
Lá trầu trải vàng một sắc nhớ Mẹ xưa
Ngày đó, khi hay
tin Mẹ của bạn tôi mất, bạn TBS và tôi chở nhau từ Saigon lên Tây Ninh viếng tang trễ, miền quê bạn cũng giống như quê tôi: cũng nghèo, cũng lầm than dù hai miền đất nước này rất khác nhau. Chúng tôi được gặp anh chị Tư, được khấu đầu lễ Bác, với di ảnh như tấm hình được in trong tập thơ nầy.
Những bài thơ nào của anh về Mẹ cũng thật hay, thể hiện nổi lòng của đứa con ở cách xa Mẹ ngàn trùng với những nuối tiếc, xót thương, trăn trở. Nhưng sự xót xa, nuối tiếc nào đối với cha mẹ mình giờ cũng đều muộn màng, vì các Người đã ra đi, đi mãi không bao giờ về
nữa.
* * *
Anh viết nhiều về bạn bè, trong đó có hai bài thơ rất gần gủi với tôi, đó là bài Những chiếc ghế còn bỏ trống và bài thơ Tiễn bạn Trần đình Mười.
Khoảng năm 2009, từ Sacramento, miền bắc California, nơi anh ở, anh về thăm Orange County, anh chị LPB, TTN có làm một bữa tiệc tại tư gia, mời
bạn bè
cùng khóa đến gặp anh. Chủ nhân đã mời khoảng hai mươi người, nhưng chỉ
có tám người hiện diện, dù không được đông đảo nhưng chúng tôi rất vui vì đây là sự hội ngộ của những người bạn thân. Còn việc bạn bè vắng mặt cũng là chuyện thường tình trong cuộc sống bận rộn bên này, nên chúng tôi không để ý tới những chiếc ghế trơ trọi không có người ngồi trong buổi tiệc này. Nhưng với một tâm hồn rất nhạy cảm, nhà thơ rất ngậm ngùi
khi thấy những chiếc ghế bỏ trống này. Tối hôm sau, khi về lại nhà, anh
đã post bài thơ đặc biệt nầy cho chúng tôi. Qua việc nầy, anh LPB khen anh là xuất khẩu thành thơ, giống như Tào Thực thời Tam Quốc bên Tàu. Nhà văn Nguyễn xuân Hoàng và Nguyên Hạ có bài nhận định và cảm tác về bài thơ nầy được
đăng ở phần phụ lục từ trang 247. Tôi xin trích vài đoạn trong bài thơ “Những chiếc ghế còn bỏ trống”:
Bạn của năm xưa không về được
Bạn của ngày nay cũng vắng rồi
Những chiếc ghế con còn bỏ trống
Xích lại gần nhau cũng lạnh thôi
Bạn của ngày nay cũng vắng rồi
Những chiếc ghế con còn bỏ trống
Xích lại gần nhau cũng lạnh thôi
Ly rượu mừng nhau vơi phân nữa
Chìm tận đáy ly những khóc cười
Thủy tinh trong suốt qua tầm mắt
Rượu một dòng lại chảy nhiều nơi
Chìm tận đáy ly những khóc cười
Thủy tinh trong suốt qua tầm mắt
Rượu một dòng lại chảy nhiều nơi
………………..
Tôi viết bài thơ buồn độc vận
Như một mình giữa bóng trăng soi
Tôi nhặt miếng trăng rơi xuống cỏ
Kết nên tình bạn sáng muôn đời
Như một mình giữa bóng trăng soi
Tôi nhặt miếng trăng rơi xuống cỏ
Kết nên tình bạn sáng muôn đời
Bài thơ “Tiễn bạn Trần Đình Mười” là tiếng khóc của bạn bè khóa Đốc Sự 17, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh khi bạn Trần Đình Mười ra đi. Tôi xin chép đầy đủ bài thơ nầy, cũng là để tưởng niệm
người bạn thân thiết của mình sau một năm bạn về miền miên viễn:
Như chim lạc đàn, bạn vội bay đi
Để lòng tháng Giêng buồn hơn tháng Chạp
Trời đã xuân sao tay đầy gió bấc
Trăng vừa rằm lại khuyết mất một bên
Để lòng tháng Giêng buồn hơn tháng Chạp
Trời đã xuân sao tay đầy gió bấc
Trăng vừa rằm lại khuyết mất một bên
Sẽ không còn giọng ngâm ngọt thân quen
Tiếng vọng Hồ Trường bay qua lòng đất
Đem nụ cười xinh thay bằng nước mắt
Những mộng ước tròn bỗng hoá hư không
Tiếng vọng Hồ Trường bay qua lòng đất
Đem nụ cười xinh thay bằng nước mắt
Những mộng ước tròn bỗng hoá hư không
Thềm nhà xưa không còn những dấu chân
Mâm cơm ngày sẽ bớt đi đôi đũa
Vợ thức trông chồng chờ nghe gõ cửa
Chỉ thấy đêm dài chìm đáy vực sâu
Mâm cơm ngày sẽ bớt đi đôi đũa
Vợ thức trông chồng chờ nghe gõ cửa
Chỉ thấy đêm dài chìm đáy vực sâu
Tiễn bạn một lời, bè bạn xót đau
Mây ngũ sắc xin về đây hội tụ
Mang bạn đi cho gặm hoài nỗi nhớ
Xa bạn một đời, xa mãi từ đây
Mây ngũ sắc xin về đây hội tụ
Mang bạn đi cho gặm hoài nỗi nhớ
Xa bạn một đời, xa mãi từ đây
Bạn đi trước tôi, xin nhận một lạy này…
Tôi thường thầm thì khấn câu cuối của bài thơ nầy khi đến viếng mộ bạn Trần đình Mười và những người bạn khác khi họ từ giã cỏi đời nầy.
Ở hải ngoại nầy, cho ra đời một cuốn sách, một tập thơ thường đi kèm
với sự trăn trở, không phải do khó khăn về vật chất mà là do sự đón tiếp: lặng ngắt, không nghe thấy gì cả, kể cả một lời chê cũng không có.
Nhưng đối với nhà thơ của chúng ta: “Thơ đến với tôi tự nhiên như không
khí, như hơi thở, như nắng, như mưa…” nên làm gì có sự toan tính ở đây,
nhất là khi anh có người bạn đời, chị Nguyễn thị Mỹ Châu, mà đọc lời bạt ở cuối sách ta mới thấy hết được tấm lòng yêu thương, tin cậy chồng mình với những lời văn dí dỏm, nhẹ nhàng, thông minh, duyên dáng của người vợ miền Nam của anh.
Ngô Xuân Vũ
Nguồn: www.quocgiahanhchanh.com
Gửi ý kiến của bạn