6:25 SA
Thứ Sáu
3
Tháng Năm
2024

QUÊ HƯƠNG CÒN ĐỌNG NỔI BUỒN - BỌT BIỂN.

23 Tháng Năm 201212:00 SA(Xem: 22625)

 QUÊ HƯƠNG CÒN ĐỌNG NỔI BUỒN

 Tôi về đến quê thì đã xế chiều. Xe qua cầu Rạch Tre, lòng tôi dâng trào nỗi xúc động trùng phùng. Quê hương thời thơ ấu đây rồi…

 Hàng cây bằng lăng hai bên đường dẫn vào thị trấn Uyên Hưng nay đã lớn, xòe tán rợp đường. Hoa tím bằng lăng một thời kỷ niệm yêu thích trong tôi, đang lan tỏa hương thơm như mừng đón đứa con xa vừa về đến quê nhà. Bằng lăng là loại cây gổ khá tốt, hoa màu tím đặc biệt có rất nhiều ở Tân Uyên. Mọc tự nhiên ở truông Bằng Lăng, Truông Đông, Trũng Chẳn, suối Tổng Nhẫn, suối Tố Hoa, mọc rải rác dọc sông Đồng Nai, sau nầy được trồng ở dốc Bàn Tay và các con đường của thị trấn Uyên Hưng. Quê hương sau nhiều năm xa cách, dường như có nhiều thay đổi mà tôi mơ hồ cảm nhận được.

 Đi lang thang suốt con đường xuyên qua thị trấn lên đến ngả ba Mười Muộn (Hiệp Hưng), mà tôi cứ ngỡ mình đang dạo phố đêm ở Hồng Kông, Thượng Hải hay một thành phố nào của Trung Quốc! Dưới tàn cây bằng lăng, đêm quê tôi toàn một màu đỏ, đỏ rực từ cờ xí, biểu ngữ thi đua lao động sản xuất mừng xuân, cùng hàng ngàn lồng đèn đỏ giăng qua lại suốt con đường trong thị trấn. Lồng đèn đỏ có hình hai đứa bé mặc “áo xá xẩu, đội nón bánh tiêu có đuôi sam Mãn Thanh và mấy hàng chữ Tàu. Tôi phải nhờ mấy Ông Tàu đọc dùm như: Cung hỉ phát tài, Tân xuân vạn phúc, Phúc lộc mãn đường, Ngũ phúc lâm môn…” Tôi không hiểu tại sao Tết của người Việt Nam, trên lãnh thổ Việt Nam mà lại treo đèn kết hoa kiểu Tàu? Vậy mà mấy “ngài” cán bộ khen dữ lắm, họ bảo là phải chi ra bạc tỷ để cho đồng bào vui xuân đó? Một người quen đã nói với tôi: “Đáng buồn nhất là thay vì dùng tiền nhập lồng đèn Trung Quốc, sao không mua lồng đèn Hội An, để giúp bà con mình có công ăn việc làm. Đúng là đáng buồn thật, họ nô lệ đến tận xương rồi còn gì!

 Quê hương tôi bây giờ có vẻ chật chội hơn với nhà cửa, phố xá; rộn rịp hơn với quá nhiều xe cộ các loại, nhộn nhịp hơn với người từ các nơi khác đến ở. Tôi bỗng dưng trở thành người xa lạ ngay trên vùng quê hương mình sống mấy mươi năm. Còn đâu cánh đồng xanh trước trường Tiểu học, với biển lúa xanh rờn chạy dài qua rừng Cấm vào đến Hố Trào. Còn đâu những khi xong mùa gặt, cánh đồng khô nẻ đất đã thành “sân bóng đá chân không”, thành nơi thả diều của lủ trẻ chúng tôi? Tất cả đã không còn nữa, nơi đây được đổ đất làm nhà, cắt lộ ngang dọc tùm lum cho cái gọi là “lầu hoá”, là “đô thị mới”. Tôi không còn tìm ra cây Cốc Mõ nơi tôi phải thức “trắng dờ con mắt” hàng tuần lễ, để lấy nước ruộng lúa…cho cái gọi là lao động sản xuất biến sỏi đá thành cơm. Bây giờ dẹp ruộng để lầu hoá kiểu nầy thì chắc là biến: xi măng cốt sắt thành…bia…” Trường tiểu học Uyên Hưng kề bên dinh Quận ngày trước đã dời lên dốc Bà Nghĩa, nơi đây giờ là “Công Viên Văn Hóa” với đầy rác chung quanh với vài cây kiểng, cũng có sân khấu ca nhạc ngoài trời, có câu lạc bộ bi da; cũng có một cây cầu giăng dây rập khuôn của cầu Mỹ Thuận thu nhỏ, nhưng chỉ để ngó mà không để đi. Thật uổng phí, không biết người đề xướng công trình nầy “bỏ túi” được bao nhiêu?.

 Tôi tìm xuống con đường dọc theo bờ sông, đây là con đường đi học thuở bé mà tôi rất yêu thích vì có nhiều bóng cây, có nhiều bến vắng rất đẹp như bến ông Tư Lịch, bến ông Hội đồng Sâm, bến đò Bình Minh…Vào những ngày có môn thủ công, thì tôi thường đi học sớm hơn, đến bến đò lặn móc đất sét “nặn tượng” rồi mang thẳng đến lớp để Thầy chấm điểm. Con đường mòn ngày xưa nay được mở rộng tráng nhựa hẵn hoi, có đèn đường soi sáng, bờ sông được kè đá thẳng tắp. Vẻ thơ mộng ngày nào đã mất vì có nhiều ánh đèn màu chớp tắt, tiếng nhạc ầm ỉ vang ra từ các dàn loa của nhà hàng, quán nhạc và hơn tất cả là tiếng gầm rú của hàng đoàn xe gắn máy, “đua nhau dí bắt tử thần” trên con lộ kinh hoàng ven sông nầy. Ngay cả cây cầu đúc nối liền Uyên Hưng với cù lao Bình Hưng, cũng luôn là nỗi lo âu hàng ngày của các bậc cha mẹ, lỡ leo lên hàng tỉ phú nhờ bán đất để cung phụng cho các “công tử miệt rẩy” ngày nay. Nói đến chuyện bán đất, cũng có lắm kẻ khóc người cười và chính tôi vẫn không ngờ được.

 Trước khi sang Mỹ, tôi cho người hàng xóm miếng đất gò trồng cây bạch đàn khoảng một mẫu rưởi. Anh nầy kẹt quá kêu em vợ bán lấy mấy chỉ vàng. Mấy năm sau, người em vợ bán lại cho người khác được gần hai tỉ đồng ( tương đương 400 lượng vàng). Vài năm sau, người nầy bị nhà nước “qui hoạch” với giá 600 triệu (tương đương với 20 lượng vàng). Ai khóc, ai cười, riêng tôi nghe lòng nhẹ tênh vì mình đã đứng ngoài vòng chiến, hay nói theo nhà Phật thì “tấm lòng mình đã được gió cuốn đi…”

 Tôi có cái thú, buổi sáng đi long nhong ngoài đường, tiện đâu tấp đó, ăn sáng rồi mới đến trường hoặc đến nơi làm việc…Những ngày tháng ở Hoa Kỳ nầy càng làm tôi nhớ, càng làm tôi thèm những buổi ăn sáng như thế. Nhưng có lẽ đây cũng là cái thú của người Việt Nam và nhất là những người Việt ly hương, rất thèm những buổi sáng ngồi tán gẫu với bạn bè ở các quán cà phê. Nhưng các bạn có biết, tôi mất gần hai giờ đồng hồ để đi từ chợ Gò Vấp ra đến Dakao, mới ăn được dĩa bánh cuốn Tây Hồ. Muốn ăn được tô hủ tiếu Hải Nam trong Chợ Lớn, khi đến nơi thì đã tới giờ ăn trưa mất rồi…Lý do là xe cộ bây giờ nhiều quá và cũng là vì người lái xe không tuân theo luật giao thông. Điều đáng nói ở đây là trong sự ùn tắc giao thông, lại là do các công trình lỡ dở không cái nào ra cái nào; nơi nầy đào mương xẻ rảnh, nơi kia mốc ụ che tôn, rào chắn tùm lum trên đường…mọi người chen chút nhau, len lỏi chạy lên vĩa hè mà đi.Trong khi đó, trên vĩa hè thì nhà nào thì mạnh ai nấy bày biện hàng hoá, buôn bán ngay cả trên đường. Các công trình nầy được mọi người gọi là “công trình của thế kỷ”. Tôi chợt nhớ lại thời chiến tranh…có lẽ đã quen đào đường, đấp mô, phá cầu, phá cống cản trở giao thông nên các “đầy tớ nhân dân” cứ thản nhiên với cảnh tượng nầy. Dưới cái nắng như thiêu đốt ở Sài Gòn, khói xe hòa bụi bặm cùng tiếng nẹt ga gầm rú của các loại xe, hợp xướng cùng hàng loạt tiếng còi inh ỏi, cảnh tượng khủng khiếp cứ diễn ra hàng ngày...

 Bà dì tôi nhà ở ngã tư Hàng Xanh, bên nầy đường, mỗi ngày Bà phải sang trông cháu dùm con gái nhà bên kia đường, vậy là mất toi mỗi tháng sáu trăm ngàn đồng tiền xích lô đưa qua lại ngày hai lượt, may mà có ông xích lô trong xóm chịu lãnh bao tháng. Tôi ngồi xích lô vào Nancy thăm ông anh, xe phải len lỏi qua các ụ cản đến đường Phát Diệm thì kẹt luôn, phải quẹo xuống Cầu Kho kẹt ụ, quẹo lại lên Nguyễn Cư Trinh, trổ ra Cộng Hoà, xuống Trần Hưng Đạo cũng kẹt, quẹo lại Trần Bình Trọng đến chân cầu Chữ Y kẹt ụ, thế là quay về…khỏi thăm vì kẹt…kẹt…

 Buổi chiều trời mát mẻ, tôi bạo gan lấy xe Honda đi với ý nghĩ mình cứ bám sát lề chạy rề rề cũng tới. Đến ngả tư đèn đỏ, tôi dừng lại. Bỗng từ đàng sau có tiếng rít thắng cùng tiếng chử thề “Đ.M…đồ cù lần, đèn đỏ mà dừng”. Tôi sững sờ nhìn theo thằng bé mặt non choẹt đang chở một con bé tóc vàng ngồi vắt vẻo phía sau, mắt lơ láo ngoái lại nheo mắt nhìn tôi như quái vật, trong khi thằng bạn trai nó đang luồn lách như làm xiếc với dòng xe trước mặt. Tôi cũng không đủ thời gian để giận thằng bé vì mãi thót ruột lo âu cho tính mạng của nó…đến bây giờ mới thấy buồn, buồn vì ai biểu “ông già chấp hành đúng luật giao thông thì là đồ cù lần”. Nghe chuyện nầy, ông anh tôi phì cười. Vậy đó chú, tôi thỉnh thoảng cũng bị tụi nó chửi hoài. Năm ngoái, tui bị tụi nó lôi xềnh xệch cả trăm mét, bị què giò phải nằm nhà mấy tháng, may mà còn mạng. Giờ cần lắm tôi mới ra ngoài, ớn qúa.

 Con đường từ Bà Rịa ra Vũng Tàu được sửa sang, mở rộng, phân đường hẵn hoi rất đẹp. Những hàng cây dọc theo đường cũng được tỉa cắt rất đẹp.Những người xử dụng xe cũng chạy lung tung gây nên nhiều tai nạn thảm khốc.Tôi bỗng chú ý hàng cây to hai bên đường có hoa vàng to hơn bàn tay đang phất phơ trước gió, cả một đoạn đường dài mấy cây số toàn là hoa mai vàng giống nhau. Bác tài xế cười bảo: “Mấy ổng quởn quá nên gắn hoa mai cao su trên cây dái ngựa hoang phí vô ích, trông không giống ai, nhưng chắc bỏ túi bộn…”

 Về thăm lại chiến trường xưa, về tìm lại các chiến hữu của tôi năm nào, những người đã từng sát cánh cùng tôi chiến đấu bao năm. Mùa hè đỏ lửa 72, đợt ngưng chiến da beo tháng 1/73, đã hai lần tôi ngụy ngả trên chiến trường; những tình thần anh dũng hào hùng, những đôi vai dũng mảnh đầy thương yêu, đã thay nhau cỏng tôi vượt qua luôn cả bãi mìn Minh Đạm. Ơi! trung sĩ nhất Lời, trung sĩ nhất Phùng, thượng sĩ Từ, hạ sĩ Tam, hạ sĩ Lạc…các anh đã lần lượt ra đi. Thiếu úy Dậu với con đàn cháu đống nay đã là cố ngoại. Hạ sĩ Vốn nay đã lụm cụm không còn nhanh nhẹn, như thuở là mủi tiền sát của đơn vị! Tôi ghé lại Long Hương tìm gặp binh nhất Toàn, đã giải ngũ từ năm 72 vì bị thương chỉ còn một mắt, nay đã là ông nội của hai cháu và là ông ngoại của ba cháu. Quá ngạc nhiên, quá mừng rở. Toàn chỉ biết ôm chặt tôi, đập thật mạnh vào vai tôi rồi cười hăng hắc, rồi nhất định giữ tôi lại với một chầu nhậu tưng bừng. Toàn đã gọi dâu, rể, con, cháu về đầy nhà để giới thiệu:“ Một người anh, ông thầy, người hùng…vì dù bị thương nặng nhưng vẫn lo tiếp cứu, đem hết thương binh ra khỏi mặt trận rồi mới gục ngả…”.

 Ghé về Phước Hải, may gặp được trung sĩ Sáu, người hạ sĩ quan tình báo của đơn vị, cũng đang bước vào tuổi 70. Đã gần 3 giờ sáng, đôi bạn già say ngất ngưởng đang kè nhau đi trên con đường ngập tràn ánh đèn mầu và trống nhạc…Cả hai đang lần đi về phía đồi cát, cố tìm lại vết tích của đồn Bờ Mía, nơi cả hai một thời chiến đấu bám trụ trên “con lộ máu” nầy, nó như lưởi dao cắt đứt đường tiếp vận của các mật khu Mây Tàu, Lộc An về Minh Đạm. Đứng trên đồn cũ giờ chỉ còn trơ lại một đồi cát. Người cựu lính già rất vui vì những vườn cây ăn trái đã san lấp các hố bom, bãi mìn, chiến hào năm xưa. Đêm thanh bình quả thật bình yên, gió biển từ hướng đồn Long Phù mang hương biển và tiếng ầm ì của sóng làm ứa nước mắt người cựu binh…nhớ về Trường Sa và các chiến hữu, kẻ còn người mất, đời quả là phù du… 

 Tôi về ngả ba Lò Vôi để đốt cho chú sáu Đỏ một nén nhang. Ngày trước, chú là nhân viên Cảnh Sát bên khối đặc biệt phụ trách địch tình, mà tôi chỉ biết chú vài lần khi dự họp nghe báo cáo tình hình. Sau năm 75, những người ở lại phải ra trình diện tập trung cải tạo, tôi nghe tin chú Đỏ đã ôm vũ khí trốn vào mật khu Minh Đạm, cùng với vài người bạn tiếp tục chiến đấu. Gần hai năm len lỏi hoạt động tại các vùng như Lộc An, Mây Tàu, Hắc Dịch, An Ngãi, Bình Giả, Cẫm Mỹ đều có dấu chân của họ. Nhóm ly khai nầy đã bị truy lùng gắt gao và lần lượt bị bắn chết. Đến năm 77 thì chú sáu Đỏ đã hy sinh, và toàn bộ nhóm ly khai tan rả. Vài năm sau, một người trong nhóm chiến đấu đã liên lạc được gia đình chú, họ lén lút đem chú về an táng âm thầm tại đây. Có người biết chú có hành động liều, họ nói chú nào là “ bẻ nạn chống trời” nào là “đem trứng chọi đá”…Mặc ai nói thế nào, riêng tôi vẫn xem chú là một người hùng, chú đã hy sinh cho chính nghĩa dân tộc.

 Tôi còn người bạn học từ thời học tiểu học, trung sĩ Trần văn Nhặt vẫn vui sống ngạo nghễ với đôi chân cụt quá gối mà ngày 30/4/75, vừa tỉnh lại, anh phải tự bò ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa. Ai đó tốt bụng đã tìm cho anh chiếc xe lăn và anh đã tự lần mò về quê. Về đến nhà, anh được biết trước đó mấy ngày, nhà anh bị trúng đạn cháy rụi, chị anh chết để lại đứa con 10 tuổi, gia đình anh phải tạm tá túc ở nhà người bà con. Mười mấy năm qua, với cây cuốc ngắn, anh đào mương liên tiếp trồng hoa, trồng rau. Anh còn học hàn thùng, gò đồ nhôm và bất cứ nghề gì để tìm kế sinh nhai. Nhìn những cục chai trên đôi bàn tay, làn da cháy nắng, mái tóc bạc sương, mấy ai có thể hình dung ra một chiến sĩ ưu tú của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngày trước. Anh vẫn ha hả cười vang khi gặp lại tôi, vẫn khề khà bên bạn bè cùng ly rượu để hát vang những khúc quân hành, những bài nhạc tình của lính bất chấp đôi chân bây giờ là hai cái ghế gổ thấp mà anh tự đóng…Có người nói anh hát nhạc vàng không sợ sao?. Anh cười nói: “Sợ chó gì, cùi thì không sợ lở, còn tao cụt rồi thì sợ gì nữa?”. Chỉ thằng cháu nội lên 5, anh nói: “Tao chỉ sợ thằng nầy thôi, bửa đó đang ngồi nhậu, nó đá trái banh bay vô bàn, tao rút ghế lên đở, nó khoái quá cứ rủ ông nội đá banh với con. Tao nói ông nội giò cẳng đâu mà đá, ông chỉ còn đủ sức bò lên giường đá với bà nội mầy thôi. Ai dè thằng nhóc, nó nói lại với bà nội nó, làm bả quê, bả cự tao quá xá…”

 Thời gian không bao giờ dừng lại, không ai có thể níu kéo lại những gì thuộc về quá khứ, dù bi thương hùng tráng, tủi nhục khổ đau. Chấp nhận cái hiện hữu hôm nay, mọi người phải đối mặt với cái vui buồn của nhau. Gặp lại tôi, cô gái giờ cũng đã gần 60, rạng rở mừng vui. Trên khuôn mặt xinh xắn ghi dấu một thời xuân sắc đã qua, vẫn không che dấu được nỗi buồn chìm sâu trong mắt. Nỗi buồn năm tháng theo thời gian vẫn không bị hao mòn mà ngày càng hằng sâu thăm thẳm trong tận đáy lòng. Mắt cô bỗng như xa xăm xám ngắt, cô nói với tôi: “Anh Hai, giá như ngày ấy…anh Danh cho em một đứa con thì hay biết mấy… cuộc đời em giờ cũng đở cô quạnh hơn”.Tim tôi như chùn đi mấy nhịp, nước mắt tôi cơ hồ như muốn trào tuôn. Tôi không thể chịu nổi hai tiếng: “giá như”! mà cô mong muốn. Tôi nhớ lại, người con gái ngất xỉu bên huyệt mộ em tôi ngày nào đã dứt khoát từ chối bao lời dạm ngỏ của những chàng trai sau nầy, để được sống trọn vẹn với tình yêu đầu đời năm xưa. Cái giá mà cô phải trả gần hết cuộc đời mình qua mối tình đầu với em tôi, mặc dù cả hai vẫn chưa có lần đính ước.

 Những vạt nắng cuối ngày còn vương lại đang buồn hiu hắt trên cành bưởi nơi góc vườn, vài sợi nắng nghịch ngượm len lén chạy ngang mặt cô…soi rọi những nét chân chim nơi cuối mắt. Tôi đã nhận ra một sự chịu đựng đớn đau, một nỗi cô đơn tuyệt vọng, một sức chống chọi với mọi thử thách quanh đời để cô được sống trọn vẹn với cuộc tình. Tôi bước vội ra hiên nhà để tránh cô nhìn thấy những giọt nước mắt tôi đang lăn dài trên má…Tôi đã khóc thật ngon lành và hình như rất lâu. Tôi khóc cho số phận ngắn ngủi của em trai tôi chỉ mới hai năm quân ngũ với số tuổi vừa ngoài đôi mươi. Tôi khóc cho phần số hẫm hiu của cô gái đơn độc mang khối tình sầu suốt mấy mươi năm. Nước mắt tôi cũng đã ẩn chứa trong lòng mình mang đầy hờn tủi trong nỗi đau vong quốc và những phiến băng phiền muộn của kiếp đời ly hương đang tan chảy trong tôi.

 Mãi lâu sau quay lại, cô gái đã đứng sau lưng tôi từ bao giờ. Cô đưa tôi xem một khung ảnh nhỏ, khung không có ảnh mà chỉ có lồng bên trong là một trang giấy tập với mấy dòng chữ…tay tôi bỗng run lên, mắt lại mờ lệ vì nhận ra nét chữ quen thuộc của em tôi đang lung linh nhạc nhòa sau lớp kiếng: “ Cho dù chỉ đôi lần ghé qua đời em… anh đã chắc chắn…một điều duy nhất. Em, chính em mới là điểm dừng tốt nhất cho anh, con ngựa hoang! Nhưng… anh không muốn để em lại giữa dòng đời mênh mông một mình. Một mình em xuôi ngược, gian truân nặng gánh đầy…một mình em đếm bước… khổ nhục trỉu oằn vai…ôm khối tình sầu vô vọng…theo thoáng hương bay, bay về hư không…” Cô cho biết những dòng chữ nầy, em tôi đã viết nơi bàn học tại nhà cô lần cuối cùng mà em tôi từ đơn vị ghé về thăm cô. Mấy tháng sau em tôi tử trận. Cô giữ trang giấy nầy bên mình như một bảo vật duy nhất mà em tôi đã để lại cho cô, và cô nguyện đến chết vẫn mang theo.

 Tôi không biết chiến tranh đã làm dang dở bao nhiêu cuộc tình và còn đọng lại đến giờ bao nhiêu khối tình thủy chung son sắt như cô bạn của em tôi. Đã 36 năm trôi qua, những gì của quá khứ sao vẫn còn đọng lại, bao nỗi phiền muộn đớn đau trong hiện tại cho kẻ ra đi cũng như người ở lại. May mắn thay! tôi vẫn còn đó một chân tình…Xin cảm ơn đời vẫn còn giữ được cho tôi những người bạn chiến đấu oai hùng. Xin cảm ơn em, người con gái Việt Nam với mối tình thủy chung đỏ thắm…Vô cùng cảm ơn em, người tình của em trai tôi, bởi trong những ngày giá buốt lạnh lẽo của mùa đông nơi xứ người, tôi còn thấy được tia nắng hồng ấm áp ở phía trước, để tôi thấy cuộc đời còn đáng sống…

 Chính em và các bạn tôi đã giúp tôi đủ nghị lực vượt qua những ngày cuối của đời mình nơi đất khách…

BỌT BIỂN.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
09 Tháng Tư 2014(Xem: 10280)
Nếu anh linh của anh còn luyến tìếc về những ưóc mơ chưa thành đạt cho dân cho nước, cho vùng đất Chương Thiện mang tên anh.
08 Tháng Tư 2014(Xem: 11350)
Người đẹp quay đầu lại nhoẽn miệng cười. Nhìn em đi ngang qua làn bụi mỏng tui thấy phận đời mình cũng chưa đến nỗi nào. Nó đang nở hậu trước mắt
03 Tháng Tư 2014(Xem: 10557)
Canh hến sao bây giờ ăn thấy rất đậm đà. Và cũng hình như có những giọt nước mắt của tôi đang rơi vào chén cơm canh hến của mình.
03 Tháng Tư 2014(Xem: 11060)
Tôi đã thấy lại quê hương qua bóng dáng Mẹ tôi, Chị tôi, Bạn tôi và rất nhiều sắc màu thân thương của hình ảnh những nơi mà tôi đã xa cách từ lâu
31 Tháng Ba 2014(Xem: 13873)
anh chị vẫn mĩm cười, tiếp tục dìu nhau trên hành trình của cuộc đời còn lại, dù ngay cả trong tận cùng cơn đau kinh hoàng của thể xác…
31 Tháng Ba 2014(Xem: 13663)
Nếu mùa Xuân bên này còn tuyết sẽ nhắc tôi nhớ bên kia là mùa hoa bưởi. Phải chi có ai gửi cho tôi cành hoa bưởi trắng từ quê nhà
29 Tháng Ba 2014(Xem: 10631)
Anh nói rằng: Nếu nàng làm được các công việc khó khăn này thì mới chứng tỏ là nàng thực sự yêu anh
28 Tháng Ba 2014(Xem: 9513)
Cảm thương con ta cho con toại nguyện. Ta cho nó bên con không rời xa nửa bước.
23 Tháng Ba 2014(Xem: 10823)
Nhưng sự xót xa, nuối tiếc nào đối với cha mẹ mình giờ cũng đều muộn màng, vì các Người đã ra đi, đi mãi không bao giờ về nữa.
23 Tháng Ba 2014(Xem: 10609)
Ông cảm thấy cổ họng mình nghẹn lại. Ngực ông phản ứng bằng một cái nấc khô khốc và hầu như chung quanh ông không có một chút dưỡng khí nào!
21 Tháng Ba 2014(Xem: 9961)
Trẻ già hai tuổi lòng như một. Tết đến, trao nhau lời chúc mừng Tổ ấm yên vui, gia thế thanh Cây vườn tươi tốt hoa viên hứng
21 Tháng Ba 2014(Xem: 49964)
sinh ngữ, văn chương và triết học. Hai lãnh vực sau đấy là phạm trù chuyên môn của thầy Nguyễn Xuân Hoàng.
15 Tháng Ba 2014(Xem: 10575)
Cửa kia năm trước ngày này Người vay hoa thắm hoa lây má hồng Người hoa giờ biết đâu trông Hoa không người, vẫn gió đông cợt đùa
14 Tháng Ba 2014(Xem: 9524)
Tôi đang bắt đầu từ những âm số của nợ nần, của những lời thị phi, của nụ cười đã tắt, niềm vui đã chết, hi vọng đã tan hoang.
08 Tháng Ba 2014(Xem: 10051)
Thật sự tôi không hãnh diện về những gì mình đã thực hiện được mà buồn vì mình không làm được gì nhiều hơn cho các em học sinh.
07 Tháng Ba 2014(Xem: 9934)
Tôi tự nhiên chảy nước mắt hồi nào không hay. Thương Mẹ nhiều mà thương ảnh không ít. Đàn ông đàng ang mà khóc Mẹ như mưa
06 Tháng Ba 2014(Xem: 10414)
Để ta đọc lại thơ chàng, con tim cũng trở lại bồi hồi. Cám ơn thi ca. Cám ơn người thơ Võ Đình Tuyết.
01 Tháng Ba 2014(Xem: 11329)
Tự dưng em ghét cơn mưa sáng nay đã chở mùa về, làm em nhớ sóng sánh đáy mắt ngày xưa làm em thẹn thùng ngó hoài xuống đất,
28 Tháng Hai 2014(Xem: 11432)
Buổi học hôm nay là buổi học hoàn hảo nhất trong năm của tôi nếu không nói là buổi học mà tôi bằng lòng nhất trong cuộc đời dạy học của tôi.
27 Tháng Hai 2014(Xem: 9825)
Thêm vào rồi lại bớt ra, Món nào ấp ủ tình xa đậm đà. Gởi Anh đôi bốt Bốt Bata , Ấm chân vững bước đạp chà gốc gai
26 Tháng Hai 2014(Xem: 10567)
Một tội ác toàn hảo không có nghĩa là không có kẽ hở nhỏ. Một kịch sĩ đại tài không có nghĩa là đánh lừa được tất cả mọi người bằng vai trò của mình
25 Tháng Hai 2014(Xem: 11056)
Cảm giác đau lòng khi nhìn thấy những tên bộ đội ngơ ngác đi giữa lòng thành phố như những thằng cả đẫn, vậy mà 1 quân lực hùng mạnh phải thất bại, những tên bộ đội quân phục nhàu nát
25 Tháng Hai 2014(Xem: 10548)
Ngày xưa ở tù là điều ô nhục trọng đại. Tuy nhiên phải làm điều tội lỗi nặng nề như trộm cướp, giết người thì mới ở tù.
25 Tháng Hai 2014(Xem: 11290)
Huy Phương yễm trợ qua ngòi bút của ông. Huy Phương nếu có đạt đích điểm lão niên thượng thọ, tôi tin tưởng tâm tư ông vẫn cảm thông vói giới trẻ, các em trẻ xông xáo vì danh dự cộng đồng, vì tiền đồ của dân tộc.
23 Tháng Hai 2014(Xem: 10282)
Những giấc mơ mang theo trong tâm khảm qua 60 năm rồi, như bóng câu qua cửa, những giấc mơ hay những hoài niệm đẹp đẽ trong tâm tưởng, vẫn còn trong thao thức dẫu có buồn.
14 Tháng Hai 2014(Xem: 12072)
một buổi tối tôi đã nhìn thấy biển đêm, nhìn thấy quê hương tôi mờ mịt. Tôi quên mất quá khứ, tôi không có tương lai. Và hiện tại? Tôi là "con chim ẩn mình chờ chết"...
14 Tháng Hai 2014(Xem: 9663)
anh bây giờ thật nhẹ nhàng và không bị bất cứ một trở ngại nào từ tấm thân tứ đại nặng nề nữa phải không anh?
13 Tháng Hai 2014(Xem: 10650)
Bài viết nầy để tưởng nhớ nhà thơ Thái Thụy Vy, người “con cưng” của Cù Lao Phố. Chúc anh an nghỉ nơi Cõi Phúc. Vĩnh viễn chia tay!
13 Tháng Hai 2014(Xem: 10698)
Được vậy, chúng ta sẽ sớm giành lại Quê Hương mến yêu, trở về làng cũ, sống lại những ngày thanh bình, ăn những cái Tết đầy hương vị như xưa.
12 Tháng Hai 2014(Xem: 9552)
Từng tuổi này rồi tại sao mình vẫn còn bâng khuâng, ước vọng và tìm hoài những ý nghĩa thật sự của hai chữ "Quê Hương" Buồn thật
08 Tháng Hai 2014(Xem: 9297)
vì thiển nghĩ không lời nào chuyên chở tình cảm sâu đậm hơn trong lúc nầy, như một lời tiễn biệt cho tôi cho bạn bè khi có thêm hai chiếc ghế còn bỏ trống…
29 Tháng Giêng 2014(Xem: 9369)
Các bạn sẽ hạnh phúc. Hạnh phúc trong tầm tay, trong sự vừa đủ, trong sự cảm thông và trong những nụ cười.
26 Tháng Giêng 2014(Xem: 10335)
chạy dài theo dòng lịch sữ hiện lên trên tờ giấy trắng trinh nguyên, những cái tên mà tui lúc nào cũng có cái cảm giác trịnh trọng đàng hoàng
25 Tháng Giêng 2014(Xem: 13615)
tôi hình dung quang cảnh Biên Hoà chuẩn bị đón xuân và Tết mà lòng cảm thấy nao nao. Những hình ảnh quen thuộc của tỉnh Biên Hòa vẫn còn đậm nét trong tôi…
18 Tháng Giêng 2014(Xem: 11199)
cùng chia sẻ tình yêu thương với những mảnh đời bất hạnh “ Thương Phế Binh QLVNCH của Tỉnh Biên Hòa”. Kính mong đựợc tất cả quý đồng hương và thân hữu đón nhận và nhiệt tình ủng hộ.
14 Tháng Giêng 2014(Xem: 10193)
Lướt mắt trên những tạp chí cũ và những tựa đề sách, tôi cố ý chờ nghe Uyên nói. Nhưng vì cô cứ lặng thinh nên sau cùng tôi phải lên tiếng:
13 Tháng Giêng 2014(Xem: 11512)
với những hành trình dài và gập ghềnh trong cuộc sống mà mình còn giữ được những tâm tình như vậy thật không phải là hạnh phúc và may mắn lắm sao?
05 Tháng Giêng 2014(Xem: 12198)
thế nào cũng có một ngày Hoàng Sa sẽ lại là của VN để cho chúng tôi dựng lại tấm bia chủ quyền, khắc tên các anh cho đời đời tưởng nhớ.
05 Tháng Giêng 2014(Xem: 10584)
Chúng tôi tự vỗ về nhau trong một thú đau thương cùng tột. Trên lưng tôi không bao giờ phai mờ dấu vết của Quỳnh và tôi cũng biết trên vùng “đồi núi” cô ít khi lặn chìm những dấu răng cuồng loạn tôi.
02 Tháng Giêng 2014(Xem: 10419)
người Việt hải ngoại không khỏi mang tiếng xấu lây khi họ đã quá bần cùng và chúng ta đi đâu cũng không dám ngẩng mặt nhìn đời
29 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 10856)
hôm nay còn lại một mình đến để tiển biệt Việt Dzũng. Xin được một lời cám ơn chân thành và cầu nguyện linh hồn Việt Dzũng an nghĩ chốn vĩnh hằng.
29 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 9924)
Thật ra Saigon lúc này đang có cuộc chiến tranh của nó. Những tin đồn đủ loại áp lực lên nỗi lo âu của người thành phố như hơi nước trong nồi súp de. Rồi xuống đường, biểu tình, phe nhóm, đảng phái, tôn giáo, truyền đơn..
27 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 11472)
Ước mong Huỳnh Thị Hy Vọng, cùng với Trần Thị Thương Nhớ, Nguyễn Thị Sài Gòn, Lê Văn Lưu Vong…biết con đường phải đi để đưa Việt Nam trở lại với vị trí "minh châu trời Đông".
22 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 11787)
Biết đến bao giờ quê hương mình sẽ được bình an, trù phú đem ấm no, hạnh phúc đến cho mọi người, để không còn những người cùng cực dầm sương
18 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 10067)
Nhớ về anh, lòng bùi ngùi. Tôi thầm mong nơi quê xa anh đang vui cùng gia đình và con cháu vui hưởng một mùa Xuân trọn vẹn hạnh phúc…
18 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 10277)
Hình ảnh em, nụ cười của em như quanh quẩn đâu đây như đưa tôi đi miết về miền xa xưa ấy. Nơi đó chỉ có em và tôi với lời yêu chưa ngỏ…
07 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 11101)
Đã hơn 35 mùa Thu đi qua nơi xứ lạ quê người. Lại thêm một năm xa xứ. Nhìn lá thu rơi, chạnh lòng nhớ đến những mùa Thu nơi quê nhà với đầy ắp kỷ niệm
05 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 11598)
Không khí chiến tranh, chết chóc ở khắp những trang thơ của một người từ những năm còn rất trẻ đã lao vào cuộc chiến triền miên bằng ấy năm. Người thanh niên có đôi mắt bướng bỉnh
04 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 11768)
Nghi ôm đầu gục xuống bàn. Hai vai nàng rung lên. Âm thanh của những tiếng nấc như tiếng thì thầm, tắc nghẹn:” bóng em tìm bóng anh đến cuối đời, có gặp?”
01 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 11122)
Hóa ra, ở quê hương anh con người bị tước đoạt nhiều thứ tự do mà tôi tưởng nó phải được tôn trọng bất cứ ở đâu, nơi nào có con người là phải được hưởng đồng đều như nhau