CÁCH XƯNG HÔ
Cách xưng hô của người Việt Nam rắc rối hơn nhiều so với các thứ ngôn ngữ khác trên thế giới. Vì tiếng Việt có nhiều nhân- xưng đại tự hơn các ngôn ngữ khác. Ví dụ: với ngôi thứ nhất, số ít tiếng Việt có ta, tôi, tao, tớ, mình, qua… Tùy vai vế, địa vị của người nói đối với người nghe, mà có những chữ: cha, con, anh, chị, em, ông, bà, bác, chú, cậu, dì, mợ, thím, thầy, cô v.v… Rồi lại còn tùy theo sự chọn lựa nhân xưng đại tự mà người nói biểu lộ tình cảm vui, giận, thương, ghét…Chẳng hạn, một người cha khi nói bình thường, xưng cha, bố, thầy, ba, tía và ngọt ngào gọi con là con. Nhưng nếu nổi giận, ông có thể đổi giọng xưng hô tao và đổi con thành mày. Hoặc một chị bán thịt ở chợ Đồng Xuân, khi cần nịnh người khác để vay tiền chẳng hạn, thì: “Bác cho em vay nóng vài ngàn, một hai hôm sẽ chạy đủ trả Bác cả vốn lẫn lời.” Nhưng nếu bạn tỏ ra khó khăn không cho vay thì: “ Ối dào! Bà kẹt thì Bà mới phải năn nỉ chúng bay. Bà mà sẵn tiền thì chả thèm phí nước bọt!”
Ngày nay ở hải ngoại, có những người Việt khi rời khỏi nước còn trẻ quá, chưa nói sõi tiếng Việt, cho nên bây giờ khi phải sử dụng tiếng mẹ đẻ, họ gặp khó khan và thường nói sai, hệt như một người ngoại quốc nói tiếng Việt vậy. Nhất là những người định cư ở những vùng không có, hay có rất ít người Việt, mà trong gia đình cha mẹ lại không bắt buộc con cái sử dụng tiếng mẹ đẻ. Ví dụ có một thanh niên lớn lên ở Luân Đôn, khi nhận điện thoại của một ông bạn của cha mẹ cậu, được hỏi cha mẹ đi đâu, cậu trả lời: “ Chúng nó đi mua sắm!” ( Chắc là cậu dịch nguyên câu “ They go shopping”)
Hiện nay trong nước cũng như ở hải ngoại, trong văn nói ít người còn dùng những cách xưng hô nhún nhường như ‘ kẻ hèn nầy’, hoặc ‘bỉ nhân’ ( tạm hiểu là quê mùa xấu xí), nhưng trong văn viết chúng vẫn được xử dụng. Đây là cách xưng hô lịch sự, người nói tự hạ mình xuống, nhận mình là “ tầm thường quê kệch”
Trong lãnh vực tôn giáo, cũng có những cách dùng chữ rất lịch sự, rất đẹp. Ngày trước, một nhà tu hành theo Phật giáo, bao giờ cũng tự nhận mình là “ bần tăng” ( người sãi nghèo), hay “ tiểu tăng” ( người đi tu nhỏ nhoi tầm thường). Còn một người tu theo đạo Lão, bao giờ cũng tự nhận mình là “ bần đạo”.
Xưa kia, ở miền Bắc, có những từ rất nôm na bình dân để nói lên từng cấp bậc của các tu sĩ Phật giáo. Để chỉ chung những người đi tu ở chùa, người ta gọi là ông sư. Mới vào ở chùa đi tu, chưa được gọi là sư mà là chú tiểu. Sau một thời gian tu học nào đó, được sự chứng giám của các bậc chức sắc trong chùa, hay của chính sư phụ mình là có đủ công tu dưỡng và đạo hạnh, chú tiểu được phong lên làm sư thầy, rồi dần dần lên sư bác, sư ông, sư cụ. Sau này, người ta thích dùng chữ Hán Việt cho nó văn vẻ nên mới thấy có những từ như sa di, đại đức, thượng tọa, hòa thượng, rồi tăng thống. Bây giờ ở hải ngoại, có nhiều tăng thống lắm cơ!
Còn ở miền Nam, người ta rất nôm na, gọi những tu sĩ Phật giáo là thầy chùa. Tại sao lại là thầy? Trong xã hội Việt Nam, để tỏ ra tôn trọng một người nào đó, có thể vì nghề nghiệp, chức vị, có thể vì kiến thức, đạo đức, người ta tôn là thầy. Ví dụ: thầy ký, thầy đội, thầy lang, thầy pháp, thầy cúng, thầy chùa. Nhưng mà: bác phó cạo, bác nông phu, thằng mõ, thằng cu li…Thế thì thầy chùa chỉ giản dị có nghĩ một “ người ở chùa, đi tu, đáng kính trọng”, chứ không phải người này là thầy của thiên hạ, có công dạy dỗ thiên hạ. Thế nhưng ta vẫn cứ thấy nhiều tu sĩ Phật giáo ngang nhiên xưng thầy vớ người đối thoại, dù người này tuổi tác đáng cha chú, còn kiến thức thì đáng “ làm sư phụ của ông thầy”. Nghe nói những bậc chân tu đầy đạo hạnh như quí hòa thượng Huyền Quang, Quảng Độ, Thanh Từ…cũng chỉ xưng tôi chứ không thấy các Ngài xưng thầy với ai cả.
Bên Thiên chúa giáo, thỉnh thoảng cũng thấy một số ông linh mục xưng cha với người khác. Tại sao một tu sĩ Thiên chúa giáo được gọi là cha? Vì khi thu phong linh mục, người tu sĩ được coi như người làm nhiệm vụ hướng dẫn, dìu dắt con chiên, người chủ chiên, “ như người cha tinh thần”. Cho nên, một linh mục hiểu rỏ chức năng của mình và nhũn nhặn, sẽ không khơi khơi “ làm cha” thiên hạ được.
Trong thời quân chủ phong kiến xưa kia, những người ngồi trên ngai vàng vốn được coi là “ con trời” (Thiên tử), đầy quyền sinh sát đối với “ thần dân” và được từ quan đến dân tôn xưng là “ Thánh Thượng”. Thế mà các vị đó cũng chỉ xưng “ Trẫm”( ta, tôi). Có những vị nhũn nhặn hơn, còn xưng “ Cô” hoặc “ Quả nhân” ( người ít đức).
Thế mới biết, cách xưng hô thực vô cùng quan trọng. Nó cho thấy rất rõ tình cảm , tư cách , đạo đức, giáo dục… của người nói vậy
VĨNH PHÚC
(Phiếm 06)